Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương nơi cuộc đời thánh Martinô

01:46 |
Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương
nơi cuộc đời thánh Martinô

Nguyễn Trọng Viễn, OP.

Trong số Thời Sự Thần Học 56 mới đây, nhằm mừng kỷ niệm 50 năm tu sĩ Martino de Porres được phong hiển thánh, chúng ta đã được linh mục Phan Tấn Thành trình bày tóm tắt những quan niệm thần học về chữ caritas, dựa theo hai thông điệp của đức Bênêđictô XVI, Deus caritas est và Caritas in veritate. Những quan niệm này, theo ba song luận “eros-agape”; “caritas-veritas”; và “caritas-justitia”, đã được phân tích khá tỷ mỷ và súc tích.
Có một lối nhìn khác mà tôi thích thú hơn, đó là lối nhìn của linh mục Henri J.M. Nouwen, trong tác phẩm Những Dấu Chỉ của Sự Sống. Cha Nouwen, theo gợi ý của một người bạn chuyên phục vụ người khuyết tật, Jean Vanier, đã khám phá ba dấu chỉ đặc biệt của tình yêu Kitô giáo trong Tin Mừng : mật thiết, phong phú và xuất thần.
Có lẽ có thể nhìn một cách đơn giản hơn : trong Thiên Chúa, chân lý và tình yêu là một[1]. Rồi chân lý được gồm gói trong đức Kitô, đức Ái hay tình yêu cũng được gồm gói trong đức Kitô. Nơi Thiên Chúa, caritas và veritas là một, thì trong đức Giêsu Kitô, chân lý và đức ái cũng vẫn là một[2]; và là một trong mầu nhiệm Nước Trời. Mầu nhiệm Nước Trời thể hiện cả chân lý và tình yêu một cách phong phú vô tận và linh diệu bất ngờ. Với mầu nhiệm ấy, điều cần thiết không chỉ là nghiên cứu như một vấn đề, nhưng còn cần “chiêm ngắm”[3]. Đây là huyền nhiệm phong phú và linh diệu của Nước Trời nơi cuộc đời một con người hèn mọn nhất trong các vị thánh, và thánh nhất trong những người hèn mọn, đó là thánh Martino de Porres. Cũng cần phải nói thêm là : chân lý của Chúa ban cho ta là chân lý cứu độ; và tình yêu Thiên Chúa ban cho ta cũng là tình yêu cứu độ. Chỉ trong ý nghĩa cứu độ, chỉ trong vận hành của lịch sử cứu độ mà chân lý và tình yêu của Chúa mặc khải cho con người mới được sáng lên, sáng lên ý nghĩa huyền nhiệm. Điều này có nghĩa là chúng ta có thêm một tiêu chuẩn để phân biệt những thứ chân lý / tình yêu giả với chân lý / tình yêu thật; và để hiệp nhất những thứ chân lý và tình yêu có vẻ khác nhau nhưng lại đích thực là một trong cùng vận hành cứu độ.
1. Mầu nhiệm Nước Trời
Sám hối vì Nước Trời
Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai bằng lời loan báo Mầu nhiệm Nước Trời, và Ngài cũng cho thấy cách thức để đi vào mầu nhiệm ấy chính là sự sám hối.
“Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói : "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc 1,14-15)
Tại sao phải sám hối ? Sám hối là từ bỏ tội lỗi, sám hối là thay đổi lối sống, nhưng sâu xa hơn hết, sám hối là thay đổi não trạng, thay đổi cách nghĩ. Đó là vì mầu nhiệm Nước Trời luôn là điều bất ngờ có tính cách đảo ngược. Chẳng phải chỉ những người Do Thái thời Chúa Giêsu cần phải sám hối, thay đổi não trạng để có thể “hiểu” được Nước Trời, nhưng chính Hội Thánh trong suốt hành trình của mình, cũng như mỗi người Kitô hữu, trong suốt hành trình tâm của mình, vẫn luôn phải sám hối, vẫn luôn phải nhờ Thánh Thần Chúa để có thể thay đổi não trạng.
