Câu hỏi về đạo đức phá thai

07:13 |
Đây là một đề tài gây tranh cãi và cảm xúc. Các trang báo mạng và diễn đàn ít khi nào đề cập đến. Khi đề cập đến chỉ nói về hậu quả của hành động đó. Nhưng ít khi nào vấn đề đạo đức được hỏi.


----------
Tác giả: Dennis Prager, The most important question about abortion?, Prager University
Dịch giả: Ku Búa

Giới thiệu

''Phá thai đúng hay là sai?'' Đây là một câu hỏi lớn đang bị lạc trong một cuộc tranh luận xã hội mà chủ yếu tập trung vào cơ sở pháp lý. Nhưng, thật sự mà nói, việc hành động đó đúng hay sai mới là câu hỏi quan trọng nhất về phá thai.

Đề tài nhạy cảm

Chúng ta hãy nói về một trong những đề tài gây cảm xúc nhiều nhất có thể -- phá thai -- nhưng trong một cách không cảm xúc. Hơn nữa, cũng đừng nên đụng vào câu hỏi đã chiếm đa phần thời gian của các cuộc thảo luận về đề tài này, đó là – phá thai có nên được hợp pháp hay bất hợp pháp.

Ở đây, trong bài viết này, chỉ có duy nhất một câu hỏi đạo đức: "Việc kết thúc mạng sống của một bào thai có đạo đức không?"

Hãy bắt đầu với câu hỏi này: bào thai (thai nhi) con người có bất kỳ giá trị và quyền lợi gì hay không?

Hiện tại, việc bào thai là một mạng người là một thực tế khoa học. Những ai cho rằng bào thai không có quyền lợi cũng như đang rằng bào thai không phải là một con người. Những nếu bạn tin vào điều này, thì cũng không có nghĩa rằng bào thai không có giá trị hoặc quyền lợi.

Mạng sống và đạo đức

Có rất nhiều sinh vật sống không phải là con người nhưng có cả giá trị lẫn quyền lợi: chó và các con vật khác, để ví dụ. Và đó là Lập Luận Đạo Đức Thứ Nhất: một sinh vật còn sống không cần phải là một con người để có giá trị đạo đức và quyền lợi.

Khi bị thách thức với lập luận này, mọi người thường thay đổi đề tài và nói về những quyền lợi của người mẹ -- nghĩa là quyền của người mẹ để kết thúc mạng sống bào thai của cô ấy trong bất cứ hoàn cảnh nào, vì bất cứ lý do nào, vào bất cứ thời điểm nào trong thời gian mang thai của cô ta.

Điều đó có đạo đức không? Nếu chúng ta tin rằng bào thai không có giá trị thì không có gì để nói nữa. Nhưng trong đa số trường hợp, hầu hết tất cả mọi người đều tin rằng bào thai có giá trị vô hạn và có quyền lợi tuyệt đối để sống.

Người mẹ, bào thai và quyền lợi

Khi nào? Khi một phụ nữ mang thai muốn sinh con. Khi đó, xã hội -- và luật pháp của xã hội đó -- cho rằng bào thai có giá trị đến độ nếu một người nào đó đã giết bào thai đó, người đó có thể sẽ bị truy tố vì tội giết người. Chỉ trong trường hợp một người phụ nữ mang thai không muốn sinh con, thì lúc đó nhiều người mới coi bào thai đó không có giá trị. Hãy suy nghĩ, điều đó có hợp lý không?

Dường như là không. Bào thai có giá trị hoặc không có giá trị, chỉ thế thôi. Và đây là Lập Luận Đạo Đức Thứ Hai : dựa trên cơ sở gì chỉ người mẹ có quyền tự quyết định giá trị của bào thai?

Chúng ta chắc chắn không áp dụng lập luận đó đối với một em bé mới sinh. Xã hội, chứ không phải người mẹ hoặc người cha, mới quyết định việc một đứa trẻ mới sinh đó có giá trị và quyền để sống hay không.

Vì lẽ đó, câu hỏi ở đây là: vì sao lập luận đó lại khác trước khi một con người được sinh ra? Tại sao một con người, một người mẹ, có thể quyết định việc đứa trẻ (bào thai) đó có quyền để sống hay không?

Cơ thể người phụ nữ và bào thai

Người ta phản bác rằng người phụ nữ có quyền để "kiểm soát cơ thể của cô ta." Đúng, điều đó rất đúng. Nhưng vấn đề ở đây là, bào thai đó không phải là ''cơ thể của cô ta'', mà nằm trong người cô ta. Đó là một cơ thể riêng biệt. Và đó là Lập Luận Thứ Ba. Không có ai hỏi một người phụ nữ mang thai, ''Cơ thể của cô thế nào?" khi họ hỏi về bào thai. Người ta chỉ hỏi, ''Em bé thế nào?"

Phá thai và giết người

Lập Luận Đạo Đức Thứ Tư: hầu hết tất cả mọi người đồng ý rằng khi em bé đó được sinh ra từ bụng mẹ, việc giết chết nó là ám sát, là một hành động giết người. Nhưng việc cố tình giết chết nó vài tháng trước khi nó được sinh ra thì được coi rằng không có vấn đề gì về mặt đạo đức hơn việc một chiếc răng được nhổ ra.Điều đó làm sao có lý được?

Phá thai và đạo đức

Và cuối cùng, Lập Luận Đạo Đức Thứ Năm: Có vài trường hợp mà hầu hết mọi người -- kể cả những người ủng hộ quyền quyết định của người mẹ -- sẽ thừa nhận rằng việc phá thai có thể vô đạo đức?

Để ví dụ: việc hủy một bào thai nữ chỉ vì người mẹ ưa con trai hơn con gái – như đã xảy ra hàng triệu lần ở Trung Quốc và những nơi khác.

Và một ví dụ nữa: Cứ cho rằng khoa học phát triển một phương pháp xác định việc một đứa trẻ trong bụng mẹ lưỡng tính hoặc đồng tính. Thì liệu việc giết chết một bào thai đồng tính bởi vì người mẹ không muốn một đứa con đồng tính, điều đó có đạo đức hay không?

Người ta có thể đưa ra những lý do thiết thực để kết tội tất cả trường hợp phá thai. Người ta có thể có những quan điểm khác biệt về việc sự sống bắt đầu từ lúc nào; và về mặt đạo đức của việc phá thai trong trường hợp hãm hiếp hoặc loạn luân. Nhưng đối với đại đa số trường hợp phá thai – nghĩa là các người phụ nữ khỏe mạnh phá hủy một bào thai khỏe mạnh -- hãy nhìn rõ ràng. Đa số các trường hợp phá thai đó vô đạo đức.

Một xã hội tốt có thể tồn tại với việc con người làm những việc vô đạo đức. Nhưng một xã hội tốt không thể tồn tại nếu nó gọi những việc vô đạo đức là những việc đạo đức.

Tôi là Dennis Prager, cho Prager University.
----------

Dẫn lại theo TYVHV blog
Xem thêm…

Hãy Trút Cả Cho Người

00:44 |
Hãy Trút Cả Cho Người


Lời chúa trong thư thứ nhất của thánh Phê-rô  tông đồ


Thưa anh em, anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định.Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế. Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Ki-tô. Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường. Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn đời. A-men.



Suy niệm




Khiêm nhường – từ ngữ dường như quá quen thuộc nhưng cũng không dễ sống. Đôi khi sự khiêm nhường lại là lá bùa che chở và làm bệ  đỡ cho sự tự cao của con người. Đó là  lý do mà chúng ta được nghe câu nói: một lầm khiêm tốn bằng bốn lần tự cao.


Hôm nay chúng ta được nghe lại lời khuyến dụ của thánh Phê-rô  về việc sống khiêm nhường. Thánh nhân mời gọi chúng ta hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử  với nhau. Sự khiêm nhường thánh nhân chỉ không phải là sự tự hạ theo cách của con người nhưng đó là sự phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Người nói:


“Anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em.”


Sự khiêm nhường này khác với cách nghĩ của con người. Sự khiêm nhường của con người là để được người khác chấp nhận và được một danh dự nào đó có thể cảm nhận được. Sự khiêm nhường ấy là cần thiết song vẫn chưa đủ đối với tất cả những con người tin, đặc biệt là mỗi tín hữu Ki-tô. Sự khiêm nhường ấy là sự chân nhận những giá trị mình có và sự hữu hạn yếu đuối của con người trước mặt Thiên Chúa. Một sự phó thác và tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Như thế, chúng ta trở nên những người nghèo của Thiên Chúa. Người nghèo của Chúa là người trao phó toàn vẹn con người mình cho Chúa, tất cả những lo âu, yếu đuối và thất vọng cũng như hạnh phúc trong tay Chúa. Người ngheo ấy ý thức rằng, mọi sự chúng ta có thể chiến thắng được là nhờ ơn Chúa, nhờ đức tin. Người nghèo như thế là những con người của Đức tin, những con người luôn ý thức có Chúa đồng hành và dẫn dắt cuộc đời mình và tất cả những ai bên cạnh mình. Chính trong niềm tin ấy mà họ cũng hy vọng sự thay đổi và trở nên tốt đẹp hơn nơi những con người chưa tốt sống quanh mình. Người ấy lại một lần nữa trao tất cả cho Chúa, không chỉ có chính mình những tất cả những ai mình liên hệ. Sống như thế là sống tỉnh thức- sống tỉnh thức là sống có Chúa trong mình- có Chúa trong mình chúng ta có thể chiến thắng được mọi mưu trước cám dỗ cho dù ma quỷ, thù địch như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Người ấy tin ân sủng Chúa sẽ giúp mình chiến thắng. Chính vì thế, họ sẽ luôn dâng Chúa lời chúc tụng tôn vinh trong mọi hoàn cảnh cuộc đời.


