Thứ Hai sau Chúa nhật XIII Thường Niên

04:15 |


 Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.
  
 Mt 8,18-22

18 Khi ấy, thấy xung quanh có đám đông, Đức Giê-su ra lệnh sang bờ bên kia. 19 Một kinh sư tiến đến thưa Người rằng : “Thưa Thầy, Thầy đi đâu, tôi cũng xin đi theo.” 20 Đức Giê-su trả lời : “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu.”
21 Một môn đệ khác thưa với Người : “Thưa Ngài, xin cho phép con về chôn cất cha con trước đã.” 22 Nhưng Đức Giê-su bảo : “Anh hãy đi theo tôi, cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ.”

Suy niệm: 

TÂM THÁI CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ*
Lời tự sự của một linh mục về hành trình ơn gọi của mình: Tôi thấy Đức Giê-su đi qua cuộc đời tôi khi tôi đang bận bịu tính toán sổ sách cuộc đời mình. Tôi đứng dậy theo Người… Lóc ca lóc cóc… Để bớt lỉnh kỉnh, tôi bỏ lại cuốn sách đọc dở rồi lại theo Người… Lóc ca lóc cóc… Tôi lại hỏi Người đi đâu? Người nhìn tôi, chẳng nói lời nào. Lúc này, tôi đã thấm mệt. Tôi bỏ lại chiếc bị chứa toàn lương thực và một chút tiền tài. Khi ấy, Người quay lại nhìn tôi mỉm cười và nói: Đến nơi rồi! 

Bài Tin mừng là một trong những bài giảng về sứ mạng truyền giáo (Mt 10, 9-11). Trong đó, Đức Giê-su đòi hỏi người môn đệ phải quyết liệt từ bỏ mọi tiện nghi đời sống, cũng như mọi thứ tình cảm, không hẳn vì khổ chế cá nhân, nhưng vì sự tự do tâm linh, để sống và hành động hoàn toàn cho Nước Trời.

Có nhiều thứ ta quyến luyến khó rời trở nên vật cản đường ta theo Chúa: tiện nghi đời sống, tình cảm phân tâm, sự ham mê say đắm vật chất… mà nhiều khi chỉ là cái cớ để ta khước từ tiếng Chúa, tiếng lương tâm, tiếng gọi của Nước Trời. 

Cúi lạy Ngài, cho chân con vững chãi,
Ðể tiến lên dẫu đường sá hiểm nguy.
Nguyện theo Ngài, thập giá đâu quản ngại,
Chúa cầm tay mà dẫn bước con đi.
Xem thêm…

Thông Điệp Tin Mừng về Sự Sống - CHƯƠNG IV (tt)

00:30 |

 
St John Paul II
“Con cái, đó là hồng ân Chúa ban; kết quả của dạ cưu mang, là phần thưởng ngài tặng” (Tv 127/126)

Gia đình, “cung thánh của sự sống”.

92. Trong lòng “dân tộc của sự sống và vì sự sống”, trách nhiệm gia đình có tính quyết định: đó là một trách nhiệm nảy sinh từ bản tính của gia đình – gia đình hệ tại là một cộng đồng tình yêu, dựa trên hôn nhân, và từ sứ mệnh của nó là “gìn giữ, biểu lộ và thông truyền tình yêu” (117). Đây thực sự là chính tình yêu của Thiên Chúa mà cha mẹ là những người cộng tác và như những thông dịch viên trong việc truyền ban sự sống và trong việc giáo dục, theo dự phòng của Chúa Cha (118). Vậy đây là một tình yêu đã tự hiến tặng nhưng không, đã trở nên sự đón tiếp và trao ban trong gia đình, người nào cũng được nhìn nhận, kính trọng và tôn quý, bởi vì họ là mộ nhân vị, và nếu người nào nhiều nhu cầu hơn, thì cáng đáng được dành cho sự quan tâm và những chăm sóc cấp thiết hơn.

Gia đình có vai trò phải đóng suốt cuộc đời của các phần tử, từ khi sinh ra cho tới khi qua đời. Gia đình thật là “cung thánh của sự sống: nơi mà sự sống, hồng ân Thiên Chúa ban, có thể được đón nhận cách xứng hợp và bảo hộ chống lại nhiều sự tấn công mà nó phải thường hứng chịu; nơi mà sự sống có thể phát triển theo những nhu cầu tăng trưởng chính thực của con người” (119). Vì thế vai trò của gia đình có tính quyết định và không thể thay thế, để xây dựng văn hoá sự sống.

Như là Giáo Hội tại gia, gia đình có ơn gọi loan báo, tôn dương và phục vụ Tin Mừng về sự sống. đó là sứ mệnh liên quan trước hết đến đôi bạn, những người được mời gọi để truyền ban sự sống, bằng cách dựa trên một ý thức luôn luôn được canh tân về ý nghĩa việc sinh sản, coi đó là biến cố ưu đãi, trong đó được biểu lộ sự kiện: sự sống của con người là một ơn được tiếp nhận, để rồi đến lượt mình nó lại được trao ban. Trong việc tạo nên một sự sống mới, cha mẹ ý thức rằng đứa con mình “nếu là kết quả của việc họ tự hiến cho nhau trong tình yêu, thì đến lượt nó, nó sẽ trở nên một hồng ân cho cả hai người: một hồng ân phát sinh từ một hồng ân” (120).

Nhất là nhờ việc giáo dục con cái mà gia đình làm tròn sứ mệnh loan báo Tin Mừng về sự sống. Bằng lời nói và bằng gương sáng, trong những tương quan và chọn lựa hằng ngày, và qua những cử chỉ và dấu hiệu cụ thể, cha mẹ khai tâm cho con cái vào tự do đích thực, được thể hiện trong việc hoàn toàn hiến thân, và họ vun trồng nơi con cái lòng tôn trọng người khác, ý thức về công bình, sự đón tiếp nhân hậu, việc đối thoại, sự phục vụ cách quảng đại, tình liên đới và các giá trị khác giúp ta sống cuộc đời như một hồng ân. Hành động giáo dục của cha mẹ Kitô giáo phải phục vụ đức tin của con cái và giúp chúng đáp ứng ơn gọi mà chúng nhận từ Thiên Chúa. Cũng trong sứ mệnh giáo dục của bậc cha mẹ là phải dạy con cái biết ý nghĩa thực của đau khổ và sự chết, và làm chứng cho chúng biết về những điều ấy: họ sẽ làm được việc ấy, nấu họ biết lưu ý đến mọi nỗi đau khổ họ gặp thấy chung quanh mình, và trước hết, nếu họ biết, ngay từ môi trường gia đình, tỏ ra gần gũi cách cụ thể với các bệnh nhân và những người già yếu, để giúp đỡ và chia sẻ với họ.

93. Hơn thế, gia đình tôn dương Tin Mừng về sự sống bằng kinh nguyện hằng ngày, riêng từng cá nhân hay chung cả gia đình. Trong kinh nguyện, gia đình ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho mình được sống, và xin ơn soi sáng cùng sức mạnh để đối phó với những thời điểm khó khăn và đau khổ, không bao giờ mất hy vọng. Nhưng hình thức tôn dương mang ý nghĩa cho mọi hình thức cầu nguyện và thờ phượng khác, đó là sự tôn dương diễn tả ngay trong cuộc sống hằng ngày của gia đình, nếu được làm vì yêu thương và tự hiến. Như vậy việc tôn dương ấy trở nên sự phục vụ Tin Mừng về sự sống diễn tả bằng tình liên đới, được sống trong gia đình và chung quanh gia đình như một sự quan tâm tế nhị, tỉnh táo và nhân ái, trong những hành động bé nhỏ và khiêm tốn hằng ngày. Tình liên đới được diễn tả một cách đặc biệt khi các gia đình sẵn sàng để tiếp nhận hay để được trao phó những trẻ em bị cha mẹ bỏ rội, hoặc ở trong những hoàn cảnh nghiêm trọng. Tình yêu phụ mẫu đích thực, biết đi xa hơn những liên hệ máu thịt, và biết đón nhận những đứa con của các gia đình khác, sẽ mang lại cho chúng ta tất cả những gì cần thiết để sống và phát nở đầy đủ. Trong những hình thức nhận con nuôi, sự nhận nuôi từ xa (sự bảo trợ) đáng được đề nghị, nhất là trong những trường hợp mà sự bỏ rơi con cái chỉ vì lý do những hoàn cảnh quá nghèo khổ của gia đình. Cách nhận con nuôi này, quả thực là cống hiến cho các cha mẹ sự giúp đỡ cần thiết để nuôi nấng và giáo dục con họ mà không cần đưa chúng ra khỏi môi trường tự nhiên của chúng.

Được hiểu như “sự quyết định vững mạnh và kiên trì làm việc cho công ích: (121) tình liên đới đòi hỏi cũng được thi hành trong những cách tham gia vào đời sống xã hội chính trị. Do đó việc phục vụ Tin Mừng về sự sống giả thiết rằng các gia đình, đặc biệt bằng cách tham dự các hiệp hội, hoạt động để các luật lệ và định chế của nhà nước không làm tổn thương bằng bất cứ cách nào đến quyền được sống, từ lúc thụ thai tới khi chết cách tự nhiên, nhưng phải bảo vệ và nâng đỡ quyền ấy.

94. Người ta phải để dành cho người già cả một vị trí riêng. Trong một số nền văn hoá, người cao niên vẫn là thành phần trong gia đình với vai trò hoạt động quan trọng, nhưng trong nhiều nền văn hoá khác, người già bị coi như gánh nặng vô dụng và người ta bỏ mặc họ, trong tình cảnh này, cơn cám dỗ muốn nhờ tới việc làm cho chết êm dịu có thể dễ xảy đến hơn.

Việc đặt ra bên lề hay cả đến ruồng bỏ những người già là điều không thể tha thứ được. Sự hiện diện của họ trong gia đình, ít là hiện diện gần gũi gia đình, khi gặp cảnh cửa nhà chật chội hay những lý do khác chưa có cách nào giải quyết, mang một tầm quan trọng thiết yếu để tạo ra bầu khí trao đổi hỗ tương và hiệp thông làm phong phú thêm giữa các thế hệ khác nhau. Như thế người ta cần phải duy trì một loại “hiệp ước” giữa các thế hệ, hoặc là người ta tái lập khi nó đã biến mất ngõ hầu những bậc cha mẹ gia nua, khi đã tới chặng đường cuối của đời mình, cũng gặp được nơi con cháu sự tiếp nhận và liên đới mà chính họ đã dành cho con cháu khi chúng vào đời: đây là một yêu sách theo giới răn của Chúa, là phải thảo kính cha mẹ (x. Xh 20,12; Lv 19,3). Nhưng phải còn hơn thế nữa. Người già không chỉ được coi như đối tượng của mối quan tâm gần gũi và của sự giúp đỡ, người già cũng có phần đóng góp quý báu vào việc mang đến Tin Mừng về sự sống. Nhờ di sản phong phú về kinh nghiệm, tích trữ qua bao tháng năm, người già có thể và phải lưu truyền sự không ngoan, làm chứng tá về lòng cậy trông và đức ái.