Có lẽ đây là một điều mà người Kitô hữu hiện nay phải lưu ý nhiều. Với đa số người tín hữu, sám hối bị giản lược thành bản so sánh đời sống hằng ngày với Thập Điều của Cựu Ước. Với những linh mục, tu sĩ, hình như người ta lấy việc học hỏi, nghiên cứu để hiểu Nước Trời hơn là một sự rộng mở để Thánh Thần Chúa thay đổi não trạng. Nếu nghiên cứu và học hỏi có thể cho ta hiểu được một phần nào mầu nhiệm Nước Trời, thì sức mạnh để đi vào Nước Trời vẫn luôn là ân sủng, vẫn luôn bắt nguồn từ chính tình yêu và chân lý cứu độ được Thánh Thần khai mở ra cho Hội Thánh và cho mỗi người tín hữu. Chính vì thế mà một con người hèn mọn như thánh Martinô lại có thể biểu lộ mầu nhiệm Nước Trời rõ rệt hơn hết trong một tu viện Đa Minh cũng như nơi thành phố Lima thời ấy.
Quả thật, nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy rõ tính mầu nhiệm Nước Trời luôn có tính cách đảo ngược. Từ việc Ngôi Lời trong vĩnh cửu nay trở nên xác phàm, từ việc Chúa chọn đức Maria, một cô gái đồng trinh, vô danh tiểu tốt, để làm mẹ, từ việc Chúa chọn một gia đình dân thường chứ không phải gia đình quyền quí, và chọn sinh ra trong hang đá bò lừa… cho đến Bài giảng trên núi; cho đến cung cách thể hiện “lòng nhân chứ không phải lễ tế” (Mt 9,13); cho đến lời dạy về quyền bính trong cộng đoàn Hội Thánh; cho đến những giáo huấn trong diễn từ cáo biệt; và cho đến cách người đi vào cuộc Tử nạn–Phục sinh…., tất cả đều là một sự đảo ngược kỳ lạ đối với cách nghĩ thông thường của con người. Ta có thể nói được rằng ai không thấy được tính đảo ngược của Chúa, thì cũng chưa thấm nhuần mầu nhiệm Nước Trời. Trong khi đó, cám dỗ của con người luôn là muốn thích nghi, thoả hiệp Nước Trời với nước thế gian, nước thế gian trong cách nghĩ đầy lý lẽ của mình, nước thế gian trong lối sống tà tà của mình, nước thế gian trong cơ chế tổ chức của cộng đoàn hay của chính Hội Thánh, nước thế gian trong những giá trị hão huyền như danh giá,…
Nước Trời mời gọi sám hối, mời gọi người tín hữu liên tục sám hối, mời gọi chính cơ chế Hội Thánh hay cộng đoàn sám hối. Nếu sống đức tin, theo tinh thần Vatican II, là sống đời mình như một lịch sử ơn cứu độ, nghĩa là sống chính lịch sử đời thường của mình trong sự sám hối cách nghĩ, cách chọn giải pháp, cách phản ứng… của mình trong sự so chiếu với mầu nhiệm Nước Trời, thì ta lại càng thấy rõ tính cách thiếu sám hối chân chính, cả nơi những nhà nghiên cứu Kinh Thánh, “đấng bậc” cũng như nơi đời sống người tín hữu nói chung. Nước Trời là một sự đảo ngược, nên cần thiết phải có một phương thức đảo ngược cách nghĩ, một lòng sám hối chân thực (métanoia) để đi vào Nước Trời.
Mầu nhiệm đảo ngược căn bản chính là mầu nhiệm Thập Giá. Thập giá xưa kia là sự điên rồ đối với người Hy Lạp, là sự chướng kỳ đối với người Do Thái, thì ngày nay, Thập Giá vẫn luôn là những khác biệt mang tính đảo ngược đối với cách nghĩ cũng như thực tế cuộc sống xã hội và Giáo Hội, ở đây và lúc này.
“Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. (1 Cr 1, 22-23 )
Tại sao lại đảo ngược ?
Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong cách nói của ngôn sứ Isaia : đường lối của Chúa vượt cao hơn đường lối của con người (Xc. Is 55,9). Đường lối của Chúa cao hơn không phải chỉ vì Chúa khôn ngoan hơn, nhưng còn là vì Thiên Chúa yêu thương nhiều hơn, tình thương lớn hơn của Chúa vượt quá cách suy nghĩ tầm thường của con người. Như đã nói, nơi Thiên Chúa, chân lý và tình yêu là một; nơi đức Kitô, chân lý và tình yêu là một; nơi mầu nhiệm Nước Trời, chân lý và tình yêu cũng là một. Tính cách hoà hợp đó cũng thể hiện nơi những gì được sáng tạo trong Ngôi Lời có từ muôn thuở và sứ điệp Nước Trời của đức Giêsu. Tính cách hoà hợp ấy cũng thể hiện trong mầu nhiệm cứu độ mà những ai biết Chúa Cha thì cũng biết Chúa Giêsu… Thế nhưng, con người đã không dễ dàng thấy được sự hoà hợp ấy, nên đã phân ly những gì Thiên Chúa đã nối kết; để rồi nhân danh chân lý để làm những điều phản lại tình yêu, hoặc nhân danh tình yêu để làm những điều sai trái.