Thật là  ý nghĩa khi trong mùa chay chúng ta được nghe lại lời khuyến dụ này của thánh Phê-rô, cũng như hôm nay chúng ta đến đây khấn thánh Martino. Quả thực, thánh Martino rất khiêm nhường và nhẫn nại với mọi người. Người không phải không có khổ đau nhưng luôn tin tưởng và phó thác vào Chúa của mình cũng là cứu Chúa mà chúng ta tin tưởng hôm nay. Chính sự tín thác ấy khiến người có thể làm được những chuyện phi thường mà trí năng con người không thể hiểu được. Điều ấy, chúng ta cảm nghiệm được ngay trong hiện tại khi tin nhận sức mạnh chuyển cầu của ngài trước tòa Chúa. Trong tâm tình đó, chúng ta cùng dâng lên Chúa những ý nguyện chân thành.



Lời cầu


Lạy thánh Martino, cuộc sống chúng con với biết bào thăng trầm, biết bao ngã quỵ . Nhiều khi tưởng chừng chúng con không trỗi dậy được nữa. Xin cho chúng con luôn biết tin tưởng và phó thác trọn vẹn trong tay Chúa vì tin rằng Chúa sẽ luôn ra tay hành động. Xin  hãy đến thì thầm và nhắn nhủ con: con ơi, hãy đứng dạy, có ta ở đây bên cạnh con, hãy giơ tay ra để ta và mẹ Maria yêu mến của con dẫn dắt con đến với Chúa Giê-su, con yêu của mẹ. Nơi  ấy, con sẽ kín múc được nguồn ân sủng dồi dào là tình thương và sức mạnh của Chúa, một sức mạnh giúp con vượt thắng tất cả và tìm ra được con đường tuyệt hảo mà Chúa chờ mong nơi con. Tất cả chỉ chờ mong con thưa lên: lạy Chúa, con ký thác đời con và tất cả những mọi người trong tay Chúa.


Lạy thánh Martio, con biết rằng, Chúa không muốn làm gì nếu không có sự tự nguyện và cộng tác của con. Xin hãy cầu cùng Chúa cho chúng con khám phá Thiên ý và mau mắn đáp trả trong tin yêu.

Giờ  đây, chúng con cũng xin dâng tất cả những ai đang hiện diện nơi đây và những người thân yêu cảu họ, cùng tất cả những ai khổ đau lên người. Xin  hãy dẫn tất cả đến với Chúa. Amen
Xem thêm…

TỰ DO ĐỂ YÊU THƯƠNG

16:49 |


Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca ( Lc 21, 25-28)

25 “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. 26 Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. 27 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. 28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.”


Suy niệm

Chúng ta đang sống trong những ngày cuối của năm phụng vụ. Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy cảnh tượng của ngày sau cùng, ngày chung thẩm, ngày Chúa quang lâm. 

Ngày Chúa đến không phải là một điều gì đó quá đỗi bất ngờ nhưng luôn có sự báo trước. Kẻ không biết thường lo lắng bất an. Kẻ biết và đọc ra dấu chỉ báo trước ngày chung thẩm sẽ rất đỗi vui mừng và tự do. Vì là người vui mừng và tự do nên họ sẽ đứng thẳng và ngẩng cao đầu. Đó là tư thế của con người luôn sẵn sàng, tư thế của người chiến thắng. Đối với chúng ta, tư thế của kẻ chiến thắng chính là tâm thế của kẻ trung kiên đi đến cùng con đường đức tin, con đường cứu chuộc. Chiến thắng của chúng ta chính là được cứu chuộc hay nói cách khác, chúng ta có Thiên Chúa nơi mình, trong mình nên chúng ta là những con người tự do.

Thánh Martino, đấng mà hôm nay chúng ta tập trung nơi đây để cầu khẩn cũng là con người tự do như thế. Martino luôn đủ tự do để yêu thương. Thứ tự do của tình yêu đã làm cho người hóa ra không và gần gũi với con người và vạn vật. Đối với người, con người là anh em, vạn vật là người bạn thân thương và Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Chính thứ tự do của tình yêu mà thánh nhân trải nghiệm giúp cho ngài, ngoài việc chuyện trò, bày tỏ tình yêu đối với Thiên Chúa, lòng thương yêu với con người còn có khả năng yêu thương và thấu cảm được sự gần gũi của vạn vật. Ước gì chúng ta có được tự do trong tình yêu của Martino, để tâm hồn và thân xác ta luôn được tự do và bình an trong mọi cảnh huống cuộc đời.

Lạy thánh Martino, xin cầu cho chúng con là những người lữ khách về nhà Cha. Xin hãy giúp chúng con luôn có tự do để yêu thương anh chị em, đặc biệt những người anh em xung quanh mình. Giờ đây, xin hãy thương nhận lời chúng con nguyện xin hiệp với những anh em đã đến với ngài, tại nơi đây trong tuần qua:
Xem thêm…

03.11.2015 - St Martinô Porres

07:03 |
03.11.2015
St. Martinô Porres, tu sĩ.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca Lc, 14,12-14. 

Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: " Khi nào các ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại. " Đó là Lời Chúa.

Suy Niệm

Trong đời thường, mấy ai cho đi mà không cần lấy lại? Người ta thường tính toán rất kỹ khi đến với nhau. " hòn đất ném đi, hòn chì ném lại". Cho đi mà không được lại thì tình thân dần dần sẽ phai nhạt, vì người ta chỉ đến với nhau khi thấy có lợi cho chính mình. 

Ngược lại, Đức Giêsu dạy: thi ân cho người mà không cần đáp trả. Làm ơn cho người không có khả năng đền đáp, cho bất cứ người nào cần, chứ không " lựa mặt ". Chúng ta đã chọn lối sống nào của người đời hay của Đức Giêsu ?

Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã sống với nhau như những người vô đạo. Chúng con tính toán, so đo, can nhắc lợi hại, sợ thua thiệt ... Cách sống của chúng con như thể không hề biết đến giáo lý yêu thương vị tha của Chúa. Giờ đây, chúng con xin Chúa thứ lỗi cho chúng con, xin Chúa giúp sức cho chúng con để chúng con can đảm và luôn nhớ thực hành những gì Chúa dạy chúng con hôm nay. Amen
 
Xem thêm…

St Martinô - Thơ

06:52 |

Lớn lên trong cảnh cơ hàn
Sống trong dư luận, lời bàn thế gian
Mở lòng đón nhận muôn dân
Học theo Thiên Chúa quên thân, bỏ mình
Gửi dân muôn vạn tâm tình
Ơn Thiên Chúa xuống ngập mình Thánh Nhân
Phép lạ đã quá nhiều lần
Bánh từ số ít được tăng gấp ngàn
Mùng ba mười một rõ ràng
Thiên Thần cất tiếng ngân vang đón mừng
Martinô vị Thánh lẫy lừng
Một lòng yếu mến tụng xưng muôn đời
Hôm nay bổn mạng Thánh rồi
Xin thương ban những một đôi ơn lành
Giúp người chọn Thánh mà theo
Được lòng yêu mến, khó nghèo hy sinh.


Xem thêm…

Thiên Chúa yêu thương người bé mọn

01:11 |
Thiên Chúa yêu thương người bé mọn

Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca

21 Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.

Suy niệm


Hôm nay chúng ta đến trước tòa khấn thánh Martino để xin con người bé mọn này cầu thay nguyện giúp cho chúng ta.

Thánh nhân thực là một con người bé mọn trong rất nhiều phương diện:

Thứ  nhất: ngài bé mọn vì là người da đen với thân phận nô lệ

Thứ  đến: ngài là con lai và bị cha bỏ rơi, như vậy thân phận của ngài càng trở nên bé  mọn hơn

Thứ  nữa: ngài là một ông thầy bình thường không học thức và làm những công việc rất tầm thường trong nhà dòng: Quả ngài là một con người bé mọn và tầm thường.

Ấy vậy, khi các sinh viên thần học không thể hiểu nổi những vấn đề thánh Tô-ma trình bày thì Ngài có thể trả lời cách trôi chảy đến nỗi, khi có vấn đề gì khó khăn, các sinh viên lại chạy đến gặp Ngài. Quả thật, thánh nhân không được học trong một ngôi trường nào cụ thể nhưng được học trong ngôi trường tình yêu thập giá. Ngài trở nên bé mọn trong lòng bàn tay Chúa và làm tất cả mọi công việc với một tình yêu diệu kỳ. Ngài đã học được tất cả sự khôn ngoan của Thiên Chúa ngay dưới chân thập giá, trong giờ cầu nguyện vì Ngài đã trao phó trọn vẹn cho Thiên Chúa tất cả công việc cũng như ước mơ và suy tính của mình. Ngài đã trở nên bé mọn trong lòng bàn tay Chúa vì hơn ai hết, như thánh Phao-lô, Ngài ý thức rằng: cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người. (x. Cr 1,25). Ý thức như vậy nên ngài miệt mài với ngoi trường tình yêu thập giá và chìm đắm trong những giờ cầu nguyện để đón nhận mạc khải của Thiên Chúa. Và, Chúa đã mạc khải cho Martino bé mọn đáng yêu của mình tất cả những gì có thể để sinh ích cho Martino và các linh hồn. Đó là điều Thiên Chúa muốn.