Nếu quả thực “tương lai nhân loại đến từ gia đình” (122) thì người ta phải nhận rằng, hiện nay, những điều kiện xã hội, kinh tế và văn hoá thường làm cho việc gia đình dấn thân phục vụ sự sống trở nên khó khăn và cực nhọc hơn. Để gia đình có thể đáp ứng được ơn gọi làm “cung thánh sự sống”, như tế bào của xã hội biết yêu thương đón nhận sự sống thì cần thiết và cấp bách là chính gia đình phải được hỗ trợ và nâng đỡ. Các xã hội và nhà nước phải đảm bảo sự nâng đỡ cần thiết, kể cả trên bình diện kinh tế, để các gia đình có thể đối phó với các khó khăn của họ một cách nhân bản nhất. Về phần mình, Giáo Hội phải thăng tiến cách không mệt mỏi mục vụ về gia đình, khả dĩ giúp cho từng gia đình khám phá ra sứ mệnh của họ đối với Tin Mừng về sự sống để sống Tin Mừng ấy với lòng can đảm và niềm hân hoan.


“Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep 5,8)

Thực hiện một khúc ngoặt văn hoá.

95. “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng… Hãy xét xem điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông dự vào những việc vô ích của tối tăm” (Ep 5,8.10-11). Trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, bị ghi dấu bằng việc đối đầu thảm khốc giữa “văn hoá sự sống” và “văn hoá sự chết”, phải phát triển một ý thức phê bình sâu sắc cho phép ta phân biệt được những giá trị chân chính và những nhu cầu đích thực.

Cấp bách phải lao vào cuộc dộng viên toàn bộ lương tâm và một cố gắng chung thuộc lãnh vực đạo đức, để phát dộng một chiến lược lớn hơn cho việc phục vụ sự sống. Ta phải cùng nhau xây dựng nền văn hoá mới của sự sống mới, bởi vì nó có khả năng đề cập và giải quyết những vấn đề chưa từng có mà ngày nay được đặt ra cho sự sống của con người; mới, vì nó sẽ được tiếp nhận bởi tất cả các Kitô hữu với niềm xác tín mạnh mẽ và chủ động; mới, bởi vì nó sẽ có khả năng khơi dậy một cuộc tranh luận văn hoá nghiêm túc và can đảm với mọi người. Sự cấp bách của khúc ngoặc văn hoá này là do hoàn cảnh lịch sử chúng ta đang trải qua, nhưng nó lại xuất phát nhất là từ sứ mệnh Phúc Âm hoá, là sứ mệnh riêng của Giáo Hội. Quả vậy, Tin Mừng nhắm tới việc “chuyển biến từ nội tâm, làm cho chính nhân loại trở nên mới” (123); Tin Mừng như là men làm dậy men cả khối bột (x. Mt 13,33) và như thế, Tin Mừng được chỉ định nhuần thấm mọi nền văn hoá và làm cho chúng sinh động từ bên trong (124) để chúng bày tỏ toàn vẹn chân lý về con người và sự sống của con người.

Người ta phải bắt đầu bằng cách chanh tân nền văn hoá sự sống từ trong các cộng đoàn Kitô hữu. Các tín hữu, cả những người tham gia tích cực vào đời sống Giáo Hội, cũng rất thường rơi vào việc tách lìa đức tin khỏi những đòi hỏi đạo đức đối với sự sống, như thế là họ đi tới thuyết chủ quan luân lý và tời một số những hành xử không thể chấp nhận được. Vì thế ta phải tự vấn, với nhiều sáng suốt và can đảm, về bản chất của nền văn hoá sự sống ngày nay đang phổ biến giữa các Kitô hữu, các gia đình, các nhóm và cộng đoàn trong các giáo phận chúng ta. Với cùng một sự sáng suốt và cùng một quyết tâm, chúng ta phải xác định những hành vi mà chúng ta đã được gọi để chu toàn hầu phục vụ sự sống trong độ sung mãn của chân lý. Đồng thời ta phải hướng dẫn một cuộc tranh luận nghiêm túc và sâu sắc với mọi người, kể cả người vô tín ngưỡng, về những vấn đề căn bản của sự sống con người, trong các lĩnh vực hoạt động tư tưởng, cũng như trong những môi trường chuyên nghiệp khác nhau và ở đâu diễn ra cuộc sống hằng ngày của từng người.

96. Hành động căn bản đầu tiên phải làm để đạt tới khúc ngoặc văn hoá này là việc huấn luyện lương tâm luân lý về giá trị không thể đo lường và bất khả xâm phạm của mọi sự sống con người. Thật là vô cùng quan trọng phải tái khám phá mối dây liên hệ không thể tách rời giữa sự sống và tự do. Đó là những sự thiện không thể tách rời nhau được: khi một trong những sự thiện này bị tổn thương, thì sự thiện kia cũng bị thương tổn. Không có tự do chân chính nơi mà sự sống được không được tiếp nhận và yêu thương, và không có sự sống sung mãn nếu không phải là trong tự do. Hai thực tại này có một điểm quy chiếu hàng đầu và đặc thù nối kết chúng không thể tách nhau ra được, đó là ơn gọi yêu thương. Tình yêu, như một sự hiến thân trto5n vẹn (125), diễn tả ý nghĩa đích thực nhất về sự sống và tự do của nhân vị.

Để huấn luyện lương tâm, việc tái khám phá ra mối dây cấu thành kết hợp tự do với chân lý không kém phần quyết định. Như tôi đã nói nhiều lần, tách rời hẳn tự do khỏi chân lý khách quan sẽ ngăn cản việc thiết lập những quyền lợi của ngôi vị trên nền tảng hợp lý vững chắc, và như thế, sẽ mở cho xã hội một nẻo đường dẫn tới nguy cơ, là sự chuyên chế bất khả trị của các cá nhân, hoặc tới chỗ độc tài gây tử vong của công quyền. (126)

Tiếp đó, cần thiết con người phải nhìn nhận sụ hiển nhiên nguyên thuỷ của thân phận thụ tạo của mình, đã nhận được từ nơi Thiên Chúa hữu thể và sự sống như một hồng ân và một nhiệm vụ: chỉ khi chấp nhận sự lệ thuộc đầu tiên của mình trong hữu thể, con người mới thực hiện được mức sung mãn về sự sống và tự do của mình, và đồng thời, mới có thể tôn trọng toàn vẹn sự sống và tự do của mọi người khác. Nơi đây ta khám phá ra rằng ở “trung tâm mọi nền văn hoá có thái độ mà con người phải bày tỏ trước mầu nhiệm cao cả, nhất là mầu nhiệm Thiên Chúa” (127), khi người ta chối bỏ Thiên Chúa và khi người ta sống như thể Ngài không hiện hữu, hoặc ít ra chẳng quan tâm tới giới răn của Ngài, thì người ta sẽ mau chóng đi tới chối bỏ hoặc làm tổn thương phảm giá ngôi vị con người và tính bất khả xâm phạm của sự sống.

97. Thêm vào việc đào tạo lương tâm, phải liên kết chặt chẽ mọi hoạt động giáo dục, hoạt động này giúp con người vẫn mãi là người hơn, đưa con người tiến hơn mãi vào chân lý, hướng dẫn con người đi tới chỗ tăng gia lòng tôn trọng sự sống, và huấn luyện con người duy trì những tương quan đúng đắn với các nhân vị.

Đặc biệt là cần phải giáo dục theo giá trị sự sống, bằng cách bắt đầu từ cội nguồn riêng của nó. Thật là ảo tưởng khi nghĩ rằng ta có thể xây dựng một nền văn hoá chân thực của sự sống con người, mà lại không giúp các người trẻ hiểu và sống giới tính, tình yêu và cả cuộc đời họ, bằng cách nhìn nhận ý nghĩa thực tại và sự liên kết chặt chẽ của chúng. Giới tính, là sự phong phú của toàn thể ngôi vị, “bày tỏ ý nghĩa thâm trầm của nó, bằng cách đưa (ngôi vị) đến chỗ hiến thân trong tình yêu” (128). Việc tầm thường hoá giới tính biểu lộ ở những yếu tố chính là nguồn sinh ra sự khinh khi đối với sự sống đang nảy sinh; chỉ có tình yêu chân thật mới biết bảo vệ sự sống. Vì vậy ta không bỏ qua việc trình bày, nhất là cho thiếu niên và thanh niên, một nền giáo dục đúng đắn về giới tính và tình yêu, một nền giáo dục bao hàm việc đào tạo để giữ đức thanh khiết, một nhân đức yểm trợ cho sự trưởng thành của một ngôi vị và làm cho ngôi vị có khả năng tôn trọng ý nghĩa “lứa đôi” (sponsal) của thân xác.

Tiến trình giáo dục cho sự sống gồm việc đào tạo các đôi bạn về sự sinh sản có trách nhiệm. Trong tầm mức thực thụ của nó, việc sinh sản có trách nhiệm giả định rằng đôi bạn phải vâng phục tiếng gọi của Chúa và hành động như những thông dịch viên trung thành của thánh ý Ngài; việc này sẽ làm được khi họ biết quảng đại mở rộng gia đình đón nhận những sự sống mới, bằng cách vẫn ở trong thái độ cởi mở và phục vụ đối với sự sống , cả những khi vì lý do nghiêm trọng và trong sự tôn kính luật luân lý, đôi bạn chọn lựa tránh việc mang thai mới, dù tạm thời hay vô thời hạn. Luật luân lý bắt buộc họ dù sao cũng phải làm chủ những xu hướng của bản năng và dục vọng nơi họ, và tôn trọng những quy luật sinh lý đã được ghi khắc ngay trong con người họ. Chính đấy là thái độ làm cho hợp thức việc nhờ các phương pháp tự nhiên để điều hoà sự thụ thai, hầu giúp đôi bạn thực hiện trách nhiệm trong việc truyền sinh: theo khoa học, những phương pháp này càng ngày càng được chính xác và cống hiến những khả năng cụ thể đề có những chọn lựa am hợp với những giá trị luân lý. Việc quan sát đúng đắn các kết quả đạt được phải đánh đổ mọi thành kiến còn khá phổ cập, và làm cho đôi bạn, cũng như nhân viên y tế và các dịch vụ xã hội, xác tín về tầm quan trọng của một nền đạo lý giáo dục cân xứng trong lãnh vực này. Giáo Hội biết ơn những người, với giá của lòng tận tuỵ và của những hy sinh cá nhân mà thường chẳng ai biết đến, đang dấn thân vào những việc nghiên cứu theo các phương pháp tự nhiên này và vào việc phổ biến chúng, đồng thời mở rộng việc giáo dục về các giá trị luân lý mà nghề nghiệp của họ đòi hỏi phải có.