Làm sao giữ được nét hoà, nét duy nhất giữa chân lý và tình yêu ?           
Chúng ta có thể thấy một chút ánh sáng hướng dẫn khi nhìn lại sự tiến triển về quan niệm mạc khải từ công đồng Vatican I đến Vatican II. Trong khi, đối với Vatican I, mạc khải là Thiên Chúa mạc khải những chân lý vô ngộ của Ngài, thì đối với Vatican II, mạc khải lại là mạc khải chính bản thân của Chúa.
“Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài {X. Ep 1,9}. Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa {X. Ep 2,18; 2P 1,4}. (MK 2)
Chúng ta cũng biết, Vatican II đã thêm vào một phương thức mạc khải của Thiên Chúa, Thiên Chúa không chỉ mạc khải bằng Lời, nhưng còn bằng hành động. Cả Lời cũng như hành động của Thiên Chúa đều chỉ là mạc khải chính bản thân Ngài. Nơi bản thân Ngài, chân lý và tình yêu là một, và trong mạc khải cứu độ của Ngài, chân lý cứu độ cũng như tình yêu cứu độ chỉ là một.
“Công cuộc mạc khải này được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau. Nên các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi bày tỏ, củng cố giáo lý và những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói thì công bố các việc làm và khai sáng mầu nhiệm chứa đựng trong đó. Nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn thể mạc khải” {MK 2a}.
Thật ra, con đường của triết gia Parménide (khoảng 540-470), đồng nhất hữu thể với tư tưởng, để rồi triết lý chỉ việc ráp nối các tư tưởng, chính con đường đó đã chia lìa, phân đôi mọi thực tại, lãnh vực lý thuyết dần dần khác với lãnh vực thực hành; rồi đến một lúc nào đó, lãnh vực siêu hình lại trái ngược với lãnh vực luân lý. Ngược lại, từ tư tưởng của Héraclite (khoảng 540-475), người ta thấy rằng : ở đỉnh cao minh triết, siêu hình và luân lý đồng nhất với nhau; còn ở đáy sâu của thứ triết lý vụn vặt, thì siêu hình[4] khẳng định một đàng, luân lý lại đòi hỏi một đàng khác. Đó cũng là con đường lãng quên hữu thể của triết học Tây phương.
Cũng gần giống như vậy, chính con đường xa rời “bản thân Chúa”, khiến cho chân lý và tình yêu xa rời nhau; khiến cho nhiều khi ta muốn thực hành chân lý thì lại thấy ngược với đức ái, và nhiều khi thực hành đức ái thì lại ngược với chân lý.
Cuộc sống nhân trần thì không có sự đồng nhất tất nhiên giữa hai lãnh vực khác nhau, không có sự hoà hợp dễ dàng giữa chân lý và đức ái, nhưng người tín hữu thì, đúng ra, chỉ có một điều cần thiết mà thôi, đó là chọn Chúa Giêsu, theo Chúa Giêsu. Chính bản thân Chúa Giêsu là Đường, là sự Thật và là sự Sống (Xc. Ga 14,6), chứ không phải một con đường nào, một sự thật hay sự sống nào khác. Người Kitô hữu chọn Chúa Giêsu thì chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất, đó là muốn những gì Chúa muốn, làm những gì đẹp ý Chúa… Cũng thế, Thánh Thần, trong Tân Ước, không còn được hiểu là một năng lực mà người tín hữu có thể chiếm hữu và “cất trong túi”, nhưng là một Đấng mà người tín hữu chỉ có thể sống-với, để cho Ngài đồng hành và để Ngài “nói” khi ta phải ra trước “công hội” (Xc. Mc 13,11).