Trong thời gian này và chắc chắn trong những ngày sắp tới đây, chúng ta sẽ bắt gặp rất nhiều ý khấn xin cho con hay con của con, bạn của con thi đậu, thi tốt trong kỳ thi này, kỳ thi nọ. Chắc chắn ai cũng muốn mình đỗ đạt nhưng mấy ai quan tâm đến sự quân bình về mặt sức khỏe thể lý và tinh thần cũng như tâm linh. Vì vậy, chúng ta đã quá quen với việc nhiều thí sinh bỏ thì vì bệnh, hoặc khi thi thì thấy đầu óc cứ lung tung hết cả, hoặc thi không đậu khiến sinh bệnh tâm thần. Tất cả những lý do đó vì chúng ta quá cậy dựa vào sức riêng mình mà quên mất Thiên Chúa là nguồn của sự khôn ngoan. Có lẽ trong lúc này, chúng ta nên thường xuyên cầu xin cho các sỹ tử, có thể đến đây cách âm thầm hay ghi lại ý khấn tại đây, biết giữ gìn sức khỏe và phó thác tất cả họ trong lòng bàn tay Chúa. Xin Chúa giúp họ trở nên những con người bé mọn để Chúa mạc khải sự khôn ngoan nhiệm mầu và dẫn họ tới nơi họ cần đến, trong sự an bình và vui tươi tràn trề hy vọng. Dầu vậy, chúng ta cũng không quên tất cả những ai đến với tòa khấn thánh Martino trong tuần qua


Lạy thánh Martino, xin giúp chúng con có được tâm hồn đơn sơ phó thác như Ngài để chúng con luôn biết tìm thực thi ý Chúa.
Hôm nay chúng con cũng cầu xin đặc biệt cho các bạn trẻ đang chuẩn bị trong những kỳ thi sắp tới, xin thánh nhân thương giúp các bạn chân thành trong cuộc thì này để mọi người nhận biết và tôn vinh danh Chúa.

Chúng con cũng xin trao phó tất cả những ai vất vả  khổ đau trong tay ngài, xin hãy cũng mẹ Maria dẫn dắt tất cả chúng con đến với Chúa Giê-su là nguồn bình an và sức sống của chúng con.
Xem thêm…

Thánh Martino - Hạt Men Bé Nhỏ

01:16 |
Thánh Martino - Hạt Men Bé Nhỏ


Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mat-thêu (13, 33)


Khi ấy  Đức Giê-su kể cho dân chúng dụ ngôn sau đây: 33: "Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men."


Suy niệm


Việt Nam ta có câu: vô tửu bất thành lễ. Ngày lễ  đầu năm người ta thường mang theo chai rượu để kính tổ, để nhớ về gốc gác, nhớ về cội nguồn của mình. Ấy vậy, những hạt lúa kia sẽ chẳng thành tửu cho được nếu không có những hạt men bé nhỏ.


Cả một khối gạo lớn sau khi được nấu chín chỉ cần một nắm men, là đôi ba ngày sau, chúng ta đã thấy lựng mùi rượu. Cái vị thơm nồng và cay cay làm vui thỏa thực khách. Thơm là vậy nhưng người ta thường thấy giá trị của rượu mà quên đi giá trị của nắm men âm thầm làm cho cả khối bột thành rượu ngon.


Nắm men vẫn nằm đó và âm thầm tan biến dần để làm cho cả khối bột thêm mềm và trở thành rượu lúc nào không hay. Hạt men vẫn cứ âm thầm làm nhiệm vụ của mình cho dù không được ai khen thưởng. Nhưng dù sao, không có men, những khối bột, khối gạo kia vẫn không thể thành rượu. Không thành rượu thì sao chúng ta có thứ để làm vui thỏa lòng người như tác giả thánh vịnh nói:


Chúa cho con người kiếm ra cơm bánh, chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người. (x Tv 104, 14-15)


Hôm nay, đến với thánh Martino, chúng ta cũng có thể thấy một hạt men, một nắm men như thế. Suốt cuộc đời thánh nhân làm những việc tầm thường nhỏ nhặt trong nhà dòng. Có thể đó là việc quét dọn tu viện, chăm sóc vườn tược để mọi người tới có đươc cảnh quan đẹp mắt, vui lòng những ai tới thăm, và mỗi thành viên có được một không gian thoải mái để nghỉ ngơi. Có thể đó là hành động chuyện trò với những chú chuột nhỏ  để chúng không cám phá quần áo khiến các thầy, các cha yên tâm cầu nguyện và có giấc ngủ ngon. Có thể đó là đời sống cầu nguyện âm thầm để Chúa trợ lực cho tất cả những ai đi rao giảng được thành quả tốt đẹp. có thể và có thể nhiều hành động đơn sơ nhỏ nhặt khác mà chúng ta thấy được nơi thành Martino.


Và cũng có thể nói, không một thành công của người anh em nào và của dòng mà không có sự góp phần của Martino. Ngài quả là hạt men bé nhỏ, âm thầm để làm cho khối bột giảng thuyết Đa minh dậy men sống động bằng cả lời giảng lẫn hành động. Tất cả do bởi thánh nhân đã thấu cảm được nước trờ đang âm thần lớn lên trong những gì nhỏ mọn của cuộc sống thường ngày. Và hôm nay, chính chũng ta cũng được mời gọi để trở nên những nắm men như vậy giữa lòng nhân thế.



Thân lạy Chúa Giê-su, xin thương nhận lời thánh Martino chuyển cầu, mà ban cho chúng con được hoàn thành tất cả những công việc của đời sống thường ngày với lòng yêu mến. xin cho những hành động chu toàn bổn phận ấy trở nên men nước trời ngay giữa lòng gia đình, giáo hội và cả nhân loại.


Xin cho tất cả những ai đang thành công và làm những việc lớn lao biết trân trọng những ai làm công việc tầm thường và không mấy thành công bởi, chính những gì là thất bại và bé mọn mới giúp cho những gì là thành công lớn lao có giá trị.


Xin cho mỗi thành viên trong gia đình và giáo xứ chúng con biết hoàn thành công việc và phận vụ của mình với lòng yêu mến. Vì làm một việc nhỏ với tình yêu thì vĩ đại hơn làm việc lớn lao mà thiếu vắng tình yêu.


Xin thương chúc lành và thánh hóa tất cả những gì chúng con đã làm, đang làm và sẽ làm. Xin Chúa hãy dùng con và đừng để con đi một mình trên đường nhân thế vì không có Chúa, chúng con không thể làm gì được.


Lạy thánh Martino, chúng con xin dâng tất cả những ý nguyện của chúng con lên Ngài, xin thương chuyển cầu cho chúng con trước tòa Chúa.
Xem thêm…

Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương nơi cuộc đời thánh Martinô (phần cuối)

01:53 |
Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương
nơi cuộc đời thánh Martinô
(phần cuối)
Nguyễn Trọng Viễn, OP.


