CÓ PHẢI PHỤNG VỤ LỄ MÌNH THÁNH CHÚA DO THÁNH TÔMA AQUINÔ SOẠN KHÔNG?
Giuse Phan Tấn Thành
Hôm thứ 6 vừa rồi (28/1), phụng vụ mừng lễ kính thánh
Tôma Aquinô tiến sĩ Hội thánh. Có phải thánh nhân là tác giả các kinh
phụng vụ lễ Thánh Thể không?
Truyền thống đã gán cho thánh Tôma Aquinô như là tác giả rất nhiều
kinh phụng vụ và ngoài phụng vụ. Có lẽ nhiều người chỉ biết thánh nhân
như là một nhà triết học hoặc thần học đã cung cấp cho Giáo hội nhiều
suy tư sâu sắc; nhưng ít người biết rằng người cũng là tác giả của rất
nhiều kinh nguyện, cách riêng là những lời nguyện kính Mình Thánh Chúa.
Các Sách Lễ bằng tiếng La-tinh đều đặt trong phần phụ lục hai kinh
nguyện của thánh Tôma đọc trước và sau khi rước lễ. Trước đây, tại các
giáo phận do các cha Dòng Đaminh phụ trách, các tín hữu đọc kinh này
hằng ngày. Nhưng đặc biệt nhất là truyền thống đã gán cho thánh Tôma
Aquinô là soạn giả những bản kinh phụng vụ lễ Kính Mình Thánh Chúa.
Tại sao nói là truyền thống gán cho thánh Tôma? Có phải bởi vì không chắc chắn hay sao?
Có hai lý do khiến cho các nhà phê bình sử liệu không dám khẳng định
chắc chắn. Thứ nhất, thời xưa cũng như thời nay, mỗi lần ai được Toà
thánh nhờ viết một văn kiện (thí dụ một thông điệp, một huấn thị hay một
bản văn phụng vụ) thì họ phải giấu tên chứ không được phép đánh trống
gõ mõ rao cho hết mọi người biết. Thứ hai, vào thời Trung cổ, chưa có
luật tác quyền: sau khi xuất bản một cuốn sách, tác giả không đi đăng ký
để giữ bản quyền. Ngày nay, tác quyền nhằm bảo vệ tác giả khỏi bị đánh
cắp do nạn "luộc sách"; nhưng đời xưa thì ngược lại: có người xuất bản
nhưng không dám đề tên của mình mà lại đi núp bóng một tác giả thời danh
để dễ lưu hành hơn. Từ đó có nạn "gán ghép" tác giả. Cả hai lý do đó
đều xảy ra cho phụng vụ lễ kính Mình Thánh Chúa.
Thánh Tôma có liên hệ gì đến phụng vụ lễ kính Mình Thánh Chúa?
Trước khi vào đề, nên biết là tên gọi "Lễ Mình và Máu Thánh Chúa" mới
được đưa vào lịch phụng vụ từ sau công đồng Vaticanô II (1969), còn
trước đó chỉ gọi là "lễ Mình Thánh Chúa" (Corpus Domini). Việc tôn kính
Mình Thánh Chúa đã có từ lâu đời trong Hội thánh, đặc biệt qua việc cử
hành Thánh lễ ngày Chúa nhật. Nhưng việc dành ra một ngày trong năm làm
lễ trọng kính Mình Thánh Chúa thì muộn hơn. Lễ này được chính thức thiết
lập trong toàn thể Hội thánh do sắc chiếu Transiturus của Đức Thánh Cha
Urbano ngày 11 tháng 8 năm 1264, với một nguồn gốc khá ly kỳ.
Tại sao gọi là ly kỳ?
Chúng ta đang ở trong Năm Thánh Thể, do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
tuyên bố vào dịp lễ kính Mình Máu Thánh Chúa năm ngoái (10/6/2004): đây
là một sáng kiến của chính Đức Thánh Cha lồng trong bối cảnh của Đại
Hội Thánh Thể quốc tế Guadalajara (17/10/2004) và Thượng hội đồng giám
mục thế giới họp vào cuối tháng 10 năm nay, bàn về bí tích này. Việc
thiết lập lễ Mình Thánh Chúa thì không do sáng kiến của Toà thánh, nhưng
bắt nguồn từ lòng đạo đức bình dân.