Có con đường của thánh Thomas, thiết tha đi tìm chân lý của Chúa, nhưng vẫn luôn là khát vọng “con chỉ cần chính Chúa” như lời Thomas trả lời với Chúa trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời; và có con đường của Martinô, khởi đi từ tình thương, khám phá lòng nhân ái của Chúa đổ xuống những người cùng khổ, và chính cách thức sống ấy trở nên một sự cật vấn cho những người chỉ biết có một thứ chân lý khô khẳng. Cả hai con đường đó đều là con đường tìm kiếm chính Chúa, tìm kiếm Nước Thiên Chúa, cả hai đều là phương thức thể hiện con đường “tìm kiếm Nước Thiên Chúa” trước hết (Xc. Mt 6,33). Đây chính là con đường của những vị thánh, khác với con đường của những học giả hoặc những người làm việc xã hội thuần tuý. Con đường tìm kiếm Thiên Chúa, “tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước” sẽ đưa các thánh vượt qua những đối lập trong thế giới con người, để hoá giải những đối lập ấy trong chính bản thân của Chúa Giêsu. Cái “trước” ở đây không phải chỉ theo nghĩa thời gian, nhưng là một sự ưu tiên, một sự nắm chắc lấy chính Chúa trong nỗi thiết tha đi tìm “Danh Cha, Nước Cha và Ý Cha”. Những gì Ngài sẽ ban cho sau cũng không phải chỉ là của cải, không phải chỉ là sự thành đạt, nhưng còn là nét hoà trong chân lý và tình yêu mà trước đó ta chưa thấy được. Như thế, ai đó gắn bó với bản thân Chúa Giêsu và thiết tha đi tìm Nước Thiên Chúa thì vẫn có thể hoặc “đào bới sách vở”, hoặc “lấy đường phố làm phòng tu”.
Từ nẻo đường của Martino, chúng ta có thể tìm ra động lực sám hối bằng con đường tình yêu. Thay vì những hiểu lầm của người Do Thái về Đấng Mêsia quyền lực cũng như về mầu nhiệm Nước Trời như vương quốc trần gian, người Kitô hữu có thể khám phá thấy trong mầu nhiệm Nước Trời có động lực của mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa luôn cao hơn cách nghĩ của con người. Chúng ta có thể chiêm ngắm huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nước Trời, xét như một sự đảo ngược cách hiểu của con người, để rồi nhận ra chính tình yêu thương lạ lùng của Thiên Chúa là căn nguyên tạo nên mọi sự đảo ngược ấy. Tình yêu Thiên Chúa trở thành một thách đố với cách hiểu thông thường, và thôi thúc sám hối. Sám hối là sám hối vì tình yêu Thiên Chúa và sám hối là thay đổi não trạng để hiểu huyền nhiệm tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, vì chính huyền nhiệm tình yêu cứu độ của Thiên Chúa như một bóng dáng bao trùm và ẩn khuất trong mầu nhiệm Nước Trời.


[1] Xc. T/đ Caritas in veritate, s.1. Xin nói thêm : Deus caritas est / Deus veritas est. Như vậy, nói đùa theo kiểu ngắn gọn hiện nay : Deus Ca-ve-ritas est; mà cave lại có nghĩa là gái bao !!!, một loại người hèn mọn được Chúa yêu thương và dẫn dắt đến chân lý cứu độ. Đây là “lý luận” kiểu huyền nhiệm !!!
[2] Xc. T/đ Caritas in veritate, s.1.
[3] Gabriel Marcel cho chúng ta thấy sự khác biệt của “huyền nhiệm” và “vấn đề”. Người ta thường hay tưởng lầm nhiều điều thuộc lãnh vực huyền nhiệm nhưng không được chiêm ngắm mà lại được mang ra giải quyết như một vấn đề.
[4] Siêu hình, hiểu như là điều căn cốt của một tôn giáo, triết lý hoặc một tổ chức nào.
Xem thêm…

Sống ơn gọi Giảng Thuyết theo gương thánh Martinô (tiếp theo)

01:43 |
Sống ơn gọi Giảng Thuyết theo gương thánh Martinô
 (tiếp theo)

Nói với Chúa trong tình mến
Ngay từ thuở niên thiếu, thánh Martinnô đã khao khát cuộc đời hoàn thiện, khao khát chiêm ngưỡng Chúa và sống trọn vẹn cho Chúa. Khi bị người cha đẻ từ chối, thánh nhân đã tìm được người Cha giàu lòng nhân ái, rất mực yêu thương, là chính Thiên Chúa. Mỗi ngày thánh nhân tranh thủ thời gian để được gần gũi Chúa, chiêm ngắm Chúa Giêsu Thánh Thể trong nhà chầu. Ở nơi đó, thánh nhân tâm sự với Chúa, nói với Chúa về cuộc đời trần gian, về những ưu tư của cuộc đời và những con người nghèo khổ trong thế giới.