2. 3 Tình yêu hướng tới cứu cánh : Chúa là tất cả
Vận hành tâm linh Kitô thật sự là một cách “lý giải” theo chiều hướng đảo ngược cách nghĩ bình thường của con người, một sự đảo ngược không phải do ngẫu hứng, nhưng là một sự đảo ngược nhằm làm rõ rệt hơn tình yêu kỳ diệu của Thiên Chúa. Ta có thể tìm thấy huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa theo một quy luật đảo ngược : “khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Hoặc ta có thể thấy quy luật đảo ngược đó nói chính Lời của đức Giêsu : “tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít”. (Lc 7,47).
Trong khi đó, cách nghĩ thông thường của con người là muốn mau chóng tìm lại “dấu bằng”. Ngay cả với Chúa, người tín hữu cũng thường mong tìm một sự xứng đáng, một ý nghĩa công chính dựa vào công sức của mình, một tư cách hiện diện trước Chúa bằng nhân đức của mình. Thế nhưng, chiều hướng của vận hành tâm linh Kitô chính là một “dấu lớn hơn càng ngày càng lớn hơn”. Vận hành tâm linh giống như người học chân chính là càng học càng thấy mình dốt; giống như đứa con, càng sống tốt lại càng có cơ may hiểu công hơn cha mẹ nhiều hơn; giống như người cha, hoặc người mẹ, càng tỏ bày tình thương lớn lao của mình trong việc vất vả nuôi con, thì lại càng hiểu lòng cha mẹ đã thương mình nhiều hơn…
Kitô giáo đã đóng góp cho thế giới một phẩm chất riêng biệt của mối tương quan ngã vị. Mối tương quan này không thể được hoá giải trong những định luật công bằng của lý trí, nhằm tới một sự quân bình, an hoà trong sự cân bằng. Ngược lại, tương quan ngã vị bao hàm phẩm giá tuyệt đối của những ngôi vị, những ngôi vị có tính chủ thể, có lý trí và tự do. Mối tương quan ấy không bao giờ là một sự trao đổi sòng phẳng, nhưng luôn mặc ý nghĩa trao tặng và tri ân nhau. Như thế, ngay trong tương quan tình yêu đích thực của con người với nhau, như G. Marcel nói, đã có yếu tố khẩn cầu, khẩn cầu là nhịp thở của tình yêu.
Mối tương quan ngã vị của con người với Thiên Chúa thể hiện một sự trao tặng tuyệt đối. Thiên Chúa trao tặng chính bản thân Ngài, và con người chỉ có thể đón nhận món quà ấy trong lòng tri ân tuyệt đối. Không có chuyện đổi chác, không có chuyện cân xứng, không có chuyện tự hào về mình như những người Biệt Phái (Xc. Lc 18,9-14). Chỉ có một hành động chân chính nhất, đó là thái độ đấm ngực kêu lên : 'Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con, vì là kẻ tội lỗi” (Lc 18,13); chỉ có một lời cầu nguyện căn bản nhất xứng với món quà bản thân của Thiên Chúa, đó là lời : “Lạy Con Vua Đa-vít, xin thương xót chúng tôi !" (Mt 9,27). Từ sự trao tặng ấy, con người được mời gọi vươn tới cuộc sống sung mãn tuyệt đối trong mức độ hoàn hảo cao vời của chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu trao tặng cho con người Nước Trời, trong đó, hạt nhân căn bản chính là sự hiện diện bản thân của Ngài. Quả thật, từ ý nghĩa ấy, ta hiểu được Nước Trời luôn “đòi hỏi” triệt để và luôn có phẩm chất phong phú, dư dật.
“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.(Mt5,48)
Và :
“Nếu đức công chính của các ngươi không dư dật hơn ký lục và Biệt phái, các ngươi sẽ không vào được Nước Trời”(Mt 5,20, bản dịch cha Thuấn)
Có thể nói rằng, nếu dáng dấp của tất cả những tôn giáo và triết học khác đều hướng tới một tình trạng quân bình như “mặt nước hồ thu”, thì thế đứng căn bản của Kitô giáo lại chính là “một ngọn thác”. Nơi đây, con người không bao giờ có thể tách ra khỏi nguồn nước từ bên trên của Thiên Chúa, nguồn nước ấy đổ xuống ào ạt khi ai đó dám “dựng đứng” bản thân mình, dám dốc cạn bản thân mình để đón nhận trọn vẹn sự sống của nguồn thác, và để cho nguồn nước ấy tuôn tràn đến anh chị em của mình.
Thiên Chúa trao ban tất cả và Ngài muốn là tất cả. Ngay từ đầu của đạo giao ước, Thiên Chúa đã tỏ mình ra như một Đấng muốn trở nên tất cả. Ngài không muốn chia phần sản nghiệp của Ngài với bất cứ một thần thánh nào khác, Ngài là Chúa của Dân, Ngài lập giao ước và Ngài ghi dấu sở hữu ngay trên thân xác của từng người dân (cắt bì), Ngài truyền lệnh không được thờ một thứ thần nào khác, bởi vì Ngài là “thần ghen tương” :
“Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ : vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông.(Xh 20,5)
Tội thờ các thần khác được xem như tội ngoại tình, nên phải triệt để phá bỏ mọi tượng thần và giữ một lòng trung tín tinh tuyền với Ngài :
Ngươi không được phủ phục trước các thần của chúng, cũng đừng phụng thờ các thần ấy ; ngươi không được làm theo các việc chúng làm, nhưng phải phá huỷ thần của chúng và đập vỡ các trụ đá của chúng. (Xh 23,24)
Và chúng ta thấy rõ lệnh truyền về thái độ phải có của Dân đối với của Chúa trong sách Đệ Nhị Luật, Chúa muốn là tất cả chứ không muốn chia phần :
“Nghe đây, hỡi Ít-ra-en ! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. 5 Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). 6 Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi tạc vào lòng. 7 Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy” (Dnt 6,4-7)
Như thế, chúng ta hiểu những đòi hỏi của Đức Giêsu về thái độ của người môn đệ đích thực :
"Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. (Mt 10,37)
Có lẽ sự làng nhàng của đời sống tâm linh chính do con người đã không chấp nhận Chúa là tất cả, không muốn thuộc về Chúa trọn vẹn.
Thánh Martinô, từ thân phận một con người hèn mọn, luôn ý thức mình là một người hèn mọn, thấy mình đáng được bán đi làm nô lệ để nhà dòng có tiền trả nợ, thấy mình không xứng đáng là một tu sĩ trợ sĩ trong Dòng… chính nhờ sự chân nhận ấy mà thánh Martinô đã nối kết được đời mình vào dòng thác yêu thương ào ạt của Thiên Chúa.
Mở ra vài vấn đề
Nhờ gặp gỡ chính Chúa, con đường bác ái của Martino trở thành con đường chân lý. Lối sống của Martino làm sáng lên ý nghĩa chân lý căn bản của nhân phẩm, phẩm giá của kẻ được sống với và cùng làm với Chúa. Lòng bác ái của thánh Martinô làm sáng lên ý nghĩa chân lý của tình thương, tình thương con người chỉ có thể trọn vẹn trong lòng nhân từ của Thiên Chúa. Sự chấp nhận vị thế hèn mọn của Martinô làm rõ ra thái độ chân lý của con người trước Thiên Chúa, thái độ chân nhận Chúa là tất cả. Đóng góp đó có lẽ khó so sánh được với đóng góp của thánh Thomas hay Catarina Sienna, khó so sánh không phải vì lớn hơn hay nhỏ hơn, nhưng vì Martinô cũng là một “tác phẩm nghệ thuật” độc đáo của Thiên Chúa như các thánh khác. Nghệ thuật thì không có sự so sánh cao thấp như kỹ thuật, nghệ thuật mời gọi chiêm ngắm, và “tác phẩm Martinô” thực sự có khả năng làm ngây ngất lòng người.
Và điều quan trọng nữa là tình thương nơi thánh Martinô thực sự là một sức mạnh phong phú, phong phú trong chính cuộc đời của Martinô và trong Giáo Hội, ít là trong Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Lý do là vì tình thương và chân lý của Chúa thì không chỉ để chiêm ngắm, mà còn là để sống, để dấn thân để đấu tranh. Trong linh đạo Đa Minh, chiêm ngắm còn luôn phát sinh hoa trái phong phú trong việc trao tặng cho người khác điều mình đã chiêm ngắm.
Quả thật, nơi thế gian này, con người cần có một sự “thách thức”, một sự “chất vấn” hoặc một sự “đe doạ”, thì mới có thể tìm được sức mạnh trọn vẹn của mình. Cuộc sống trần gian luôn là một cuộc chiến, ai buông khí giới đó là kẻ đầu hàng và sẽ bị lôi kéo đến chỗ đánh mất bản chất của mình. Ngược lại, ai nhận ra được “đối thủ” chân chính thì tìm được sức mạnh để vươn lên mãi. Chân lý thì phải đi vào cuộc chiến và ngay tình yêu cũng cần đi vào cuộc chiến. Dân Hy Lạp thích tranh luận, và họ thường tự tạo ra đối thủ, tạo ra những tư tưởng đối nghịch để gia tăng sức mạnh cho lý chứng của mình[1]. Cũng thế, nhiều khi, do mưu tính chính trị, người ta phải tạo nên kẻ thù để có thể kích thích sự đoàn kết của dân tộc. Khi mà các môn đệ tưởng rằng đã đạt đến đích và có thể nghỉ ngơi, thì Đức Giêsu lại mở ra một chiến cuộc khác cho các ông :
“ Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến." Đức Giê-su đáp : "Bây giờ anh em tin à ? Này đến giờ -và giờ ấy đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian." (Ga 16, 30-33)
Tuy nhiên, khi người ta tạo ra một đối thủ giả hoặc không xứng tầm, thì sức mạnh hình thành nên được cũng là sức mạnh giả, chỉ có tính cách nhất thời. “Chân lý” được hình thành trong một cuộc đấu tranh giả, sẽ chỉ là những chân lý vụn vặt nhất thời, bộc lộ thói mê chữ nghĩa. Thứ tình yêu được trở nên mạnh mẽ hơn trong một cuộc chiến giả tạo, sẽ chỉ là tình cảm bồng bột chóng qua. Vì thế, trong hành trình trần gian này, việc nhận ra đối thủ cho đúng là một điều hệ trọng.
Trong cuộc sống trần gian, khi người ta lựa chọn một nghề nghiệp hoặc lựa chọn một ơn gọi, lựa chọn một lối sống hoặc lựa chọn một môi trường làm việc, thì đó đã là lựa chọn một đối thủ cho cho cuộc chiến trần gian của mình; trong số đó, có không ít những lựa chọn không đúng đối thủ, hoặc đối thủ không xứng tầm với vận mạng con người. Trong ý nghĩa toàn diện của Kitô giáo, ý nghĩa của ơn gọi sống-với, ta có thể nói được rằng : khi ta “đánh cái gì” (dĩ nhiên hiểu là cái xấu) thì sẽ có cơ may xuất hiện ý nghĩa “đánh vì ai”; ngược lại, khi ta “đánh ai”, thì sẽ có nguy cơ lộ diện ý nghĩa “đánh vì cái gì”. Một đàng là “dấn thân vì ai đó”, một đàng là “dấn thân vì sự vật nào đó”. Thiết nghĩ sơ đồ nói trên đó cũng là một cách để hiểu sự duy nhất trong mầu nhiệm Nước Trời, duy nhất trong ý nghĩa cứu độ. Khi mà con đường tri thức không còn là chiến đấu chống lại sự xấu, con đường đó sẽ có nguy cơ nhạt nhẽo; khi con đường tri thức lại trở thành mặt trận chống “ai đó”, thì sẽ dần dần rớt vào nguy cơ bảo vệ một thứ chân lý vô ngã, chân lý hoàn toàn lý thuyết và trở thành quá khích. Cũng thế, khi con đường đức ái mà chỉ là quí trọng một “sự vật” nào đó bên ngoài bản thân, chăm chăm chú chú làm một điều gì đó chứ không phải làm vì ai đó, thì con đường đó sẽ dần dần loại ra ngoài những ai đang chờ đợi tình thương chân chính.
Nơi đây, ta có thể nối lại cả con đường của thánh Thomas và con đường của thánh Martinô với nguồn mạch hứng khởi nguyên thuỷ của thánh Đa Minh, nguồn mạch khao khát ơn cứu độ cho con người. Xin ghi lại vài khoản Hiến Pháp căn bản để nhắc nhủ nhau :
* “Vì Dòng Anh Em Giảng Thuyết do thánh Đa Minh sáng lập, “như ai cũng biết, ngay từ thời sơ khai, đã được thành lập đặc biệt để lo việc giảng thuyết và ơn cứu độ các linh hồn”. Do đó, theo lệnh truyền của Đấng sáng lập, anh em chúng ta, “ở đâu cũng phải sống chính trực và đạo đức như những người khao khát ơn cứu độ của mình và của những người khác, như những con người của Tin Mừng, theo chân Đấng Cứu độ, chỉ nói với Thiên Chúa hay về Thiên Chúa, với mình hoặc cho tha nhân” (HPNT II)
* “Chính vì thế, “việc học hành của chúng ta phải nhằm hết sức chính yếu và mạnh mẽ vào điểm này là để chúng ta trở nên hữu ích cho linh hồn tha nhân” (HP 77)
Chỉ khi trở lại nguồn mạch thiết tha với con người cho đến cùng, thiết tha ơn cứu độ cho tha nhân, chúng ta có thể vượt qua thái độ chiêm ngắm thuần tuý, để tìm lại sức sống Đa Minh trong tinh thần “chiêm niệm vào trao cho người khác điều mình chiêm niệm”.
Gợi ý chia sẻ :
1. Trong đời sống Đa Minh hiện nay, ta có còn thấy ngọn lửa “thiết tha với ơn cứu độ các linh hồn không ?
2. Trong Thời Sự Thần Học số 56, Linh mục Phan Tấn Thành viết: “Dưới khẩu hiệu Veritas, các tu sĩ dòng Đa Minh – những chiến sĩ bảo vệ đức tin (pugiles fidei)-, lắm lần trở thành những “chó săn lùng bắt quân rối đạo” (Domini canes), điển hình là các Toà Tra (Inquisitio), và không còn phản chiếu khuôn mặt dịu hiền của Thiên Chúa Tình Yêu nữa.(…). Nếu có lúc người ta nhiệt thành chiến đấu cho veritas đến nỗi bỏ quên caritas, thì cũng không thiếu lần người ta nhân danh caritas để bịt miệng veritas”. Những mâu thuẫn và những lệch lạc như thế có tiềm tàng trong cách học hành, cũng như trong cách làm việc tông đồ của chúng ta không ?
3. Phẩm chất đời sống tâm linh của chúng ta hiện nay có dính dáng đến nguy cơ xa rời bản thân Chúa để chỉ còn biết học chân lý và làm bác ái một cách đơn thuần không ?
- HẾT -