Tiến trình giáo dục cũng không thể thiếu việc quan tâm đến đau khổ và chết. thực sự đau khổ và chết là thành phần của kinh nghiệm con người, cho nên tìm cách giấu nhẹm đi hay tránh né chúng là một điều vô ích và sai lầm. Trái lại mỗi người phải được giúp đỡ để hiểu biết mầu nhiệm sâu xa của chúng, trong thực tại cam go cụ thể của mình. Cả sự đau đớn và nỗi khổ đều có một ý nghĩa và một giá trị, khi chúng được sống trong tương quan chặt chẽ với tình yêu được nhận lãnh và được trao ban. Trong nhãn giới này, tôi muốn rằng mỗi năm người ta sẽ cử hành Ngày Quốc Tế Bệnh Nhân, nhấn mạnh “tính cách cứu độ của việc hiến dâng sự đau khổ mà nếu được sống trong tình hiệp thông với Chúa Kitô, sẽ thuộc về chính yếu tính của công trình Cứu Chuộc” (129). Vả lại, chính sự chết cũng khác hẳn với một cuộc phiêu lưu không hy vọng: nó là cửa vào cuộc sống mở về cõi vĩnh hằng, và đối với những ai sống nó trong Chúa Kitô, thì nó sẽ là kinh nghiệm của việc tham dự vào mầu nhiệm sự chết và phục sinh của Ngài.

98. Tóm lại, ta có thể nói rằng khúc ngoặc văn hoá được mong ước ở đây đòi hỏi nơi tất cả chúng ta một lòng can đảm đi vào một cung cách sống mới, lấy một thang giá trị đúng đắn làm nền tảng cho các lựa chọn cụ thể ở những tầm mức cá nhân, gia đình, xã hội và quốc tế: sự trỗi vượt của hữu thể trên sở hữu (130) của ngôi vị trên các sự vật (131). Cách sống đổi mới cũng đòi hỏi việc bỏ đi tính dửng dưng đề quan tâm đến người khác, bỏ đi việc loại trừ để tiếp đón: những người khác không phải là những kẻ cạnh tranh mà mình phải tự vệ, nhưng là anh chị em mà mình phải liên đới; phải yêu thương họ vì chính họ, họ làm cho ta phong phú nhờ sự hiện diện của họ.

Không ai được cảm thấy như mình bị loại ra ngoài cuộc động viên đi tới nền văn hoá mới của sự sống: tất cả mọi người đều có vai trò quan trọng phải đóng. Cùng với sứ mệnh của các gia đình, sứ mệnh của các nhà giáo và nhà giáo dục là đặc biệt quý báu. Lớp trẻ, được huấn luyện về sự tự do chân chính, có biết giữ nơi mình và làm lan rộng ra chung quanh những lý tưởng sống chân chính và biết lớn lên trong lòng tôn trọng và phục vụ mọi người trong gia đình cũng như ngoài xã hội hay không, điều đó tuỳ thuộc vào các vị ấy.

Cũng thế, các nhà trí thức có thể làm nhiều việc để xây dựng một nền văn hoá mới của sự sống con người. Những nhà trí thức công giáo có vai trò đặc biệt vì họ được coi đề chủ động hiện diện trong những môi trường có ưu đãi nơi tạo nên văn hoá , trong thế giới nhà trường và đại học, trong những sáng tạo nghệ thuật và suy tư nhân bản. Trong khi nuôi dưỡng cảm hứng và hành động của mình bằng nhựa tinh tuý của Tin Mừng, các nhà trí thức công giáo phải hết mình ủng hộ một nền văn hoá mới sự sống, với mục đích “nghiên cứu, thông tin và đào tạo về những điều lia6n can đến các vấn đề chính của khoa y sinh học và pháp lý, liên hệ với việc thăng tiến và bảo vệ sự sống, nhất là trong mối tương quan trực tiếp với luân lý Kitô giáo và các chỉ dẫn của quyền giáo huấn trong Hội Thánh” (132). Các đại học cũng sẽ cung cấp một đóng góp đặc thù, nhất là các đại học công giáo, cũng như các Trung tâm, các Viện và Uỷ ban về đạo đức sinh học.

Những tác nhân khác nhau của các phương tiện truyền thông xã hội cũng có trách nhiệm lớn lao và nghiêm trọng: họ phải làm sao để sứ điệp được truyền đi với nhiều hiệu quả, góp phần cho văn hoá sự sống. Chính vì thế mà họ phải giới thiệu các gương mẫu đời sống cao thượng, dành chỗ cho những chứng từ tích cực, đôi khi đến mức anh hùng, về tình yêu thương con người, trình bày những giá trị của giới tính và của tình yêu với lòng tôn trọng lớn lao, mà không thích thú trong điều làm suy đồi và hạ thấp phẩm giá con người. Trong khi đọc biết thực tại, họ phải từ chối đề cao những gì có thể khơi dậy hay làm nặng nề thêm những tình cảm hay thái độ dửng dưng, khinh thường hoặc chối từ đối với sự sống. Khi cặn kẽ trung thành với sự thật của các sự kiện, họ có bổn phận nối kết sự tự do thông tin với lòng tôn trọng mọi con người và với một tính nhân bản sâu xa.

99. Để đạt tới khúc ngoặc văn hoá vì sự sống, tư tưởng và hành động của nữ giới đóng một vai trò độc nhất và hẳn là quyết định: phụ nữ có bổn phận chấn hưng một “tân thuyết nữ quyền”, không rơi vào cơn cám dỗ muốn đi theo những kiểu mẫu nam giới, nhưng biết nhận ra và biểu lộ đặc tính chân thật thuộc nữ giới qua mọi thể hiện của cuộc sống giữa xã hội, trong khi làm việc để vượt thắng mọi hình thức kỳ thị, bạo lực và khai thác.

Nhắc lại sứ điệp kết thúc Công đồng Vatican II, tôi cũng gởi tới chị em phụ nữ lời kêu gọi thúc bách này: “Hãy giao hoà mọi người với sự sống” (133). Chị em được mời để làm chứng tá cho ý nghĩa tình yêu đích thực, của sự hiến thân và tiếp nhận kẻ khác, hai việc ấy được thực hiện một cách đặc biệt trong quan hệ hôn nhân, nhưng chúng cũng phải làm sinh động mọi tương quan khác giữa người với người. Kinh nghiệm làm mẹ tăng cường nơi chị em một cảm tình sâu sắc đối với bản thân kẻ khác và, đồng thời, trao cho chị em một nhiệm vụ đặc biệt: “Việc làm mẹ bao gồm hiệp thông đặc biệt với mầu nhiệm sự sống được chín muồi trong dạ người phụ nữ… loại tiếp xúc duy nhất này với hữu thể con người mới, được cưu mang trong lòng mẹ, tạo nên thái độ mới của con người – không những đối với người con của mình, mà còn đối với con người nói chung – thái độ ấy mang chất biểu thị cách sâu sắc toàn diện nhân cách của phụ nữ” (134). Quả thực người mẹ đón nhận và mang trong mình một con người khác, bà cho phép con người ấy đứng lên nơi mình, cho nó một chỗ thích hợp, trong khi vẫn tôn trọng tha tính của nó. Như thế, người phụ nữ thấu hiểu và cho biết rằng những tương giao giữa người với người sẽ là đích thực nếu chúng mở rộng để đón nhận nhân vị kẻ khác, được nhìn nhận và yêu mến vì phẩm giá, phát xuất từ sự kiện kẻ khác ấy là một con người, chứ không vì những yếu tố khác, như lợi ích, sức mạnh, trí thông minh, sắc đẹp, sức khoẻ. Đó là sự đóng góp căn bản mà Giáo Hội và nhân loại đợi chờ nơi người phụ nữ. Đó là một điều tiên quyết cần thiết cho khúc ngoặc văn hoá đích thực này.

Tôi muốn được nói lên một suy tư đặc biệt với chị em, là những người phụ nữ đã nhờ đến việc phá thai. Giáo Hội biết rõ ràng bao nhiêu sức ép đã có thể đè nặng trên quyết định của chị em. Giáo Hội cũng chắc chắn rằng, trong nhiều trường hợp, quyết định ấy cũng thực là đau đớn, và cả đến thảm khốc nữa. Có thể là vết thương trong tâm hồn chị em chưa liền lại. Thực ra, chuyện gì đã xảy ra cũng đã là và vẫn còn là bất công sâu xa. Nhưng chị em đừng để mình nản chí, đừng chối từ niềm hy vọng. Tốt hơn nên biết cách hiểu chuyện đã xảy ra và hãy giải thích nó theo sự thật. Nếu chị em chưa làm như vậy, thì xin mở rộng tâm hồn cho sự sám hối với lòng khiêm tốn và cậy trông: Chúa Cha đầy lòng từ bi đang chờ đón chị em ơn tha thứ và bình an trong bí tích Giao Hoà. Chị em biết rằng chẳng có chi là hư mất cả và chị em sẽ có thể xin lỗi đứa con của mình từ nay đang sống trong Chúa. Với sự giúp đỡ bằng lời khuyên và bằng sự hiện diện của những bạn hữu có thẩm quyền, chị em có thể tham gia vào số những người bảo vệ xác tín nhất quyền sống của mọi người, bằng chính chứng từ đau đớn của chị em, trong việc dấn thân cho sự sống, có thể sẽ được chói sáng bằng sự chào đời của những tạo vật mới và được thực hiện qua sự tiếp đón và quan tâm tới những người cần đến một sự hiện diện nhiệt tình, chị em sẽ làm việc để khôi phục một cách nhìn mới về sự sống con người.

100. Trong cố gắng lớn lao để đạt tới nền văn hoá mới về sự sống, chúng ta được nâng đỡ, và được sinh động vì chắc chắn là Tin Mừng về sự sống, như Nước Thiên Chúa, đang lớn lên và kết quả dồi dào (x. Mc 4,26-29). Chắc hẳn sự chênh lệch thật là to lớn giữa nhưng phương tiện đáng kể và hùng mạnh dành cho những thế lực đang hoạt động vì nền “văn hoá sự chết”, so với phương tiện của những người ủng hộ một nền “văn hoá sự sống và tình thương”. Nhưng chúng ta biết có thể cậy nhờ vào ơn phù trợ của Thiên Chúa, đối với Ngài không có gì là không thể làm được (x. Mt 19,26).