Có lẽ trong những lúc thưa chuyện với Chúa, thánh Martinnô cũng nói với Chúa về người cha của mình trong tình thương mến. Không phải Người “kể tội” người cha “bội bạc” của mình, cho bằng Người cầu xin Chúa biến đổi tâm hồn ông và mở mắt tâm hồn để ông nhận biết tình thương Thiên Chúa dành cho ông qua cuộc đời, qua gia đình và qua những người con. Đó là qùa tặng quý báu, là hồng ân của Chúa trao ban, nhưng ông đã không biết đón nhận mà đành tâm chối từ. Như thế, thánh nhân càng thương thay cho người cha của mình. “Khi lên tám tuổi, Martin có gặp thân sinh mình, nhưng ông vẫn không nhìn con, và còn khinh bỉ như trước. Em rất buồn nhưng không khóc, chỉ chạy đến cùng Chúa và phó thác cuộc đời trong tay Người như người cha nhân lành... Đã sẵn có lòng thương người tha thiết, Martin chẳng những không oán ghét người cha tàn nhẫn, trái lại còn quí mến và luôn cầu nguyện cho người.”[1]
Có lẽ thánh Martinnô đã phải thao thức lắm để nhiều đêm Người thưa chuyện vãn với Chúa không phải vì cảnh tượng đau buồn khi tuổi thơ của Người chứng kiến cảnh “Nhìn thấy ai ai cũng đều vui bên mẹ cha, giọt lệ em rơi hoà chung với nỗi buồn bước đi trong chiều mưa.”[2] Nhưng, thánh nhân thao thức cho sự vô tâm của xã hội, của con người, của sự phân biệt màu gia, chủng tộc mà quên đi trách nhiệm và bổn phận của con người, sự liên đới với nhau, vô tình đã làm nên nhưng cảnh sống vô cùng bi thảm.
Có lẽ thánh Martinnô cũng không xót xa cho gia cảnh “mẹ góa, con côi” nhà mình, cho bằng Người thương cho số phận những con người bị xã hội ruồng rẫy, gạt ra bên lề, những con người cùng chung số phận với Người: những người nghèo khổ đầy đường đầy chợ, những con người bệnh tật đau thương, cơm không có ăn, áo không có mặc, thuốc không có uống... đâu cũng thấy khổ và khổ, khiến thánh Martinô động lòng trắc ẩn và càng thao thức hơn trước những cảnh đời như thế. Như Đức Giêsu xót thương dân chúng lầm than, khổ cực, khi Ngài “Thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.”[3] Thánh Martinô đã có cùng một sự chạnh lòng như thế!
Và hơn nữa, thánh Martinnô không oán hận hay than trách những con người đã gây nên thương đau cho xã hội, cho con người như thế; trái lại, thánh nhân yêu thương họ, cầu nguyện cho họ, nói với Chúa về họ, về tương lai và phần rỗi của họ… Chính những thao thức, những lời tâm tình của thánh Martinnô với Chúa, và chính sự động lòng trắc ấn của thánh Martinnô, Chúa đã biến đổi cõi lòng người thế. Điều này được minh chứng cụ thể nơi người cha ruột của thánh nhân khi đón nhận lại người con của mình. “Nhận thấy cách ăn ở nết na của hai mẹ con bà Anna. Don Juan bị lương tâm cắn rứt, rồi không bao lâu, ông giác ngộ, nghĩ đến tình phụ tử, nhớ đến bổn phận làm cha. Thế là ông sám hối và thân hành đến đón con về ở với mình.”[4]
Qua một chi tiết cụ thể đó, chúng ta cũng thấy được phần nào giá trị và sức mạnh của lời cầu nguyện. Chỉ có Chúa mới có thể biến đổi tâm hồn con người. Lời cầu nguyên chân thành của thánh Martinnô đã vượt thắng sự ích kỷ của con người.