[1] Chẳng hạn như những đối thoại của Platon.
Xem thêm…

Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương nơi cuộc đời thánh Martinô (tiếp theo)

01:50 |
Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương
nơi cuộc đời thánh Martinô

(tiếp theo)



Nguyễn Trọng Viễn, OP.

2. Huyền nhiệm Tình thương nơi thánh Martino

2.1. Tình yêu xuất hiện trong “cái với”

2.1.1 “Cái có”

G. Marcel định nghĩa “cái có” là cái ở bên ngoài mình và không trực tiếp gắn liền với sự thăng tiến hay suy giảm phẩm chất của cuộc đời. Có điểm cao, có lời khen, có địa vị, có tiền bạc… những điều ấy không trực tiếp làm cho đời mình giỏi hơn, tốt hơn, hoàn hảo hơn. Con người cần “cái có”, và khoa học giải quyết nhu cầu này. Thế giới ngày nay là thế giới của khoa học. Khoa học mang lại nhiều “cái có” giúp cho cuộc sống được dễ dàng hơn: có nhà, có xe, có tiền, có máy móc… Khoa học giúp cho cuộc sống được thanh thản hơn nhiều. Rồi “cái có” ra như có khả năng giải quyết nhiều vấn đề thật mau chóng và cũng mau chóng trở nên ưu tiên số một đối với nhiều người trong xã hội ngày nay. Thật ra, ngày nay, người ta biến cái “huyền nhiệm” nằm sâu trong cuộc đời con người thành những “vấn đề” bên ngoài, ở đằng trước hành trình cuộc đời mình. Vấn đề thì có thể được giaỉ quyết do một ai khác, bằng một “cái có” nào đó… Đó là nẻo đường khiến người ta rơi vào ảo tưởng : có tiền mua tiên cũng được. Quả thật, thế giới “cái có” đang dần dần xâm chiếm hết tâm và trí của con người ngày nay, đến độ, một thứ dầu gội đầu, hoặc một đôi dép cũng được quảng cáo như có thể làm cho người ta “tự tin” hơn hoặc đóng góp vào sự thành công của đời mình. Cách giải quyết “vấn đề” như thế không đụng vào được “huyền nhiệm” đời người. Đó chỉ là một cách chạy trốn vấn đề thật, vấn sâu xa mang tính huyền nhiệm của mỗi cuộc đời con người. Cách thức ấy đưa đến tình trạng gọi là “xã hội mất căn tính”. Chẳng hạn : quy trình sống của người thợ mộc là : làm ra cái bàn, đem bán lấy tiền, mua những đồ dùng khác… Trước đây, mối liên hệ ưu tiên là người thợ mộc thể hiện mình trong việc làm ra cái bàn; cái bàn phải được đóng đúng quy cách, phải tốt vì điều đó biểu lộ chính giá trị bản thân của người thợ. Ngày nay, người thợ mộc, bị cuốn hút vào mục tiêu làm sao có tiền để mua các đồ dùng khác; vì người ta không cần biết anh ta có là thợ mộc chân chính hay không, người ta chỉ cần nhìn xem anh có nhiều đồ dùng đáng giá hay không. Khi đó, người thợ cũng treo giá trị bản thân của mình vào những đồ dùng mua sắm, và đánh mất lương tâm nghề nghiệp, đánh mất “cái là” chân chính như một người thợ. Người ta đặt hết nền tảng đời mình vào “cái có”; và “cái có” thì có thể dễ dàng bị chiếm, bị mất. Khi mất “cái có”, cuộc đời đó sẽ trở nên trống rỗng, người ta nhận ra sự trống rỗng của “cái là”, …và người ta dễ đi đến lựa chọn tự tử…

Gabriel Marcel nói : người nào quá thiên về phạm trù có, sẽ giảm thiểu hoặc đánh mất “cái là”.

2.1.2 Cái là

Triết học thì nhắc nhở người ta về ý nghĩa chân chính của cuộc đời; nhắc nhở về phẩm tính của “cái là”, phẩm tính của hiện hữu người. “Cái là” giúp ta tìm được một căn bản tự tại trong chính bản thân mình, để mình có thể vững vàng trước những biến động hời hợt của “cái có”. Những lời khen chê, những thành công hay thất bại không có tầm quan trọng quyết định cho cuộc đời mình nữa, nhưng chính phẩm chất thực sự của mình mới là điều quan trọng. Ai biết nhận ra “cái là” của mình, người ấy sẽ tìm được nẻo đường thăng tiến thực sự trong hiện hữu của mình. Hai đứa học sinh, cùng dốt như nhau, cùng copy bài như nhau, cùng được điểm 10 như nhau. Một đứa thì khoái chí; đó là đứa chỉ biết “cái có”. Đứa khác thì mắc cở vì điểm 10; đây là đứa biết nhận ra sự quan trọng của “cái là”.

Để đi từ thế giới “cái có” sang thế giới “cái là”, người ta cần lột bỏ một thứ mặt nạ giả hình ở cấp độ một.