Khi có niềm xác tín trong tim, và được sinh động bời sự lo lắng cho số phận từng người, nam cũng như nữ, hôm nay tôi xin nhắc lại cho tất cả mọi người điều mà tôi đã nói cho các gia đình dấn thân trong những trách vụ đã trở nên khó khăn vì những cảm bẫy đang đe doạ họ (135): việc cầu nguyện cho sự sống rộng khắp trên toàn cầu, là một điều khẩn cấp. Ước mong, qua những sáng kiến khác thường và trong việc cầu nguyện thường xuyên, lời tha thiết khẩn nài được dâng lên Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá hằng yêu quý sự sống, từ tất cả các cộng đồng Kitô hữu, từ tất cả các nhóm, các phong trào, các gia đình, từ trái tim của mọi người tin! Chúa Giêsu đã làm gương cho ta thấy rằng cầu nguyện và chay tịnh là những võ khí chính và linh nghiệm nhất chống lại thế lực sự dữ (x. Mt 4,1-11), và Chúa đã dạy các môn đệ rằng có một số quỷ chỉ bị trừ khử bằng việc cầu nguyện này (x. Mc 9,29). Vậy ta hãy khiêm nhường và can đảm cầu nguyện và giữ chay để xin cho sức mạnh từ Đấng Tối Cao đến làm đổ những bức tường lừa phỉnh và dối trá đang che mắt bao anh chị em chúng ta, không cho thấy bản chất gian tà của những cách đối xử và luật lệ thù nghị với sự sống, và xin sức mạnh của Chúa mở tâm hồn cho họ những quyết tâm và ý hướng được cảm hứng bởi nền văn minh sự sống và yêu thương.


“Tất cả những điều này, chúng tôi viết cho anh em, để niềm vui của chúng ta được đầy đủ” (1 Ga 1,4)

Tin Mừng về sự sống dành cho thành trì loài người

101. “Tất cả những điều này, chúng tôi viết cho anh em, để niềm vui chúng ta được đầy đủ” (1Ga 1,4). Mặc khải Tin Mừng về sự sống được ban cho chúng ta như một thiện hảo để thông chuyển cho tất cả mọi người, để cho tất cả được hiệp thông với ta và với Chúa Ba Ngôi (x. 1Ga 1,3). Chúng ta cũng vậy, chúng ta sẽ không thể ở trong niềm vui đầy đủ, nếu chúng ta không thông truyền Tin Mừng này cho những người khác, mà lại chỉ giữ riêng cho mình.

Tin Mừng về sự sống không chỉ dành riêng cho những người có tín ngưỡng, nó được dành cho tất cả mọi người,. Vấn đề sự sống, vấn đề bảo vệ và thăng tiến sự sống, không phải chỉ là đặc quyền của người Kitô hữu. Dầu vấn đề này tiếp nhận từ đức tin một ánh sáng và một sức mạnh khác thường, thì nó vẫn thuộc về mọi lương tâm con người khát vọng chân lý và chăm chú ưu tư với vận mệnh nhân loại. Chắc chắn là trong sự sống có một giá trị thánh thiêng và tôn giáo, nhưng bằng bất cứ cách nào người ta không thể bảo rằng việc ấy chỉ liên quan đến những người có tín ngưỡng: quả vậy, đây là một giá trị mà bất cứ con người nào cũng có thể hiểu được dưới ánh sáng lý trí và nó nhất thiết liên hệ tới mọi người.

Do đó, hành động của chúng ta, là “dân của sự sống và vì sự sống” đòi phải được hiểu cho đúng và được tiếp nhận với thiện cảm. Khi Giáo Hội tuyên bố sự tôn trọng vô điều kiện quyền sống của mọi người vô tội, từ khi thành thai cho đến lúc chết tự nhiên, là một trong những cột trụ trên đó được xây dựng mọi thứ xã hội dân sự, thì Giáo Hội “chỉ muốn chấn hưng một nhà nước nhân bản, một nhà nước nhìn nhận rằng bổn phần hàng đầu của mình là bảo vệ những quyền căn bản của nhân vị, đặc biệt là những quyền của kẻ yếu nhất” (136).

Tin Mừng về sự sống được dành tặng cho thành trì của loài người. Hành động vì sự sống, là góp phần vào sự canh tân xã hội bằng việc thực hiện công ích. Quả vậy, không thể nào có thể thực hiện công ích mà không nhìn nhận và bảo vệ quyền sống, trên đó được thiết lập và phát triển mọi quyền bất khả nhượng khác của con người. Và một xã hội không thể có nền tảng vững chắc, nếu như, khi khẳng định các giá trị như phẩm giá con người, công lý và hoà bình, xã hội ấy lại tự mâu thuẫn triệt để bằng cách chấp thuận hay miễn trách những hình thức khác nhau của việc khinh dễ hay xâm phạm chính sự sống con người, nhất là khi sự sống ấy thật non yếu hay bị gạt ra bên lề. Chỉ có lòng tôn trọng sự sống mới có thể thiết lập và bảo đảm những thiện hảo quý báu nhất, và cần thiết nhất của xã hội, như nền dân chủ và hoà bình.

Quả thế, không thể có dân chủ thực sự nếu người ta không nhìn nhận phẩm giá của mọi người và không tôn trọng các quyền của mọi người.

Cũng không thể có hoà bình thực sự nếu người ta không bênh vực và nâng đỡ sự sống, như Đức Phao lô VI đã nhắc: “Mọi tội ác chống lại sự sống và một nguy hại cho hoà bình, nhất là khi nó phạm đến phong tục của dân… Trong lúc mà ở đâu quyền con người được thực sự tuyên xưng và công khai nhìn nhận và bảo vệ, thì hoà bình trở thành bầu khí vui tươi và có hiệu quả cho đời sống trong xã hội” (137).

“Dân tộc của sự sống” được vinh dự chia sẻ với bao nhiêu người khác những dấn thân của mình; và nền văn hoá mới của tình thương yêu và liên đới sẽ được phát triển vì lợi ích thực sự của thành trì nhân loại.
Xem thêm…