Vào thế kỷ XIII, ra như phản ứng lại phong trào Albigeois miền Nam
nước Pháp phủ nhận bí tích Thánh Thể, nhiều phong trào giáo dân ở Bắc Âu
đã cổ động lòng sùng kính bí tích này. Họ tổ chức những cuộc thờ lạy
Bánh thánh, giật chuông nhà thờ khi linh mục thánh hiến bánh và rượu, và
ban phép lành với Mình Thánh Chúa. Tại Liège (nay thuộc nước Bỉ), qua
trung gian của thánh nữ Julienne một nữ tu dòng Âu-tinh ở Mont-Cornillon
(1193-1258), họ xin đức cha Robert de Thorete giám mục giáo phận được
cử hành một lễ kính Mình Thánh vào ngày thứ năm sau Chúa nhật kính Chúa
Ba Ngôi. Ý nguyện đã được chấp thuận năm 1246, và một bản văn phụng vụ
đã được soạn ra.
Vào năm 1252, vị sứ thần Toà thánh bên Đức, hồng y Hugues de Saint
Cher, dòng Đaminh, cảm kích trước những buổi cử hành trọng thể ở Liège,
đã cho phép mở rộng việc cử hành lễ này trên toàn thể lãnh thổ nhiệm sở
của mình. Trước khi đắc cử giáo hoàng (1261-1264), đức Urbanô IV nguyên
là một giáo sĩ Liège (tên thật là Jacques Pantaléon) đã tham dự nhiều
cuộc rước kiệu tại Liège, và cũng đã nhận được thỉnh nguyện cho phép cử
hành lễ kính Mình Thánh Chúa trong toàn thể Hội thánh. Đang khi còn suy
tính thì xảy ra một biến cố tại nhà thờ Bolsena (cách Rôma 138 cây số):
năm 1263, một linh mục tên là Phêrô Praga (người Séc) trên đường hành
hương Rôma, đang khi dâng Thánh lễ thì nổi lên lòng nghi ngờ về việc
bánh rượu biến đổi thành Mình Máu Thánh. Thế rồi cha thấy máu thánh chảy
lênh láng trên khăn thánh.
Tiếng đồn lan ra, và dân chúng tổ chức rước khăn thánh về nhà thờ
chánh toà Orvieto (cách đó không xa), nơi ĐTC đang cư ngụ. Phép lạ này
đã thúc đẩy việc thiết lập lễ Mình thánh Chúa trong toàn Hội thánh, với
sắc chiếu Transiturus ngày 11/8/1264 như đã nói.
Nhưng lễ này có liên quan gì đến thánh Tôma không?
Có chứ. Vào lúc đó, thánh Tôma đang dạy học ở Orvieto, nơi dòng
Đaminh có học viện. Vì thế nếu thánh Tôma được mời soạn bài lễ phụng vụ
thì cũng không gì lạ. Ắt là ngài cũng được cung cấp những bản văn đang
lưu hành ở Liège. Tuy nhiên, như đã nói trên đây, soạn giả các bản văn
phụng vụ (cũng như các văn kiện Toà thánh) không ký tên vào tác phẩm của
mình. Mãi đến năm 1312, một tác giả lịch sử Giáo hội tên là Tolomeo da
Lucca mới tiết lộ danh tánh.
Từ đó trở đi, các người viết tiểu sử thánh Tôma đều lặp lại nguồn tin
đó. Thế nhưng vào thời cận đại, thì người ta đòi xét lại toàn bộ vấn
đề, nghĩa là đòi hỏi phải có chứng cứ chắc chắn. Theo các nhà phê bình,
mẩu tin của ông Tolomeo tiết lộ cách xa thời sự gần nửa thế kỷ, và không
có nguồn nào khác để kiểm chứng. Thực ra, cũng đừng nên quên rằng tuy
lễ Mình Thánh Chúa được thiết lập vào tháng 8 năm 1264, nhưng đức giáo
hoàng Urbanô IV băng hà vào đầu tháng 10 cùng năm, cho nên sắc chiếu
chìm trong quên lãng, cho đến khi họp công đồng họp tại Vienne (từ tháng
10 năm 1311 tới tháng 5 năm 1312) đức thánh cha Clementê V mới nhắc đến
văn kiện đó.
Các bản văn phụng vụ lễ Mình Thánh Chúa do thánh Tôma soạn ra có giống như bản văn đang đọc hiện nay không?