2.1.3 “Cái với”

Thế nhưng, có nhiều điều, ở bình diện xã hội, vốn là “cái là”, thì trong bình diện tình yêu, cũng như trong bình diện đức Tin, lại chỉ là “cái có”. Tôi không chỉ có điểm cao, nhưng tôi thực sự là một học sinh giỏi. “Trình độ” của tôi không phải là cái có bên ngoài, mà là cái nằm bên trong tôi. Tôi tài thực sự chứ không phải là nhờ danh tiếng, tôi đạo đức thực sự chứ không phải là do chức tước, tôi tốt lành thực sự chứ không phải chỉ do khen ngợi…, đó là những “cái là” của tôi. Tuy nhiên, so với bình diện bản thân, tất cả những điều ấy lại vẫn là “cái có”, và vẫn có thể bị mất đi, trong khi bản thân của tôi vẫn còn đấy. Có những điều ra như ở trong tôi, nhưng thật sự vẫn khác với bản thân, vì đến một lúc nào đó, chúng vẫn có thể tách rời khỏi tôi. Có lúc bản thân tôi vẫn còn đó, nhưng trình độ của tôi đã suy giảm hoặc mất đi; đến lúc nào đó tron g cuộc đời, cả tài năng, sức khoẻ, sắc đẹp và ngay cả đức độ cũng có thể “chấp cánh bay xa” khỏi bản thân tôi. Trong tình yêu, nếu tôi tin vào của cải, tin vào danh tiếng để đổi lấy tình yêu, tôi “sẽ bị người đời khinh dể”, như sách Diễm Ca đã nói (Xc. Dc 8,7). Nhưng nếu tôi tin vào tài năng, tin vào đức độ… để mong có được tình yêu của ai khác, thì tôi vẫn không thực sự biết yêu. Chìa khoá thực sự của tình yêu là sự thuộc về nhau, thuộc về nhau bằng chính bản thân của mình. Cái gì khác với bản thân thì vẫn chỉ là “sự vật”; tình yêu chân chính không phải là đổi chác nhưng “sự vật” xung quanh bản thân. Yêu thương là chấp nhận chính bản thân của ai khác, và nhận ra bản thân của hai bên “thuộc về nhau”[1]. Nếu tôi đi vào tình yêu, đi vào đức Tin với những tài năng, đạo đức thật của tôi, thì đó vẫn là cách hiện diện với người khác như là kẻ không thuộc về nhau.

Ở đây, ta thấy xuất hiện chiều kích đặc biệt của Kitô giáo : “cái với”. Kitô giáo không phải là đạo luân lý, nghĩa là một bài toán dựa vào sự dò xét, cân đong đo đến đức độ để thưởng công hay ra hình phạt. Phẩm chất Kitô đặt nền trong một giao ước mang tính bản thân. Khi lãnh bí tích Rửa Tôi, tôi mang chính bản thân tôi ra để đóng vào giao ước, tôi chết đi cho con người cũ để sống một con người mới hoàn toàn thuộc về Chúa. Về phía Chúa, Chúa cho chính Con Một của Ngài chịu chết cho tôi. Giao ước bản thân đó làm nên một cộng đồng ngôi vị, giống như và trổi vượt hơn gia đình.

Trong vận hành từ “cái là” của bình diện xã hội đến “cái với” trong tình yêu và trong đức Tin[2], lại cần sự lột bỏ mặt nạ một lớp nữa, lột bỏ cả “cái là” giả tạo để nhận ra con người của mình, bản thân trần trụi của mình, và nhận ra phẩm giá thực sự của mình trước tình yêu, và trước mặt Chúa. Yêu nhau là tặng không sự chân nhận bản thân của ai khác chứ không phải là trao đổi những thứ “sự vật”. Chỉ trong tình yêu như thế, hai người mới “thuộc về nhau” thực sự. Cũng thế, phẩm giá thực sự của con người là thụ tạo của Chúa, được Chúa tặng không phẩm giá là “con cái”, được “đồng thừa tự” với Chúa Giêsu… Đây mới là điều đáng quí trọng nhất của niềm Tin Kitô giáo. Trong ý nghĩa “thuộc về nhau” tự nền tảng bản thân, “cái với” được tỏ lộ ra.

Như thế, ta có thể thấy huyền nhiệm tình yêu lộ rõ hơn hết trong con người và cuộc đời của thánh Martinô, một người không bám vào một chút “cái có” nào, và cũng không bám vào một chút “cái là” nào trên bình diện xã hội con người. Bản thân thánh Martinô là mẫu điển hình của mầu nhiệm Nước Trời : người đầu hết sẽ nên cuối hết, và người cuối hết sẽ nên đầu hết (Xc. Mt 19,30, //). Tôn phong Martinô lên hàng hiển thánh, đó không phải là xướng lên một tước hiệu để vinh vang, những là loan báo mầu nhiệm Nước Trời, là khẳng định ý nghĩa phẩm giá chân thật nhất của con người. Bởi vì con người có vận mạng siêu nhiên, và mầu nhiệm con người chỉ sáng lên trong mầu nhiệm đức Giêsu Kitô. (x. Vatican II, hiến chế Mục Vụ số 22).

2.2 Tình yêu trong chiều hướng lòng nhân từ

Có lẽ điều hiểu lầm lớn lao của con người hiện đại là đánh mất ý nghĩa của dâng tặng, và ý nghĩa của tâm tình lãnh nhận với lòng tri ân, mắc nợ nhau trong tình nghĩa. Cuộc sống hiện đại được chuẩn hoá trên nền tảng của bài toán trao đổi. Tất cả những thành quả to lớn, hoành tráng của xã hội hiện đại, từ những nghiên cứu khoa học, từ những công trình kỹ thuật, từ những thành tựu văn hoá… cho đến những tương giao đời thường… đều được vận hành theo bài toán thu-chi, lời-lỗ… và quy luật cân bằng ấy xen dần vào cả lãnh vực tương quan nhân thân của con người với nhau. Tôi thương anh vì anh tốt bụng, tôi trọng anh vì anh có tài năng, tôi kính anh vì anh có đức độ, tôi xum xue với anh vì anh có địa vị… Khi anh không còn tốt bụng, không còn tài năng, không còn đức độ, không còn địa vị, thì những tâm tình kia cũng đương nhiên không còn xứng hợp nữa. Bài toán cân bằng ấy thật là hợp lý nhưng cũng thật bất nhân; bởi vì con người vốn “nhân vô thập toàn”, bởi vì con người luôn là sinh vật có bệnh, bệnh thể xác và bệnh tinh thần, chính con người thật đó cần được đón nhận, cần được thương yêu, một tình thương đón nhận “từ dưới chân” chứ không phải so đo mức độ cao thấp “ở trên đầu”. Khi “cái là” cũng được lột bỏ để thay vào bằng “cái với”, thì tình yêu thương chân thật mới được bắt đầu, bắt đầu với phẩm chất “tặng không”. Có thể nói được rằng, trong vận hành của đời sống tâm linh, người nào quá để ý đến “cái là” sẽ làm suy giảm hoặc đánh mất “cái với”.

Trong đức Tin Kitô giáo, nền tảng của mọi tương quan con người với nhau được đặt trên một nền tảng khác, nền tảng tình yêu thương của Thiên Chúa. Ở đây, có một sự biến đổi trọng tâm hết sức bản, con người được yêu không phải là do bài toán trao đổi nữa, do sự “bài toán” trao tặng và nguồn mạch dư dật, phong phú vô tận của bài toán này là chính Thiên Chúa. Từ nguồn cội ấy, phẩm chất của mọi thứ tình yêu giữa con người với nhau đều ngầm biểu lộ ý nghĩa của lòng nhân từ. Chúng ta hiểu rằng điều căn cốt của vận hành yêu thương trong Kitô giáo là : mối tương quan con người với nhau phải được đặt trong thế tay ba. Có Thiên Chúa ở đó; và tình yêu con người với nhau chỉ có thể vững bền, quảng đại khi được nối kết vào nguồn mạch tình thương nhân hậu của Thiên Chúa. Như thế, khi “tôi yêu anh” hay “anh yêu tôi”, thì trong niềm tin Kitô giáo, cả hai đều bắt nguồn từ ý nghĩa căn nguyên : tôi và anh đều “đáng thương” trước mặt Chúa. Do đó, phẩm chất căn bản của tình nghĩa “tôi thương anh” hay “anh thương tôi” thì cũng đều phải thể hiện ra trong dáng dấp lòng nhân hậu, lòng từ bi thương xót của Chúa. Đức Gioan Phaolô II, trong thông điệp Thiên Chúa Giầu Lòng Từ Bi Thương Xót, nói rằng : có một danh hiệu thứ hai của Tình yêu, đó là lòng nhân hậu :

“Vì lòng nhân từ là chiều kích không thể thiếu của tình yêu; nó như là danh hiệu thứ hai của tình yêu”[3].

Người ta có thể kể ra nhiều nhân đức của thánh Martinô, nhưng không thể cho rằng Chúa đã thương Martinô nhiều vì ngài nhân đức nhiều. Trước tiên, vì tình yêu của Chúa không phải một sự trao đổi như vậy. Mặt khác, chính những nhân đức của Martinô cũng do chính Chúa ban tặng. Nói đúng hơn, ta thấy chính vì Martinô đã khám phá ra “cái với” ở tận bản thân trần trụi của mình, đã chấp nhận thuộc trọn về Chúa mà Martinô đã đón nhận được nhiều hơn tình thương của Chúa. Nhân đức của Martinô thật sự cũng không là gì khác hơn hoa trái của lòng nhân từ của Chúa, nhằm để làm chứng cho lòng nhân ái của Chúa đối với những người cùng khổ mà Martinô được sai đến và cho Giáo Hội ngày hôm nay. Quả thật, “tấm lòng vàng” của Thánh Martinô biểu lộ rõ nét phẩm chất của lòng nhân hậu, trước tiên là lòng nhân hậu của Chúa dành cho những người bé mọn, qua chính con người bé mọn Martinô.