Thông điệp tin mừng về sự sống - Chương IV

16:31 |
St John Paul II
Chương IV

CHÍNH LÀ CHO TA MÀ CÁC CON LÀM ĐIỀU ĐÓ

TIẾN TỚI NỀN VĂN HOÁ MỚI CỦA SỰ SỐNG CON NGƯỜI
“Anh em là dân tộc thuộc về Thiên Chúa, có nhiệm vụ loan báo những kỳ công của Ngài” (x. 1Pr 2,9)
Dân tộc của sự sống và vì sự sống
78. Giáo Hội đã đón nhận Tin Mừng như một loan báo và như một nguồn vui và nguồn cứu độ. Giáo Hội đón nhận Tin Mừng như hồng ân của Chúa Giêsu, Đấng mà Chúa Cha sai xuống “đề mang Tin Mừng cho người nghèo khó” (Lc 4,18). Giáo Hội đón nhận Tin Mừng qua các Tông đồ được Chúa sai khắp thế gian (x. Mc 16,15; Mt 28,19-20). Được sinh ra từ hành động loan báo Tin Mừng này, Giáo Hội cảm thấy vang lên trong lời mình lời cảnh cáo hằng ngày của Thánh Tông Đồ: “Khốn cho tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng” (1Cr 9,16). Như Đức Phaolô VI đã viết, phúc âm hoá quả thực là hồng ân và ơn gọi riêng của Giáo Hội, là căn tính sâu xa nhất của Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu để loan báo Tin Mừng (101).
Phúc âm hoá là hành động bao quát và năng động, đưa Giáo Hội tới chỗ tham gia sứ mệnh ngôn sứ, tư tế và vương giả của Chúa Giêsu. Vì thế, việc ấy bao gồm một cách không thể tách rời các chiều kích của việc loan báo, cử hành và việc phục vụ của đức ái. Đó là hành vi mang tính Giáo Hội sâu xa liên quan tới mọi người thợ làm việc cho Tin Mừng, mỗi người theo ơn đoàn sủng và thừa tác vụ của mình.
Cũng như thế đối với việc loan báo Tin Mừng về sự sống, thành phần của Tin Mừng, là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta là những người phục vụ Tin Mừng này, được nâng đỡ bởi ý thức rằng mình đã đón nhận Tin Mừng ấy như một hồng ân và được sai đi để loan báo Tin Mừng ấy cho cả nhân loại “tới mãi tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Chính vì thế chúng ta khiêm tốn và tri ân duy trì tâm tư mình là dân của sự sống và vì sự sống: trước mặt mọi người chúng ta thật sự là như vậy đó.
79. Chúng ta là dân của sự sống và vì sự sống bởi lẽ, trong tình yêu nhưng không của Ngài, Thiên Chúa đã ban cho ta Tin mừng về sự sống và bởi lẽ Tin Mừng này đã biến đổi và cứu chuộc chúng ta. Chúng ta được “Đấng ban sự sống” chinh phục lại (Cv 3,15) với giá bửu huyết của Ngài (x. 1Cr 6,20; 7,23; 1Pr 1,19), nhờ được dìm trong giếng Thanh Tẩy, ta được tháp nhập vào Ngài (x. Rm 6,4-5); Cl 2,12) như những cành cây hút từ cùng một thân cây nhựa sống và sinh hoa kết trái (x. Ga 15,5). Được canh tân trong nội tâm bởi ơn Chúa Thánh Thần, “Ngài là Chúa và là Đấng ban sự sống”, chúng ta đã trở nên dân tộc vì sự sống và chúng ta được gọi để cư xử trong tư cách ấy.
Chúng ta được sai đi: đối với chúng ta, phục vụ sự sống, không phải là lý do cho ta kiêu ngạo, mà là bổn phận phát sinh từ ý thức rằng mình là: “dân tộc Chúa đã chiếm hữu, để tuyên xưng lời ca tụng Ngài” (x. 1Pr 2,9). Luật của tình yêu hướng dẫn ta và nâng đỡ ta trên đường đi, tình yêu mà Con Thiên Chúa làm người là nguồn mạch phát sinh và mẫu gương, Ngài “đã ban sự sống cho thế gian nhờ cái chết của mình” (102).
Chúng ta được sai đi như một dân tộc.Việc dấn thân phục vụ sự sống liên hết tới từng người. Đó là một trách nhiệm mang tính “Giáo Hội”, nó đòi một hành động nhịp nhàng và quảng đại của mọi thành viên và mọi cơ cấu trong Cộng đoàn Kitô giáo. Tuy nhiên, bổn phận chung không loại bỏ và không giảm bớt trách nhiệm cá nhân, bởi vì lệnh truyền của Chúa nói với từng con người là phải làm cho mọi người thành người lân cận của mình: “Anh hãy đi, và chính anh hãy làm như thế” (Lc 10,37).
Tất cả chúng ta cùng cảm thấy bổn phận loan báo Tin Mừng về sự sống, tôn dương Tin Mừng này trong phụng vụ và trong cả cuộc sống, phục vụ Tin Mừng này bằng nhiều sáng kiến và nhiều tổ chức có mục đích yểm trợ và cổ võ Tin Mừng ấy !
Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho anh em” (1Ga 1,3)
Loan báo Tin Mừng về sự sống
80. Điều ngay từ đầu đã có, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã tận tay sờ tới về Lời Sự Sống… chúng tôi loan báo cho anh em, để anh em cùng hiệp thông với chúng tôi” (1Ga 1,1-3). Chúa Giêsu là Tin Mừng duy nhất: không có tin mừng nào khác mà chúng ta tuyên xưng và làm chứng.
Loan báo Chúa Giêsu, đúng là loan báo sự sống. Vì Ngài là “Lời Sự Sống” (1Ga 1,1). Nơi Ngài “sự sống đã được tỏ hiện” (1Ga 1,2), hoặc đúng hơn chính Ngài là “sự sống đời đời ấy, vẫn hướng về Chúa Cha và đã hiện cho chúng ta thấy” (1Ga 1,2).
Chính là sự sống ấy, nhờ ơn Chúa Thánh thần, đã được thông ban cho con người. Được hướng về sự sống sung mãn, về sự sống vĩnh hằng, nên sự sống trần gian của mỗi người đã có được tất cả ý nghĩa của mình.
Được soi sáng bởi Tin Mừng về sự sống chúng ta cảm thấy nhu cầu cần phải công bố và làm chứng tá trong một sự mới lạ làm nổi bật Tin Mừng này: bởi vì Tin Mừng này đồng nhất với chính Chúa Giêsu là Đấng đem đến mọi điều mới lạ (103) và là Đấng chiến thắng mọi “già cỗi” xuất phát từ tội lỗi và đưa tới sự chết (104), Tin Mừng vượt quá lòng mong chờ của con người, và mặc khải những độ cao tuyệt vời mà nhờ ân sủng, phẩm giá con người đã được nâng lên. Đó là điều mà Thánh Grêgoriô Nyssênô đã chiêm ngắm: “Trong các hữu thể, thì con người chẳng đáng kể là gì, con người là cát bụi, rơm rác, phù vân, thế mà một khi trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa Chủ Tể càn khôn, lại được thân mật với Đấng mà không ai có thể thấy, hoặc nghe, hoặc hiểu được sự tuyệt đối thiện hảo và vĩ đại của Ngài. Ta dùng lời nói, tư tưởng nào, tầm vương cao nào của tâm trí để có thể tung hô sự sung mãn của ơn này? Con người siêu việt hơn bản tính mình: từ chỗ chết vươn tới bất tử, từ chỗ hư nát vươn tới bất khả hư nát, từ phù vân qua vĩnh cửu, tóm lại, từ thân phận là người được trở nên Thiên Chúa” (105).
Niềm tri ân và hân hoan vì phẩm giá khôn lường của con người thúc đẩy ta phải làm cho cả thế giới được hưởng sứ điệp này: “Điều mà chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho anh em, để anh em được hiệp thông với chúng tôi” (1Ga 1,3). Cần thiết phải làm cho Tin Mừng về sự sống đến được với mọi người, nam cũng như nữ, đưa Tin Mừng ấy vào trong những ngõ ngách sâu kín nhất của toàn xã hội.
81. Đây là vấn đề, trước hết, phải công bố tâm điểm của Tin Mừng này. Đó là việc loan báo về Đấng Thiên Chúa hằng sống và gần gũi, Ngài gọi tới hiệp thông sâu xa với Ngài, và mở cho ta niềm hy vọng vững chắc được sống đời đời; đó là sự khẳng định về mối dây không thể tách lìa giữa ngôi vị, sự sống và tính xác thể của con người; đó là việc trình bày sự sống con người như là sự sống liên đới, là hồng ân Thiên Chúa, là kết quả và dấu chỉ của tình yêu Ngài; đó là việc công bố mối tương quan khác thường giữa Chúa Giê su với từng người, cho phép ta nhìn trên gương mặt con người chính dung mạo Chúa Kitô; đó là việc “bày tỏ sự hiến dâng trọn bản thân” như một bổn phận và như nơi thể hiện đầy đủ sự tự do.
Đồng thời, cũng trình bày mọi hậu quả của chính Tin Mừng này mà ta có thể tóm lược như sau: là hồng ân quý báu Chúa ban, sự sống con người thì thánh thiêng và bất khả xâm phạm, và vì thế, đặc biệt việc có ý phá thai là làm chết êm dịu đều tuyệt đối không thể chấp nhận được, không những không được huỷ diệt sự sống con người mà còn phải bảo vệ nó trong mối quan tâm đầy tình thương; sự sống tìm thấy ý nghĩa của nó trong tình yêu được tiếp nhận và được trao ban: chính ở tầm mức này mà giới tính và việc truyền sinh của con người đạt tới chân tính của chúng; trong tình yêu này, đau khổ và sự chết cũng có một ý nghĩa và, mặc dầu còn mãi mầu nhiệm bao quanh chúng, đau khổ và sự chết có thể trở nên những biến cố cứu độ, lòng tôn trọng sự sống đòi hỏi khoa học và kỹ thuật phải được hiến về con người và sự phát triển toàn diện con người; toàn xã hội tôn trọng, bênh vực và thăng tiến phẩm giá của mọi con người, vào mọi thời điểm và mọi tình trạng của cuộc sống họ.
82. Để được thực sự là một dân tộc biết phục vụ sự sống chúng ta phải kiên trì và can đảm đề nghị sứ điệp này, ngay từ lời đầu tiên loan báo Tin Mừng, và tiếp sau là trong giáo lý và những hình thức giảng thuyết khác nhau, trong đối thoại cá nhân cũng như trong mọi công trình giáo dục. Các nhà giáo dục, giáo viên, các người giảng dạy giáo lý và thần học gia, đều có bổn phận làm nổi bật lên những lý do nhân loại học xây dựng và nâng đỡ lòng tôn trọng mọi sự sống con người. Bằng cách này, khi làm sáng ngời tính mới lạ độc đáo của Tin Mừng về sự sống, chúng ta có thể giúp mọi người cũng khám phá ra, nhờ ánh sáng của lý trí và của kinh nghiệm, bằng cách này mà sứ điệp Kitô giáo soi sáng đầy đủ con người, cũng như ý nghĩa hữu thể và hiện hữu của con người, chúng ta cũng sẽ tìm được nhiều điểm gặp gỡ và đối thoại quý báu với những người không tín ngưỡng, trong khi cùng nhau dấn thân làm phát triển nền văn hoá của sự sống mới.