Nếu như thuở thiếu thời thánh Martinnô đã có một sự khát khao “nói với Chúa” đặc biệt như thế, thì khi lớn lên, nhất là khi đã là tu sĩ Đaminh, thấm nhuần tinh thần của cha Tổ phụ dòng, thánh nhân càng gia tăng lòng yêu mến Chúa và nhu cầu “Nói với Chúa” càng nhiều, khi chứng kiến nỗi khổ của nhân gian. Vì lẽ đó, Chúa đã thấu hiểu cõi lòng thánh Martinnô mà thi thố quyền năng Ngài nơi người con thảo của Chúa qua vô vàn phép lạ thánh nhân đã thực hiện để “cứu nhân độ thế”. Nhờ đó cuộc đời Người như là “tấm bánh bẻ ra” trao tặng những người cùng khốn đến với thánh nhân. “Một trong những ơn riêng Thiên Chúa ban cho thánh Martinô là ơn làm cho bánh hóa nhiều. Mỗi sáng Martinô thường ăn uống thật vội vã để có giờ tiếp đón hàng trăm người đang đợi thầy ngoài cửa.”[5]
Thánh Martinô là thế đó. Cuộc đời Người đã kết hợp nhuần nhuyễn những hoạt động cấp bách bên ngoài với nếp sống chiêm niệm bên trong. Sức mạnh thiêng liêng của thánh Martinô được kín múc từ việc cầu nguyện và hiệp lễ mỗi buổi sáng. Điều này đã giúp thánh nhân đủ sức cáng đáng tất cả những công việc trong một ngày sống. Đó là sức mạnh lớn lao nhất của Người trong vai trò tu sĩ. Chính vì thế, thánh Martinô đã sống Tin Mừng một cách triệt để giữa dòng đời: yêu thương những người bất hạnh, săn sóc những người ốm đau, bệnh tật, xoa dịu những tâm hồn đau khổ, chữa lành những vết thương thể xác cũng như tinh thần cho nhiều người. Thánh nhân ý thức rằng, mỗi lần làm như thế cho tha nhân chính là làm cho Chúa.[6]
Khi đã “nói với Chúa” về nhân gian, về những khổ đau của con người, về cuộc sống trần gian, thấu hiểu được “nhân tình thế thái” như thế, thánh Martinô được thúc đẩy, cần thiết phải “nói về Chúa ” cho mọi người để họ nhận biết, yêu mến và phụng sự Thiên Chúa để được ơn cứu độ.[7]
Nói về Chúa trong tinh thần bác ái yêu thương
Trong các hoạt động tông đồ của thánh Martinô, nỗi bật nhất là đời sống bác ái yêu thương. Bác ái yêu thương là một chứng từ sống động cho cho việc loan báo Tin Mừng. Có thể nói rằng, đỉnh cao của đời sống Kitô giáo là đạt tới Đức Ái hoàn hảo. Sống Bác ái là liên kết với Chúa thành một khối duy nhất, vì Chúa là Tình Yêu. Ngược lại, sống ích kỷ, thiếu bác ái tức là tự tách rời khỏi khối Tình Yêu Thiên Chúa, để đi vào con đường diệt vong, lang thang, tối tăm, hận thù ghen ghét muôn đời, tượng trưng bằng sự khóc lóc và nghiến răng.[8]
Thánh Martinô đã thấm nhuần điều đó! Thánh nhân đã thực hiện trọn vẹn lời dạy của Chúa qua đời sống khiêm nhu, bác ái, cảm thông và chia sẻ với những người cùng khốn trong xã hội. Người đã yêu thương và làm tất cả vì tình yêu. Người đã nhìn thấy Đức Kitô đang hiện diện nơi những người anh em da màu, nơi những vết thương lở loét hôi thối trên thân thể những người nô lệ,… Khi đặt tay băng bó những vết thương đó, là lúc thánh Martinô đang thực hiện lời dạy của Đức Kitô: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn ; Ta khát, các ngươi đã cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước. Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng ; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.”[9]
Bằng chính đời sống khiêm tốn, thánh nhân đã nêu gương cho anh em trong tu viện về lối sống của một tu sĩ Giảng thuyết, luôn mặc lấy tâm tình khiêm cung của Thầy Chí Thánh Giêsu. Bằng việc tuân giữ kỷ luật tu trì trong nếp sống Đaminh thánh nhân đã trở thành bài giảng hùng hồn cho nhân thế. Bằng đời sống đơn sơ, vui vẻ, thánh nhân trở thành bạn của nhiều người, không phân biệt già trẻ, lớn bé, giàu sang hay thấp hèn, màu gia, chủng tộc.