[1] Không nên hiểu lầm sự “thuộc về” như là một sự “lệ thuộc”. Tình yêu luôn luôn phải là một sự tự do, tự quyết chứ không thể ép buộc, chính tự khả năng tự quyết, con người mới có thể đi vào mối tương quan thuộc về nhau càng ngày càng sâu xa hơn. Ngược lại, thiếu sự tự quyết, thì người ta chỉ có thể lệ thuộc, và lệ thuộc luôn luôn là lệ thuộc về những gì bên ngoài bản thân, lệ thuộc tiền bạc, lệ thuộc sự bảo bọc, lệ thuộc tiếng tăm của ai khác… Ngược lại, bản thân là một giá trị tuyệt đối mà không một sự mua bán, trao đổi nào có thể cân xứng; bản thân chỉ có thể được dâng tặng, và mời gọi sự đón nhận với lòng tri ân. Chiều kích bản thân của một người thiếu tự do, thiếu tự quyết, sống lệ thuộc, luôn ở ngoài vùng phủ sóng của cái “sống với”

[2] Trong tư tưởng của G. Marcel, con người chỉ là mình khi dấn thân, và chỉ có một sự dấn thân chân chính là dấn thân vì tha nhân…


[3] T/đ Thiên Chúa giầu lòng từ bi thương xót, số 58. Một Danh Hiệu Khác Của Tình Yêu.
Xem thêm…

Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương nơi cuộc đời thánh Martinô

01:46 |
Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương
nơi cuộc đời thánh Martinô

Nguyễn Trọng Viễn, OP.