Bị tấn công bởi những ý kiến đối nghịch nhất, khi mà có nhiều người chối bỏ giáo lý chân chính về sự sống con người, chúng ta cảm thấy lời căn dặn của Thánh Phao lô gửi cho Tim ô thê cũng như đang được nói với mình: “Hãy rao giảng Lời Chúa, hãy ứng phó lúc thuận lúc nghịch, hãy biện bác, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn, với tất cả lòng kiên nhẫn và dụng tâm dạy dỗ” (2 Tm 4,2). Lời khuyên này phải được vang dội thật mạnh trong trái tim của mọi người, trong Giáo Hội, đang tham gia trực tiếp hơn, dưới nhiều tước vị, vào sứ mệnh của Giáo Hội là “thầy” dạy chân lý. Lời khuyên này phải liên quan đến chúng ta trước hết,. chúng ta, các Giám mục: chúng ta là những người đầu tiên được kêu gọi làm sứ giả không mỏi mệt rao giảng Tin Mừng về sự sống, chúng tta cũng có bổn phận canh giữ sự truyền thông trọn vẹn và trung thành giáo huấn được nhắc lại trong Thông điệp này và đưa ra những biện pháp thích hợp nhất để các tín hữu được bảo vệ khỏi mọi lý thuyết trái nghịch giáo huấn này. Chúng ta phải đặc biệt chú ý tới điều này là trong các phân khoa thần học, các chủng viện và các trường Công giáo khác nhau, sự hiểu biết giáo lý lành mạnh này phải được truyền bá, giải thích và đào sâu (106). Lời khuyên của Thánh Phaolô cũng phải được nghe biết bởi tất cả các nhà thần học, các mục tử và bởi tất cả mọi người có sứ mệnh giáo huấn, dạy giáo lý và đào tạo các lương tâm: thấu suốt vai trò mình phải chu toàn, họ sẽ không bao giờ phải chịu trách nhiệm nặng nề vì đã phản bội chân lý và sứ mệnh riêng của mình bằng cách trình bày những ý tưởng cá nhân nghịch với tin Mừng về sự sống mà quyền giáo huấn đã nhắc lại và giải thích cách trung thành.
Trong việc loan báo Tin Mừng này, chúng ta không được sợ bị thù oán hay sợ thất nhân tâm, nhưng phải từ chối mọi sự đồng loã hay mọi sự hàm hồ làm cho chúng ta phù hợp với não trạng thế gian (x. Rm 12,2). Chúng ta phải ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian (x. Ga 15,19; 17,16), nhờ sức mạnh đến ta từ Chúa Kitô, Đấng chiến thắng thế gian bằng sự chết và cuộc chinh phục của Ngài (x. Ga 16,38).
“Con tạ ơn Chúa vì bao nhiêu kỳ công” (Tv 139/138,14)
Tôn dương Tin mừng về sự sống
83. Được sai đi khắp thế gian như “dân tộc vì sự sống”, việc loan báo của ta cũng phải trở nên việc tôn dương Tin mừng về sự sống. Hơn nữa, việc tôn dương này, với sức mạnh gợi ý của các cử chỉ, các biểu tương và các nghi thức, được mời gọi trở thành nơi chốn riêng biệt và rất ý nghĩa cho việc truyền đạt vẻ đẹp và sự cao cả của Tin Mừng ấy.
Với mục đích này, trước hết cần kiếp phải duy trì nơi ta và nơi người khác một cái nhìn chiêm niệm (107). Cái nhìn này phát sinh từ lòng tin kính Thiên Chúa của sự sống. Đấng đã tạo dựng mọi con người, bằng cách làm cho họ nên như một kỳ công (x. Tv 139/138,14). Đó là cái nhìn của ai trông thấy sự sống tận chiều sâu của nó bằng cách thấu hiểu những chiều kích của sự nhưng không, của vẻ đẹp, của tiếng kêu mời đến với tự do và trách nhiệm. Đó là cái nhìn của ai không kỳ vọng làm chủ thực tại, nhưng đón nhận thực tại như một hồng ân, khám phá trong mọi sự ánh phản chiếu của Đấng Tạo Hoá và trong mọi người hình ảnh sống động của Ngài (x. St 1,27; Tv 8,6). Cái nhìn này không để mất lòng tin cậy trước kẻ bệnh tật, đau khổ, bị gạt ra bên lề, hay đang đứng bên ngưỡng cửa của sự chết, nhưng cái nhìn này lắng nghe lời chất vấn của tất cả tình cảnh đó, để đi tìm ra một ý nghĩa, và trong những dịp ấy, cái nhìn này sẵn sàng nhận ra trên khuôn mặt mọi người một lời mời gọi gặp gỡ, đối thoại và liên đới.
Linh hồn cảm kích vì nỗi sửng sốt mang tính tôn giáo, đã đến giờ tất cả chúng ta cần có cái nhìn ấy để lại có khả năng tôn quý và trọng vọng mọi người, như Đức Phaolô VI đã mời gọi ta thực hiện, trong một sứ điệp Giáng Sinh (108). Được thúc đẩy bởi cái nhìn chiêm niệm ấy, dân tộc mới của những người cứu chuộc không thể không vang lên những khúc ca hân hoan, khen ngợi và tri ân đối với hồng ân vô giá là sự sống, đối với mầu nhiệm của lời kêu gọi tất cả mọi người tham dự, trong Chúa Kitô, vào đời sống ân sủng và vào cuộc sinh tồn hiệp thông vô tận với Thiên Chúa là Đấng Tạo Thành và là Cha.
84. Tôn dương Tin mừng về sự sống có nghĩa là tôn dương Thiên Chúa của sự sống, Thiên Chúa ban sự sống: “Chúng ta phải tôn dương sự sống đời đời, từ đó phát nguyên mọi hình thức sự sống. Chính từ sự sống đời đời mà mọi hữu thể, tuỳ khả năng của mình, đã nhận được sự sống, tức là mọi hữu thể tham dự vào sự sống cách này hay cách khác. Sự Sống thần linh, vượt trên mọi hình thức sự sống, đang tác sinh và bảo tồn sự sống. Mọi hình thức sự sống và mọi vận động có sinh khí đều phát xuất từ sự sống siêu việt trên mọi sự sống và mọi nguyên lý sống khác. Các linh hồn phải nhờ Sự sống ấy mà mọi động vật và thảo mộc - nhận từ đó tia sống nhỏ bé nhất - mới được sống động. Còn đối với con người, là những hữu thể được làm nên bằng tinh thần và vật chất thì Sự Sống ban cho họ sức sống. Và nếu ta phải bỏ sự sống này, thì lúc ấy Sự Sống cải hoá chúng ta và gọi ta đến với Sự Sống nhờ tình yêu sung mãn của sự sống đối với con người. Hơn thế nữa, Sự Sống còn hứa dẫn đưa ta cả hồn và xác đến sự sống hoàn hảo, đến sự bất tử, thật quá ít khi nói rằng Sự Sống ấy hằng sống mà phải nói: Sự Sống ấy là Nguyên Lý sự sống, là Nguyên nhân và Nguồn mạch duy nhất phát sinh Sự Sống. Mọi sinh vật phải chiêm ngắm và ngợi khen Sự Sống ấy: vì đó là Sự Sống ban cho ta được sống dồi dào. (109)
Cùng với tác giả Thánh Vịnh, trong kinh nguyện hằng ngày, cá nhân hay cộng đoàn, chúng ta ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa, Cha chúng ta, Đấng đã dệt nên chúng ta trong lòng mẹ, Đấng đã thấy và yêu thương chúng ta khi chúng ta chưa được hoàn chỉnh hình hài (x. Tv 139/138,13.15.16), và reo lên với niềm vui tràn đầy: “Con cảm tạ Chúa vì biết bao kỳ công: lạ lùng thay thân con, lạ lùng thay những công trình của Chúa” (Tv 139/138,14). Phải “sự sống hay chết này, mặt dầu những dằn vặt, những mầu nhiệm tăm tối, những đau đớn và nỗi mỏng dòn không thể tránh được, lại là một thực tại lạ lùng, một kỳ diệu luôn mới và gây cảm động, một biến cố đáng được ca ngợi và tôn vinh trong niềm hân hoan” (110). Vả lại, con người và sự sống con người không chỉ xuất hiện như một trong những điều kỳ diệu lớn nhất trong công trình sáng tạo, nhưng Thiên Chúa còn ban cho con người một phẩm giá gần như là thần thiêng (x. Tv 8,6-7). Trong từng em bé sinh ra hay trong từng con người đang sống hay đang chết, chúng ta đều nhận ra hình ảnh của vinh quang Thiên Chúa: Ta tôn dương vinh quang ấy nơi mọi người là dấu chỉ của Thiên Chúa hằng sống, hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta được mời gọi bày tỏ nỗi ngạc nhiên thán phục và biết ơn vì sự sống ta nhận được như một hồng ân, và đón tiếp, trân trọng, thông báo Tin mừng về sự sống, không những trong lời kinh riêng tư và cộng đoàn, mà nhất là trong những việc cử hành Năm Phụng vụ. Ở đây phải nhắc riêng đến các bí tích là dấu chỉ linh nghiệm về sự hiện diện và hành động cứu độ của Chúa Giêsu trong cuộc sống Kitô hữu: những bí tích ấy làm cho con người được tham dự đời sống Thiên Chúa, trong khi bảo đảm cho họ một nghị lực thiêng liêng, cần thiết để thấu hiểu, trong tất cả sự thật, ý nghĩa của sự sống, của sự đau khổ, và của sự chết. Nhờ sự tái khám phá đích thực ý nghĩa các nghi thức, và nhờ việc đặt đúng giá trị của các nghi thức ấy, các cử hành phụng vụ, nhất là cử hành bí tích, sẽ luôn luôn có thể diễn tả tất cả sự thật về việc sinh ra đời, và sự sống, về sự đau khổ và sự chết, trong khi giúp ta sống những điều ấy, như một sự tham gia vào mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô đã chết và phục sinh.
85. Trong việc cử hành Tin mừng về sự sống, cần phải biết thẩm định và làm nổi bật giá trị những nghĩa cử và những biểu hiện rất phong phú trong các truyền thống khác nhau và trong các tập quán văn hoá bình dân. Đó là những cơ hội và những hình thức giao lưu, qua đó được biểu lộ trong nhiều quốc gia và nhiều nền văn hoá khác nhau niềm vui của sự sống đang bắt đầu, sự tôn trọng và sự bảo vệ toàn vẹn sự sống con người, sự quan tâm đến người đau khổ hoặc đến những kẻ đang gặp khó khăn, sự gần gũi đối với người già yếu hay kẻ đang hấp hối, sự chia sẻ nỗi đau của người gặp tang chế, niềm hy vọng và khát khao cõi vĩnh hằng.
Trong viễn tưởng ấy, tôi cũng đã đón nhận sự gợi ý của các vị Hồng y nhân Hội nghị năm 1991 và tôi đề nghị chớ gì hằng năm trong nhiều quốc gia khác nhau được cử hành một Ngày vì sự sống như đã được thực hiện theo sáng kiến của một số Hội đồng Giám Mục. Chớ gì ngày này nên được chuẩn bị và cử hành với sự tham gia tích cực của mọi thành phần trong giáo hội địa phương. Mục đích căn bản của ngày này là để khơi dậy trong mọi lương tâm, trong mọi gia đình, trong Giáo Hội và trong xã hội loài người sự nhận biết ý nghĩa và giá trị của sự sống con người ở mọi giai đoạn, trong mọi hoàn cảnh, bằng cách gây sự chú ý đặc biệt đến tính chất nghiêm trọng của việc phá thai và làm chết êm dịu, nhưng không vì đó mà coi thường những thời kỳ và những khía cạnh khác của sự sống, cũng đáng được quan tâm trong từng trường hợp, tuỳ vào sự biến chuyển của hoàn cảnh.
86. Trong tin thần thờ phượng thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12,1), việc tôn dương Tin Mừng về sự sống nên được thực hiện cốt yếu là trong cuộc sống hằng ngày, được sống trong tình yêu tha nhân và trong sự trao hiến bản thân. Chính cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên sự tiếp nhận chân thực và đầy trách nhiệm trước ân ban sự sống, đồng thời cũng trở nên bài ca chân thành biết ơn Thiên Chúa, Đấng trao ban cho chúng ta quà tặng này. Đó chính là điều đang xảy ra trong biết bao hành vi phước thiện, thường thường khiêm tốn và ẩn kín, được nhiều người nam người nữ, trẻ em, người lớn, người trẻ người già, đau ốm hay mạnh khoẻ thực hiện.