Từ những cung cách sống giản đơn như thế, Thánh Martinô đã không chỉ sống với Chúa, sống với anh em cách thân thiện, mà Người còn đến được với muôn người trong mọi hoàn cảnh sống. Như thánh Tông đồ, thánh Martinô cũng đã “trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người.”[10] Chính vì thế, thánh nhân đã dẫn đưa nhiều người trở về với Chúa, đón nhận Tin Mừng cứu độ.
Đời sống bác ái của thánh nhân là một bài giảng thuyết hùng hồn và có sức thuyết phục nhất. Nhờ đời sống bác ái của mình, thánh nhân đã xoa dịu biết bao vết thương nơi thể xác cũng như tâm hồn khổ đau của những người đến với thánh nhân. Giữa một xã hội phân biệt màu da và giai cấp, thánh Martinô đã hiện diện trọn vẹn tính nghèo khó, đơn sơ và yêu thương. Đây là dấu chỉ sự hiệp nhất trong Đức Kitô. Sự hiện diện của thánh nhân cho thấy Người đang đồng hành với người khốn cùng trong hy vọng và trong tình thương. Thánh Martinô đã hiểu được rằng, Chúa Giêsu không chỉ chết một lần trên cây thập tự, nhưng Ngài đang chết dần chết mòn nơi những con người đang bị khinh khi và chối từ. Chúa Giêsu vẫn còn bị đóng đinh và điệu ra pháp trường cho đến ngày Chung Cuộc.
Thánh Martinô cảm nhận được rằng, để trở thành môn đệ Chúa Kitô, không gì khác hơn là đón nhận chính cuộc sống như Chúa Kitô đã từng sống. Có nghĩa là, thánh Martinô vui vẻ đón nhận khổ đau, sự khinh miệt và nghèo hèn để Người có thể chiến thắng đau khổ trên cuộc đời này, tiêu diệt khổ đau bằng chính sự đau khổ cùng với người nghèo và nhân danh người nghèo.
“Thánh Martinô không đến với người nghèo khổ bằng một túi tiền to hoặc bằng một khả năng siêu đẳng. Martinô đến với người nghèo, trước tiên, như một người nghèo, nhưng là một người nghèo có tấm lòng. Với tấm lòng yêu thương bác ái, Martin thanh thản để cho đi những gì mình có được, để cống hiến dù chỉ một chút công sức mà mình có thể làm được. Qua những trợ giúp vật chất, Martin luôn trao tặng chính tấm lòng vàng của mình cho những người nghèo khổ, chứ không phải là sự ban bố vung vãi quyền năng dư thừa. Chính từ thái độ “trao tặng tấm lòng” như thế, Thiên Chúa trân trọng, yêu thương, đón nhận và làm cho công việc của Martin trở nên hiệu quả theo ý của Ngài.”[11]
Thánh Martinô là tấm gương sáng ngời về đời sống bác ái, yêu thương. Bằng một đời sống âm thầm, lặng lẽ, thánh nhân đã họa lại chân dung Đức Giêsu khiêm hạ, yêu thương tất cả mọi người, nhất là những người nghèo khổ. Và cứ thế, tình yêu thương đồng loại, và muông thú, cỏ cây như vết dầu loang, loang mãi để cho mầm tình yêu vươn nhánh, trổ bông và tỏa hương thơm ngát cho đời sống Giáo Hội và từng người.
Qua thánh Martinô, những mảnh đất tâm hồn cằn cỗi được tình yêu yêu thương ấp ủ để vươn dậy những chồi non đạo hạnh thánh thiện, sống tốt đời đẹp đạo, những tâm hồn bị thương tổn gặp được niềm an ủi và chữa lành, và những tâm hồn băng giá được hâm nóng niềm tin, trở nên nhiệt thành yêu mến và hăng say đời sống chứng nhân. Qua thánh Martinô, những phận đời bị hất hủi, bị lãng quên, đã tìm lại được hơi ấm tình người và giá trị của chính mình bởi sự nâng niu trân trọng của thánh Martinô.