Trong số Thời Sự Thần Học 56 mới đây, nhằm mừng kỷ niệm 50 năm tu sĩ Martino de Porres được phong hiển thánh, chúng ta đã được linh mục Phan Tấn Thành trình bày tóm tắt những quan niệm thần học về chữ caritas, dựa theo hai thông điệp của đức Bênêđictô XVI, Deus caritas est và Caritas in veritate. Những quan niệm này, theo ba song luận “eros-agape”; “caritas-veritas”; và “caritas-justitia”, đã được phân tích khá tỷ mỷ và súc tích.
Có một lối nhìn khác mà tôi thích thú hơn, đó là lối nhìn của linh mục Henri J.M. Nouwen, trong tác phẩm Những Dấu Chỉ của Sự Sống. Cha Nouwen, theo gợi ý của một người bạn chuyên phục vụ người khuyết tật, Jean Vanier, đã khám phá ba dấu chỉ đặc biệt của tình yêu Kitô giáo trong Tin Mừng : mật thiết, phong phú và xuất thần.
Có lẽ có thể nhìn một cách đơn giản hơn : trong Thiên Chúa, chân lý và tình yêu là một[1]. Rồi chân lý được gồm gói trong đức Kitô, đức Ái hay tình yêu cũng được gồm gói trong đức Kitô. Nơi Thiên Chúa, caritas và veritas là một, thì trong đức Giêsu Kitô, chân lý và đức ái cũng vẫn là một[2]; và là một trong mầu nhiệm Nước Trời. Mầu nhiệm Nước Trời thể hiện cả chân lý và tình yêu một cách phong phú vô tận và linh diệu bất ngờ. Với mầu nhiệm ấy, điều cần thiết không chỉ là nghiên cứu như một vấn đề, nhưng còn cần “chiêm ngắm”[3]. Đây là huyền nhiệm phong phú và linh diệu của Nước Trời nơi cuộc đời một con người hèn mọn nhất trong các vị thánh, và thánh nhất trong những người hèn mọn, đó là thánh Martino de Porres. Cũng cần phải nói thêm là : chân lý của Chúa ban cho ta là chân lý cứu độ; và tình yêu Thiên Chúa ban cho ta cũng là tình yêu cứu độ. Chỉ trong ý nghĩa cứu độ, chỉ trong vận hành của lịch sử cứu độ mà chân lý và tình yêu của Chúa mặc khải cho con người mới được sáng lên, sáng lên ý nghĩa huyền nhiệm. Điều này có nghĩa là chúng ta có thêm một tiêu chuẩn để phân biệt những thứ chân lý / tình yêu giả với chân lý / tình yêu thật; và để hiệp nhất những thứ chân lý và tình yêu có vẻ khác nhau nhưng lại đích thực là một trong cùng vận hành cứu độ.
1. Mầu nhiệm Nước Trời
Sám hối vì Nước Trời
Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai bằng lời loan báo Mầu nhiệm Nước Trời, và Ngài cũng cho thấy cách thức để đi vào mầu nhiệm ấy chính là sự sám hối.
“Sau khi ông Gio-an bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói : "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc 1,14-15)
Tại sao phải sám hối ? Sám hối là từ bỏ tội lỗi, sám hối là thay đổi lối sống, nhưng sâu xa hơn hết, sám hối là thay đổi não trạng, thay đổi cách nghĩ. Đó là vì mầu nhiệm Nước Trời luôn là điều bất ngờ có tính cách đảo ngược. Chẳng phải chỉ những người Do Thái thời Chúa Giêsu cần phải sám hối, thay đổi não trạng để có thể “hiểu” được Nước Trời, nhưng chính Hội Thánh trong suốt hành trình của mình, cũng như mỗi người Kitô hữu, trong suốt hành trình tâm của mình, vẫn luôn phải sám hối, vẫn luôn phải nhờ Thánh Thần Chúa để có thể thay đổi não trạng.
Có lẽ đây là một điều mà người Kitô hữu hiện nay phải lưu ý nhiều. Với đa số người tín hữu, sám hối bị giản lược thành bản so sánh đời sống hằng ngày với Thập Điều của Cựu Ước. Với những linh mục, tu sĩ, hình như người ta lấy việc học hỏi, nghiên cứu để hiểu Nước Trời hơn là một sự rộng mở để Thánh Thần Chúa thay đổi não trạng. Nếu nghiên cứu và học hỏi có thể cho ta hiểu được một phần nào mầu nhiệm Nước Trời, thì sức mạnh để đi vào Nước Trời vẫn luôn là ân sủng, vẫn luôn bắt nguồn từ chính tình yêu và chân lý cứu độ được Thánh Thần khai mở ra cho Hội Thánh và cho mỗi người tín hữu. Chính vì thế mà một con người hèn mọn như thánh Martinô lại có thể biểu lộ mầu nhiệm Nước Trời rõ rệt hơn hết trong một tu viện Đa Minh cũng như nơi thành phố Lima thời ấy.
Quả thật, nếu để ý một chút, chúng ta sẽ thấy rõ tính mầu nhiệm Nước Trời luôn có tính cách đảo ngược. Từ việc Ngôi Lời trong vĩnh cửu nay trở nên xác phàm, từ việc Chúa chọn đức Maria, một cô gái đồng trinh, vô danh tiểu tốt, để làm mẹ, từ việc Chúa chọn một gia đình dân thường chứ không phải gia đình quyền quí, và chọn sinh ra trong hang đá bò lừa… cho đến Bài giảng trên núi; cho đến cung cách thể hiện “lòng nhân chứ không phải lễ tế” (Mt 9,13); cho đến lời dạy về quyền bính trong cộng đoàn Hội Thánh; cho đến những giáo huấn trong diễn từ cáo biệt; và cho đến cách người đi vào cuộc Tử nạn–Phục sinh…., tất cả đều là một sự đảo ngược kỳ lạ đối với cách nghĩ thông thường của con người. Ta có thể nói được rằng ai không thấy được tính đảo ngược của Chúa, thì cũng chưa thấm nhuần mầu nhiệm Nước Trời. Trong khi đó, cám dỗ của con người luôn là muốn thích nghi, thoả hiệp Nước Trời với nước thế gian, nước thế gian trong cách nghĩ đầy lý lẽ của mình, nước thế gian trong lối sống tà tà của mình, nước thế gian trong cơ chế tổ chức của cộng đoàn hay của chính Hội Thánh, nước thế gian trong những giá trị hão huyền như danh giá,…
Nước Trời mời gọi sám hối, mời gọi người tín hữu liên tục sám hối, mời gọi chính cơ chế Hội Thánh hay cộng đoàn sám hối. Nếu sống đức tin, theo tinh thần Vatican II, là sống đời mình như một lịch sử ơn cứu độ, nghĩa là sống chính lịch sử đời thường của mình trong sự sám hối cách nghĩ, cách chọn giải pháp, cách phản ứng… của mình trong sự so chiếu với mầu nhiệm Nước Trời, thì ta lại càng thấy rõ tính cách thiếu sám hối chân chính, cả nơi những nhà nghiên cứu Kinh Thánh, “đấng bậc” cũng như nơi đời sống người tín hữu nói chung. Nước Trời là một sự đảo ngược, nên cần thiết phải có một phương thức đảo ngược cách nghĩ, một lòng sám hối chân thực (métanoia) để đi vào Nước Trời.
Mầu nhiệm đảo ngược căn bản chính là mầu nhiệm Thập Giá. Thập giá xưa kia là sự điên rồ đối với người Hy Lạp, là sự chướng kỳ đối với người Do Thái, thì ngày nay, Thập Giá vẫn luôn là những khác biệt mang tính đảo ngược đối với cách nghĩ cũng như thực tế cuộc sống xã hội và Giáo Hội, ở đây và lúc này.
“Trong khi người Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh, điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. (1 Cr 1, 22-23 )
Tại sao lại đảo ngược ?
Chúng ta có thể tìm thấy câu trả lời trong cách nói của ngôn sứ Isaia : đường lối của Chúa vượt cao hơn đường lối của con người (Xc. Is 55,9). Đường lối của Chúa cao hơn không phải chỉ vì Chúa khôn ngoan hơn, nhưng còn là vì Thiên Chúa yêu thương nhiều hơn, tình thương lớn hơn của Chúa vượt quá cách suy nghĩ tầm thường của con người. Như đã nói, nơi Thiên Chúa, chân lý và tình yêu là một; nơi đức Kitô, chân lý và tình yêu là một; nơi mầu nhiệm Nước Trời, chân lý và tình yêu cũng là một. Tính cách hoà hợp đó cũng thể hiện nơi những gì được sáng tạo trong Ngôi Lời có từ muôn thuở và sứ điệp Nước Trời của đức Giêsu. Tính cách hoà hợp ấy cũng thể hiện trong mầu nhiệm cứu độ mà những ai biết Chúa Cha thì cũng biết Chúa Giêsu… Thế nhưng, con người đã không dễ dàng thấy được sự hoà hợp ấy, nên đã phân ly những gì Thiên Chúa đã nối kết; để rồi nhân danh chân lý để làm những điều phản lại tình yêu, hoặc nhân danh tình yêu để làm những điều sai trái.
Làm sao giữ được nét hoà, nét duy nhất giữa chân lý và tình yêu ?           
Chúng ta có thể thấy một chút ánh sáng hướng dẫn khi nhìn lại sự tiến triển về quan niệm mạc khải từ công đồng Vatican I đến Vatican II. Trong khi, đối với Vatican I, mạc khải là Thiên Chúa mạc khải những chân lý vô ngộ của Ngài, thì đối với Vatican II, mạc khải lại là mạc khải chính bản thân của Chúa.
“Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Ngài {X. Ep 1,9}. Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa {X. Ep 2,18; 2P 1,4}. (MK 2)
Chúng ta cũng biết, Vatican II đã thêm vào một phương thức mạc khải của Thiên Chúa, Thiên Chúa không chỉ mạc khải bằng Lời, nhưng còn bằng hành động. Cả Lời cũng như hành động của Thiên Chúa đều chỉ là mạc khải chính bản thân Ngài. Nơi bản thân Ngài, chân lý và tình yêu là một, và trong mạc khải cứu độ của Ngài, chân lý cứu độ cũng như tình yêu cứu độ chỉ là một.
“Công cuộc mạc khải này được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với nhau. Nên các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi bày tỏ, củng cố giáo lý và những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói thì công bố các việc làm và khai sáng mầu nhiệm chứa đựng trong đó. Nhờ mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng trung gian, đồng thời là sự viên mãn của toàn thể mạc khải” {MK 2a}.
Thật ra, con đường của triết gia Parménide (khoảng 540-470), đồng nhất hữu thể với tư tưởng, để rồi triết lý chỉ việc ráp nối các tư tưởng, chính con đường đó đã chia lìa, phân đôi mọi thực tại, lãnh vực lý thuyết dần dần khác với lãnh vực thực hành; rồi đến một lúc nào đó, lãnh vực siêu hình lại trái ngược với lãnh vực luân lý. Ngược lại, từ tư tưởng của Héraclite (khoảng 540-475), người ta thấy rằng : ở đỉnh cao minh triết, siêu hình và luân lý đồng nhất với nhau; còn ở đáy sâu của thứ triết lý vụn vặt, thì siêu hình[4] khẳng định một đàng, luân lý lại đòi hỏi một đàng khác. Đó cũng là con đường lãng quên hữu thể của triết học Tây phương.
Cũng gần giống như vậy, chính con đường xa rời “bản thân Chúa”, khiến cho chân lý và tình yêu xa rời nhau; khiến cho nhiều khi ta muốn thực hành chân lý thì lại thấy ngược với đức ái, và nhiều khi thực hành đức ái thì lại ngược với chân lý.
Cuộc sống nhân trần thì không có sự đồng nhất tất nhiên giữa hai lãnh vực khác nhau, không có sự hoà hợp dễ dàng giữa chân lý và đức ái, nhưng người tín hữu thì, đúng ra, chỉ có một điều cần thiết mà thôi, đó là chọn Chúa Giêsu, theo Chúa Giêsu. Chính bản thân Chúa Giêsu là Đường, là sự Thật và là sự Sống (Xc. Ga 14,6), chứ không phải một con đường nào, một sự thật hay sự sống nào khác. Người Kitô hữu chọn Chúa Giêsu thì chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất, đó là muốn những gì Chúa muốn, làm những gì đẹp ý Chúa… Cũng thế, Thánh Thần, trong Tân Ước, không còn được hiểu là một năng lực mà người tín hữu có thể chiếm hữu và “cất trong túi”, nhưng là một Đấng mà người tín hữu chỉ có thể sống-với, để cho Ngài đồng hành và để Ngài “nói” khi ta phải ra trước “công hội” (Xc. Mc 13,11).
Có con đường của thánh Thomas, thiết tha đi tìm chân lý của Chúa, nhưng vẫn luôn là khát vọng “con chỉ cần chính Chúa” như lời Thomas trả lời với Chúa trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời; và có con đường của Martinô, khởi đi từ tình thương, khám phá lòng nhân ái của Chúa đổ xuống những người cùng khổ, và chính cách thức sống ấy trở nên một sự cật vấn cho những người chỉ biết có một thứ chân lý khô khẳng. Cả hai con đường đó đều là con đường tìm kiếm chính Chúa, tìm kiếm Nước Thiên Chúa, cả hai đều là phương thức thể hiện con đường “tìm kiếm Nước Thiên Chúa” trước hết (Xc. Mt 6,33). Đây chính là con đường của những vị thánh, khác với con đường của những học giả hoặc những người làm việc xã hội thuần tuý. Con đường tìm kiếm Thiên Chúa, “tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước” sẽ đưa các thánh vượt qua những đối lập trong thế giới con người, để hoá giải những đối lập ấy trong chính bản thân của Chúa Giêsu. Cái “trước” ở đây không phải chỉ theo nghĩa thời gian, nhưng là một sự ưu tiên, một sự nắm chắc lấy chính Chúa trong nỗi thiết tha đi tìm “Danh Cha, Nước Cha và Ý Cha”. Những gì Ngài sẽ ban cho sau cũng không phải chỉ là của cải, không phải chỉ là sự thành đạt, nhưng còn là nét hoà trong chân lý và tình yêu mà trước đó ta chưa thấy được. Như thế, ai đó gắn bó với bản thân Chúa Giêsu và thiết tha đi tìm Nước Thiên Chúa thì vẫn có thể hoặc “đào bới sách vở”, hoặc “lấy đường phố làm phòng tu”.
Từ nẻo đường của Martino, chúng ta có thể tìm ra động lực sám hối bằng con đường tình yêu. Thay vì những hiểu lầm của người Do Thái về Đấng Mêsia quyền lực cũng như về mầu nhiệm Nước Trời như vương quốc trần gian, người Kitô hữu có thể khám phá thấy trong mầu nhiệm Nước Trời có động lực của mầu nhiệm tình yêu của Thiên Chúa luôn cao hơn cách nghĩ của con người. Chúng ta có thể chiêm ngắm huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa trong mầu nhiệm Nước Trời, xét như một sự đảo ngược cách hiểu của con người, để rồi nhận ra chính tình yêu thương lạ lùng của Thiên Chúa là căn nguyên tạo nên mọi sự đảo ngược ấy. Tình yêu Thiên Chúa trở thành một thách đố với cách hiểu thông thường, và thôi thúc sám hối. Sám hối là sám hối vì tình yêu Thiên Chúa và sám hối là thay đổi não trạng để hiểu huyền nhiệm tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, vì chính huyền nhiệm tình yêu cứu độ của Thiên Chúa như một bóng dáng bao trùm và ẩn khuất trong mầu nhiệm Nước Trời.


[1] Xc. T/đ Caritas in veritate, s.1. Xin nói thêm : Deus caritas est / Deus veritas est. Như vậy, nói đùa theo kiểu ngắn gọn hiện nay : Deus Ca-ve-ritas est; mà cave lại có nghĩa là gái bao !!!, một loại người hèn mọn được Chúa yêu thương và dẫn dắt đến chân lý cứu độ. Đây là “lý luận” kiểu huyền nhiệm !!!
[2] Xc. T/đ Caritas in veritate, s.1.
[3] Gabriel Marcel cho chúng ta thấy sự khác biệt của “huyền nhiệm” và “vấn đề”. Người ta thường hay tưởng lầm nhiều điều thuộc lãnh vực huyền nhiệm nhưng không được chiêm ngắm mà lại được mang ra giải quyết như một vấn đề.
[4] Siêu hình, hiểu như là điều căn cốt của một tôn giáo, triết lý hoặc một tổ chức nào.
Xem thêm…

Copyright ©THT - Được biên soạn và sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau - Ghi rõ nguồn:quatangsusong.blogspot.com/ - Khi phát hành thông tin trên trang này
Gx Đaminh | Namkna | Trung Tâm Học Vấn Đaminh | Kho tài liệu hay |