Chính trong bối cảnh chan chứa tình người và tình yêu như thế, mà phát sinh nhiều nghĩa cử anh hùng. Những nghĩa cử này là việc tôn dương Tin Mừng về sự sống cách trọng đại nhất, bởi vì chúng công bố Tin Mừng bằng chính việc trao hiến trọn vẹn bản thân mình, chúng là sự biểu hiện rực rỡ của mức độ cao nhất của tình yêu: trao hiến mạng sống mình vì người mình yêu (x. Ga 15,13); chúng là sự hiệp thông vào mầu nhiệm thập giá, trên cây thập giá Chúa Giêsu mặc khải cho ta thấy tất cả giá trị mà sự sống của mọi người có được đối với Ngài và sự sống này được thực hiện cách tràn đầy trong việc trao hiến trọn vẹn bản thân mình như thế nào. Ngoài những công việc hiển hách, còn có sự anh hùng thường ngày, hình thành từ những hành vi chia sẻ nhỏ nhặt hay to tát đang làm phong phú nền văn hoá đích thực của sự sống. Giữa những nghĩa cử này, đặc biệt nên đánh giá cao việc hiến tặng các bộ phận thân thể, thực hiện dưới một hình thức luân lý có thể chấp nhận được; việc tự hiến tặng này cho phép nhiều bệnh nhân đôi khi tuyệt vọng, có được viễn tượng mới mẻ về sức khoẻ và ngay cả sự sống.
Thuộc về sự anh hùng thường ngày là việc làm chứng thầm lặng, nhưng phong phú và hùng hồn biết bao, của “tất cả những bà mẹ dũng cảm tự hiến trọn vẹn cho gia đình, chấp nhận đau khổ khi sinh con, và sau đó sẵn sàng chịu đựng mọi mệt nhọc, đương đầu với mọi hy sinh để truyền đạt cho con cái điều tốt đẹp nhất mà các bà có được” (111). Trong khi hoàn thành sứ mệnh của mình, “không phải lúc nào các bà mẹ anh hùng này cũng được người thân cận nâng đỡ. Trái lại, nhiều mô hình văn minh, thường được các phương tiện truyền thông xã hội cổ xuý và phổ biến, không mấy ưu đãi tình mẫu tử. Nhân danh sự tiến bộ và tính hiện đại, từ nay người ta coi như lỗi thời các giá trị của sự thuỷ chung, đức khiết tịnh và sự hy sinh đã và vẫn còn làm rạng rỡ vo số những người vợ, người mẹ công giáo… Chúng tôi cám ơn các bà vì sự hy hiến mạng sống của các bà… Trong huyền nhiệm phục sinh, Chúa Ki tô hoàn lại cho các bà quà tặng mà các bà đã làm. Quả vậy, Ngài có quyền ban trả cho các bà sự sống mà các bà đã mang làm của lễ dâng lên Ngài” (112).
“Ích gì, hỡi anh em, khi ai nói “tôi có đức tin” mà việc làm không có?” (Gc 2,14)
Phục vụ Tin Mừng về sự sống
87. Bằng việc tham dự vào sứ mệnh vương giả của Chúa Kitô, sự nâng đỡ và thăng tiến sự sống con người cần được thi hành bằng việc phụ vụ của đức ái, thể hiện qua chứng từ cá nhân, qua nhiều hình thức thiện nguyện, vận động xã hội và dấn thân làm chính trị. Đó là một đòi buộc đặc biệt cấp bách trong thời điểm hiện tại, lúc mà “nền văn hoá sự chết” đang kịch liệt chống đối và thường thường xem ra lấn lướt “nền văn hoá sự sống”. Nhưng trước đó phải nói đến một đòi buộc phát sinh từ “đức tin thể hiện ra bằng đức ái” (Ga 5,6), như thánh Giacôbê khuyến dụ chúng ta: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào ích gì?” Gc 2,14-17).
Trong công việc phục vụ của đức ái, có một trạng thái tinh thần cần động viên và nâng phẩm giá chúng ta: chúng ta phải chăm sóc người khác như một nhân vị được Thiên Chúa giao phó cho trách nhiệm của chúng ta. Như những môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở nên người thân cận của mọi người (x. Lc 10,29-37), với sự ưu tiên cho kẻ bất hạnh nhất, cô đơn nhất và ngặt nghèo nhất. Chính trong lúc trợ giúp kẻ đói khát, người xa lạ, kẻ mình trần thân trụi, bệnh tật hay tù đày, cũng như trợ giúp em bé sắp sinh, người già nua đau ốm hay gần kề cửa tử thần, mà chúng ta được gọi để phụng sự Chúa Giêsu, như chính Ngài đã nói: “Những gì các con đã làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất này của Ta, là các con đã làm cho chính Ta” (Mt 25,40). Bởi vậy cho nên chúng ta không thể không cảm thấy bị chất vấn và kết án bởi những lời lẽ luôn luôn hiện thực của Thánh Gioan Kim Khẩu: “Bạn muốn tôn kính Mình Thánh Chúa Kitô ư? Bạn đừng khinh dể Người khi Người trần trụi – đừng tôn kính Người nơi đây, trong nhà thờ, sau lớp vải lụa, trong lúc mà bạn để Người ở ngoài kia khổ sở vì rét, vì không đủ áo che thân” (113).
Công việc phục vụ của Đức ái đối với sự sống cần phải thống nhất sâu sát: không được khoan nhượng với điều gì phiến diện hoặc có thể gây phân biệt, bởi vì sự sống của con người là thánh thiêng và bất khả xâm phạm trong mọi giai đoạn, trong mọi hoàn cảnh; sự sống ấy là một tài sản không thể chia tách được. Vậy cần phải “chăm sóc” mọi sự sống và sự sống của mọi người. Hoặc hơn nữa, cần phải đi đến tận chính gốc rễ của sự sống và của tình yêu.
Chính từ tình yêu sâu xa dành cho mọi người nam và mọi người nữ mà phát triển qua nhiều thế kỷ lịch sử phi thường của đức ái, đã đưa vào đời sống Giáo Hội và dân sự rất nhiều tổ chức nhằm phục vụ sự sống, gây kinh ngạc cho mọi quan sát viên không được loan báo trước. Đó là lịch sử mà mọi cộng đoàn Công giáo phải tiếp tục viết bằng hoạt động mục vụ và xã hội đa dạng, cùng với ý thức mới mẻ về thách nhiệm. Để đạt được mục tiêu trên, nên vận dụng những hình thức hợp lý và hữu hiệu hỗ trợ sự sống mới sinh ra, bằng cách đặc biệt gần gũi các bà mẹ, dù không có người cha nâng đỡ, vẫn không sợ sinh đẻ để giáo dục con cái. Người ta cũng chăm sóc như thế đối với sự sống bên lề xã hội hoặc đang đau khổ, đặc biệt trong giai đoạn sau cùng.
88. Tất cả điều đó cho phép một hoạt động có tính giáo dục đầy nhẫn nại và dũng cảm động viên mỗi người vác gánh nặng của tha nhân (x. Gl 6,2); điều đó đòi hỏi một sự cổ vũ nâng đỡ các ơn gọi phục vụ, đặc biệt nơi giới trẻ; điều đó bao hàm việc thực hiện những sáng kiến và những kế hoạch cụ thể, lâu dài được Tin Mừng soi dẫn.
Có nhiều cách thức đề làm nổi bật một cách có thẩm quyền và nghiêm túc giá trị trong sự dấn thân. Đối với thời kỳ bắt đầu sự sống, cần huy động những trung tâm điều hoà sinh sản bằng phương pháp tự nhiên như chỗ dựa vững chắc cho kẻ làm cha mẹ có trách nhiệm, nhờ đó tất cả mọi người, bắt đầu từ trẻ em. Được công nhận và tôn trọng vì chính mình, và nhờ đó mọi sự lựa chọn đều khơi động và hướng dẫn từ thước đo của sự trao hiến trọn vẹn bản thân mình. Chính bởi tác động đặc trưng của lời khuyên và dự kiến, được bày tỏ dưới ánh sáng nhân chủng học, phù hợp với quan niệm công giáo về con người, về đôi lứa và về tính dục, mà các nhà cố vấn hôn nhân nhân và gia đình trở thành những trợ tá quý báu để tái khám phá ý nghĩa của tình yêu và sự sống, và để nâng đỡ, hỗ trợ mỗi gia đình trong sứ mệnh là “cung thánh của sự sống”. Còn những trung tâm tương trợ sự sống và những nhà hoặc trung tâm tiếp nhận sự sống cũng sẵn sàng phục vụ sự sống mới sinh ra. Nhờ hoạt động của những cơ sở đó, rất nhiều bà mẹ độc thân và rất nhiều cặp vợ chồng đang gặp khó khăn tìm lại được lẽ sống và niềm tin khi có được sự trợ giúp và nâng đỡ để vượt qua khó khăn và sợ hãi trước việc đón nhận một sự sống sắp sinh ra hoặc vừa mới chào đời.
Đứng trước tình cảnh túng quẫn, bệnh tật hoặc lạc lõng bên lề xã hội, còn có những tổ chức khác như các cộng đồng phục hồi người nghiện ngập, cộng đồng tiếp nhận vị thành niên hay bệnh nhân tâm thần, trung tâm chăm sóc và tiếp nhận bệnh nhân AIDS, nhất là hiệp hội tương trợ người tàn tật, tất cả đều là tiếng nói hùng hồn của đức ái, biết tìm ra phương cách tạo ra cho mỗi người vì nhiều lý do mới mẻ để mà hy vọng và nhiều khả năng cụ thể để sinh sống.
Cuối cùng, khi cuộc sống trần gian đến thời kết thúc cũng chính đức ái tìm ra những dạng thức thích hợp nhất hầu cho những người có tuổi, đặc biệt những người không thể sinh sống một mình, và những bệnh nhân ở vào giai đoạn cuối cùng có thể hưởng một sự trợ giúp hết sức nhân đạo và nhận được những đáp ứng phù hợp với các nhu cầu của họ, nhất là với những gì liên quan đến nỗi lo âu và sự cô đơn của họ. Trong những trường hợp này không có gì có thể thay thế được vai trò của gia đình, nhưng các gia đình có thể tìm gặp được một chỗ nương tựa đáng kể trong những tổ chức cứu tế xã hội, và khi cần thiết, cậy nhờ đến việc điều trị tạm thời bằng cách kêu gọi đến dịch vụ y tế và xã hội chuyên biệt đang hoạt động trong các trung tâm điều dưỡng hoặc trong các trung tâm săn sóc cộng đồng hay tư gia.
Cách riêng, chúng ta phải kể đến vai trò của các bệnh viện, dưỡng đường và các nhà hưu dưỡng: căn tính địch thực của chúng không những chỉ là căn tính của những cơ sở săn sóc bệnh nhân hay người hấp hối, mà trước hết là căn tính của những nơi mà nỗi đau khổ, sự đau đớn và sự chết được nhận rõ và hiểu biết theo một ý nghĩa hoàn toàn nhân bản và đặc trưng Kitô giáo. Cách đặc biệt căn tính này còn phải biểu lộ một cách rõ ràng và hữu hiệu trong các cơ sở thuộc quyền của các tu sĩ hoặc trong các tổ chức có liên hệ cách này hay cách khác với Giáo Hội.
89. Các cơ cấu và các địa điểm phục vụ sự sống này, cũng như tất cả các sáng kiến hỗ trợ và liên đới khác mà nhiều hoàn cảnh có thể gợi lên trong từng trường hợp, cần được nhiều người khuyến khích, những người vốn dĩ sẵn lòng quảng đại và ý thức sâu xa tầm quan trọng của Tin Mừng về sự sống đối với lợi ích cá nhân và xã hội.