Từ thời thánh Tôma đến nay, Giáo hội đã có nhiều cuộc cải cách phụng
vụ, với nhiều thêm hoặc bớt các bài đọc, các thánh vịnh. Tuy vậy, có vài
bản văn được duy trì, chứ không thay đổi, chẳng hạn như các lời nguyện
trong Thánh lễ, các thánh thi trong phụng vụ Giờ kinh. Người ta có thể
nhận thấy bàn tay của thánh Tôma khi đối chiếu nội dung các bản văn đó
với tư tưởng về bí tích mà thánh nhân trình bày trong sách Tổng luận
thần học. Dĩ nhiên là thần học trong bản văn phụng vụ thì cô đọng, chứ
không thể quảng diễn chi tiết như trong một khảo luận. Dù sao, có lẽ bản
kinh sâu sắc nhất không phải là lời tổng nguyện, mà là điệp ca Tin mừng
kinh chiều II, được Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo trích lại nguyên
văn ở số 1402: "Ôi yến tiệc Mình và Máu Thánh, Chúa Kitô thành lương
thực nuôi ta! Tiệc nhắc nhở Người đã chịu khổ hình và đổ đầy ân sủng
xuống cõi lòng nhân thế; tiệc bảo đảm cho ta một ngày mai huy hoàng rực
rỡ". Thánh thể được ví như một bàn tiệc, nhìn dưới ba chiều kích hiện
tại, quá khứ, tương lai. Trong hiện tại, đây là bàn tiệc nuôi dưỡng
chúng ta như lương thực, và ban cho chúng ta ân sủng, nghĩa là sống
trong tình nghĩa với Chúa. Chiều kích quá khứ được nhắc đến như là
"tưởng niệm cuộc khổ hình Đức Kitô", tức là hy lễ trên thập giá. Chiều
kích tương lai của bí tích được diễn tả qua từ ngữ "bảo chứng của vinh
quang", nghĩa là sự thông hiệp sung mãn với Thiên Chúa.
Phụng vụ lễ kính Mình Thánh Chúa cũng gồm các thánh thi nữa. Như vậy thánh Tôma cũng là thi sĩ nữa hay sao?
Không biết nên gọi thánh Tôma là thi sĩ hay nhạc sĩ, bởi vì ba bài
thánh thi đọc ở giờ Kinh Sách, Kinh Sáng, Kinh Chiều đều được phổ nhạc,
đó là chưa kể Ca tiếp liên trong Thánh lễ Lauda Sion Salvatorem. Rất có
thể là thánh Tôma dựa vào các thánh thi đã có sẵn, và biến đổi các lời
cho hợp với thần học về bí tích. Trong số những thánh thi ngày lễ, bài
thánh thi Kinh Chiều Pange lingua gloriosi quen thuộc hơn cả, bởi vì
được hát trong các cuộc rước kiệu Mình Thánh Chúa, và cách riêng là hai
đoạn chót Tantum ergo sacramentum. Trước đây chúng ta có bản dịch trong
sách Toàn niên Kinh nguyện ("Chúng tôi kính lạy Mình thánh rất sang
trọng, Máu Thánh rất châu báu vô cùng"). Sách Giờ kinh Phụng vụ đã dịch
lại với ngôn ngữ hiện đại hơn, và cố gắng duy trì thể thơ. Thánh thi gồm
có 6 đoạn, mỗi đoạn 6 câu trong nguyên bản La-tinh, nhưng trong bản
dịch Việt ngữ chỉ còn 4 câu. Đoạn thứ nhất là lời mời gọi hãy ca ngơị
mầu nhiệm Mình rất vinh hiển và Máu châu báu đổ ra làm giá chuộc muôn
dân bởi người con của phụ nữ cao vời và cũng là Vua muôn dân.
Đoạn thứ hai khai triển niềm tin về thân thế và công trình của Đức
Kitô: "Người đã được trao ban cho chúng ta, Người đã sinh ra cho chúng
ta từ đức Trinh nữ thanh khiết; Người đã sống giữa trần thế gieo vãi hạt
giống Lời Chúa; Người kết thúc cuộc lữ hành dương thế bằng một việc
tuyệt diệu", sẽ được mô tả trong hai đoạn Ba và Bốn. "Trong đêm Tiệc Ly,
lúc ngồi bàn cùng với các anh em, sau khi đã tuân giữ nhưng thủ tục
luật cũ quy định, Người đã tự tay trao hiến mình cho 12 môn đệ. Lời Nhập
thể bằng một lời đã đổi bánh thực trở nên thịt của mình; và rượu trở
nên Máu của Chúa Kitô: cho dù giác quan ngỡ ngàng đi nữa, nhưng duy đức
tin đã đủ để củng cố cho tấm lòng chân thành". Hai đoạn 5 và 6 họp thành
bài hát Tantum ergo, rút ra hệ luận thực hành từ niềm tin đến thờ lạy
chúc tụng: "Nào chúng ta hãy cúi đầu thờ lạy bí tích cực trọng; nghi
thức cũ đã nhường chỗ cho nghi thức mới; ta hãy lấy đức tin bù vào khiếm
khuyết của giác quan". Theo các nhà phê bình, đoạn chót không do thánh
Tôma sáng tác, nhưng lấy lại từ vinh tụng ca của một thánh thi lễ thánh
Agnès.
0 Nhận xét