Qua cách thức giảng truyền bằng tình thương, bằng đời sống bác ái yêu thương, thánh Martinô đã xoa dịu biết bao đau khổ do bệnh tật thể xác và tâm hồn. Nhiều cõi lòng nặng trĩu được nhẹ vơi, biết bao vết thương gãy vỡ được hàn gắn, nhiều số phận thoát cảnh bị lãng quên và biết bao tâm hồn sầu não tìm lại được niềm vui sống,… nhờ bàn tay da màu chất chứa tình yêu thương và ấm áp, thánh Martinô đã làm cho nhiều người nô lệ được sống đúng phẩm giá của con người. Hơn thế nữa, thánh Martinô đã cho thấy sự hiện diện của Chúa Kitô, “vị lương y” đầy lòng thương xót và từ tâm đối với tất cả mọi người không loại trừ một ai. Đời sống truyền giáo, lối giảng thuyết, cách “Nói về Chúa” của thánh Martinô là thế đó.
Tạm kết
Giữa dòng chảy ồn ào huyên náo của lối sống thực dụng của xã hội Lima thời bấy giờ, thánh Martinô đã chọn cho mình một cuộc sống đơn sơ khó nghèo. Giữa những lời mời gọi ngọt ngào đường mật của bao niềm vui thú nơi người trẻ phơi phới tuổi xuân thì trong nhịp sống gấp gáp vội vàng và đong đưa quyến rũ của dòng đời hối hả tìm hưởng thụ, thánh nhân đã chấp nhận khước từ tất cả để lội ngược dòng đời dấn thân trọn vẹn hơn cho Chúa và tha nhân trong đời sống tu trì. Giữa một xã hội phân chia giai cấp giàu nghèo, sang hèn, kỳ thị chủng tộc, phân biệt màu da, tiếng nói, thánh Martinô đã chọn lối sống yêu thương, hiệp nhất, phục vụ tất cả mọi người trong Chúa Giêsu. Giữa trăm ngàn nẻo đường đời tu, thánh Martinô đã chọn đời sống Trợ sĩ Đaminh trong khiêm tốn, âm thầm, lặng lẽ, hy sinh, phục vụ quên mình vì Chúa và vì phần rỗi các linh hồn.
Là một tu sĩ dòng Giảng thuyết, thánh Martinô không nói về Chúa bằng những bài giảng thuyết lừng danh, cũng không phải bằng những trang suy tư thần học cao siêu, nhưng bằng chính đời sống của mình. Thế nhưng bài giảng đó hấp dẫn và cuốn hút hơn bất cứ một bài giảng nào.
Mặc dầu thánh nhân đã sống cách chúng ta hơn bốn trăm năm, nhưng vẫn luôn có giá trị trong thời đại chúng ta hôm nay. Thế giới hôm nay còn đầy rẫy chiến tranh và hận thù, cần lắm những tấm lòng nhân ái, hy sinh quên mình như thánh Martinô. Chỉ những con người sống triệt để lối sống Tin Mừng như thánh Martinô mới góp phần xoa dịu nỗi đau, mất mát do tình trạng người bóc lột người gây ra.
Là những người con, người bạn và là người anh em với thánh Martinô, chúng ta cũng được mời gọi dấn thân, hy sinh phục vụ quên mình như thánh Martinô. Chúng ta cũng được mời gọi trở nên những Martinô thời đại. Thánh Martinô là mẫu gương tuyệt vời cho chúng ta trong đời sống thánh hiến nói chung, cách riêng là đời sống thánh hiến Dòng Anh em Giảng Thuyết.
Tá Đương, OP.


[1] Nguyễn Tri Ân, OP, Tấm lòng Vàng. Nxb. Tp. HCM, 1997, trg. 12.
[2] Nhạc sĩ Minh Khang, Đứa bé.
[3] Mt 9,36.
[4] Nguyễn Tri Ân, OP, Tấm lòng Vàng. Nxb. Tp. HCM, 1997, trg. 14.
[5] Đào Trung Hiệu, Chân dung Thánh Martinô, Tu viện thánh Alberto, 2011, tr. 28.
[6] Xc. Mt 25, 40.
[7] Xc. Mary Fabyan Windeatt, Matrinô, Bác sĩ tí hon thành Lima, Học viên Alberto, 2011, tr. 74.
[8] Xc. Mt 25,30.
[9] Mt 25, 35-36.
[10] 1Cr 9,22.
[11] Nguyễn Trọng Viễn, OP., Những trang Tin mừng mở ra trên cuộc đời thánh Martinô.
Xem thêm…

Copyright ©THT - Được biên soạn và sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau - Ghi rõ nguồn:quatangsusong.blogspot.com/ - Khi phát hành thông tin trên trang này
Gx Đaminh | Namkna | Trung Tâm Học Vấn Đaminh | Kho tài liệu hay |