Một trách nhiệm đặc biệt được giao phó cho nhân viên y tế, dược sĩ, y tá, tuyên uý, tu sĩ nam nữ, những người điều hành và những người thiện nguyện. Chức nghiệp của quý vị là trở nên người bảo vệ và phục vụ sự sống nhân loại. Trong bối cảnh văn hoá xã hội hiện tại khi mà khoa học và y thuật liều lĩnh bỏ qua chiều kích luân lý tự nhiên của chính mình, đôi khi quý vị có thể bị cưỡng bức lối cuốn trở nên những tác nhân xử lý trên sự sống hoặc ngay cả trở nên những kẻ tạo ra sự chết. Trước sự lôi cuốn này, trách nhiệm của quý vị ngày nay tăng thêm đáng kể; trách nhiệm này kín múc nguồn cảm hứng sâu sắc nhất và tìm gặp được sự nâng đỡ mãnh liệt nhất trong chiều kích luân lý của nghề y tế, chiều kích thuộc về bản chất nghề nghiệp của quý vị, mà không ai có thể xao nhãng, như lời thề Hippocrate cổ xưa, nhưng luôn luôn hiện thực, lời thề đòi buộc tất cả mọi bác sĩ tuyên hứa tuyệt đối tôn trọng sự sống con người và đặc tính thánh thiêng của sự sống đó.
Sự tuyệt đối tôn trọng mọi sự sống vô tội của con người cũng đòi buộc thi hành sự phản bác của lương tâm trước việc cố ý phá thai và làm chết êm dịu. “Làm cho chết” không bao giờ được coi như một săn sóc y học, cho dù ý hướng chỉ đáp ứng nhu cầu của bệnh nhân, trái lại đồng tình là chối bỏ nghề y tế, một nghề tự xác định như lời “tán thành” mãnh liệt và kiên trì đối với sự sống. Chính việc nghiên cứu y học, một lĩnh vực đầy quyến rũ và tuyên báo nhiều lợi ích mới mẻ vĩ đại cho nhân loại phải luôn luôn từ chối những thí nghiệm, những nghiên cứu hoặc những ứng dụng, trong khi chối bỏ phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, những việc này không còn phục vụ con người nữa và kỳ thực, tự biến mình thành những thực thể áp chế con người trong khi lại có vẻ giúp đỡ con người.
90. Những ai dấn thân trong các trại từ thiện được mời gọi giữ một vai trò đặc biệt: họ góp phần quý báu để phục vụ sự sống trong khi họ kết hợp khả năng chuyên môn nghề nghiệp với tình yêu quảng đại vô vị lợi. Tin Mừng về sự sống thúc giục họ nâng cao những tâm tình của lòng nhân ái đơn thuần lên tới mức độ của đức ái Chúa Kitô; Tin Mừng về sự sống khuyến khích họ hằng ngày khôi phục lại trong lao lực và mệt nhọc, ý thức về phẩm giá của tất cả mọi con người; Tin Mừng về sự sống động viên họ khám phá mọi nhu cầu của con người, bằng cách mở thêm, nếu cần thiết, nhiều lối thoát ở những nơi có nhu cầu cấp bách nhất và ở những nơi mà sự quan tâm giúp đỡ khiếm khuyết nhất.
Thực tại kiên định của đức ái đòi buộc Tin Mừng về sự sống cũng được loan báo qua các hình thức vận động xã hội và dấn thân làm chính trị, nơi mà người ta bênh vực và đề cao giá trị của sự sống trong xã hội của chúng ta, một xã hội ngày càng mang dấu phức tạp và đa nguyên. Cá nhân, gia đình, đoàn nhóm, thực thể hiệp hội, tuỳ theo tôn chỉ và phương cách khác nhau, đều có trách nhiệm trong cuộc vận động xã hội và trong việc khai triển các dự án văn hoá, kinh tế, chính trị và luật pháp, nhằm góp phần, trong sự tôn trọng mọi người và theo sự hợp lý của sinh hoạt xã hội dân chủ, xây dựng một xã hội ở đó phẩm giá của mỗi người đều được công nhận và được bảo toàn, và ở đó sự sống của mọi người đều được che chở và thăng tiến.
Nhiệm vụ đặc biệt này thuộc về những người có trách nhiệm lo cho đời sống công cộng. Được mời gọi phục vụ con người và lợi ích cộng đồng, họ có bổn phận thực hiện những sự lựa chọn can đảm vì lợi ích của sự sống, nhất là trong lĩnh vực thuộc quyết định lập pháp. Trong chế độ dân chủ, luật pháp và các quyết định đều được định đoạt trên cơ sở một sự nhất trí cao, nên ý nghĩ trách nhiệm cá nhân có thể bị giảm bớt trong lương tâm các nhà cầm quyền. Nhưng người ta không bao giờ có thể bỏ qua trách nhiệm này, nhất là khi người ta lãnh nhận quyền đại diện lập pháp này có liên can đến các quyết định, quyền mà người ta càng phải trả lời trước Thiên Chúa, trước lương tâm và trước toàn thể xã hội về những quyết định có thể trái nghịch với lợi ích thiết thực của cộng đồng. Nếu như luật pháp không phải là những phương cách duy nhất để bảo vệ sự sống con người, thì luật pháp cũng giữ một vai trò rất quan trọng và đôi khi quyết định trong việc hình thành các tâm thức và các thói quen. Tôi lập lại một lần nữa rằng thật là phi lý quy định nào xâm phạm quyền lợi tự nhiên của một con người vô tội đang sống, và như vậy, quy định đó không thể có hiệu lực pháp lý. Cũng vậy, tôi khẩn thiết lập lại lời kêu gọi của tôi với các nhà chính trị, mong quý vị đừng phổ biến những luật lệ nào, mà trong khi phủ nhận phẩm giá của con người, luật đó phá hại tận gốc rễ chính sự sống của xã hội dân sự.
Giáo hội biết rằng, trong bối cảnh chế độ dân chủ đa nguyên, do sự hiện diện của nhiều luồng văn hoá có khuynh hướng khác biệt, thật khó mà thực hiện một cách hữu hiệu việc bảo vệ sự sống cách hợp pháp. Thế nhưng, được khởi động bởi niềm xác tín rằng, sự thật luân lý không thể không gây ảnh hưởng trong cõi sâu thẳm của lương tâm, Giáo Hội khuyến khích các nhà chính trị, bắt đầu từ những ai là Kitô hữu, không nhượng bộ và, sau khi lưu ý những khả năng cụ thể, nên thực hiện những chọn lựa nào có thể đưa tới việc tái lập một trật tự công bằng trong sự xác nhận và cổ vũ giá trị của sự sống. Trong chiều hướng này, nên ghi nhận rằng loại bỏ những nỗ lực bất công thì chưa đủ. Phải chiến đấu với những nguyên nhân tạo điều kiện cho những mưu toan làm hại sự sống, nhất là bảo đảm cho gia đình và tình mẫu tử sự nâng đỡ cần thiết: chính sách gia đình phải là nền móng và động cơ tất cả mọi chính sách xã hội. bởi vậy, phải đưa ra những sáng kiến xã hội và lập pháp để có thể bảo đảm những điều kiện tự do chân thật trong việc chọn lựa liên hệ đến tình phụ tử và tình mẫu tử; hơn nữa cần xét xem lại quan điểm về các loại chính sách lao động, đời sống đo thị, nhà cửa và các dịch vụ, để người ta có thể điều hoà thời gian đi làm và thời gian dành cho gia đình, và để người ta có thể thực sự chăm sóc con cái và những người lớn tuổi.
91. Ngày nay, những vấn đề nhân khẩu tạo thành một phương diện quan trọng của chính sách vì sự sống. Chắc chắn công quyền có trách nhiệm đề ra những sáng kiến “nhằm định hướng khoa nhân khẩu học quần chúng” (114), nhưng những sáng kiến này luôn luôn phải biết đến và tôn trọng trách nhiệm đầu tiên và không thể khoan nhượng của đôi vợ chồng và của gia đình; những sáng kiến kiểu này không được bao hàm việc sử dụng những phương pháp không tôn trọng con người và những quyền căn bản của con người, bắt đầu từ quyền được sống của mọi người vô tội. Như vậy, về phương diện luân lý không thể chấp nhận được rằng, đề điều hoà sinh sản, người ta khuyến khích hoặc đi đến việc áp đặt việc sử dụng những phương pháp ngừa thai, triệt sản và phá thai.
Rõ ràng còn có nhiều cách khác để giải quyết vấn đề nhân khẩu: các chính phủ và các tổ chức quốc tế trước hết phải hướng tới việc tạo nên những điều kiện kinh tế, xã hội, y tế, vệ sinh và văn hoá cho phép các đôi vợ chồng hoàn toàn tự do và đầy đủ trách nhiệm thực hiện việc chọn lựa trong lãnh vực truyền sinh; sau nữa, các chính phủ và các tổ chức quốc tế cũng nên cố gắng “tăng cường các biện pháp và phân phối của cải một cách công bằng hơn để mọi người có thể dự phần cách đồng đều vào của cải trên thế giới. Phải tìm ra những giải pháp ở tầm mức quốc tế bằng cách thiết lập một nền kinh tế đích thực của hiệp thông và chia sẻ mọi công ích, trên bình diện quốc tế cũng như trên bình diện quốc gia” (115). Đó chính là con đường duy nhất tôn trọng phảm giá của con người và của gia đình, cũng như tôn trọng gia sản đích thực của mọi dân tộc.
Như vậy việc phục vụ Tin Mừng về sự sống là rộng lớn và phức tạp. Càng ngày chúng ta càng thấy việc phục vụ Tin Mừng về sự sống như là một lĩnh vực quý giá và thuận lợi cho việc hợp tác cụ thể với các anh em của những Giáo Hội và những Cộng đoàn Giáo Hội khác, trong đường hướng những việc làm đại kết mà Công đồng Vatican II đã dùng uy quyền của mình khuyến khích (116). Hơn nữa việc phục vụ Tin Mừng về sự sống còn như một khung cảnh quan phòng cho sự đối thoại và cộng tác với các tín hữu của những tôn giáo khác và với tất cả mọi người thiện tâm: bênh vực và thăng tiến sự sống không là độc quyền của riêng ai nhưng đúng là bổn phận và trách nhiệm của mọi người. Thách đố mà chúng ta phải đương đầu trước thềm đệ tam thiên niên kỷ thật là khó khăn: chỉ có sự hiệp lực nhịp nhàng của tất cả những ai tin vào giá trị của sự sống mới có thể tránh được một thất bại của nền văn minh, với những hậu quả không thể lường trước được.

Xem thêm…

9. Tin vào quyền năng của Thiên Chúa

03:00 |
9. Tin vào quyền năng của Thiên Chúa
Tin Mừng Lc 17, 5-6
Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con." Chúa đáp: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em.
Suy niệm
Người Kitô hữu chẳng nghi ngờ gì về quyền năng cao cả của Thiên Chúa nhưng lại chẳng mấy khi dám để cho Thiên Chúa thể hiện quyền năng của Ngài. Lý do là vì Thiên Chúa quyền năng lại chẳng hề muốn thể hiện quyền năng của Ngài một cách khơi khơi, một cách chinh phục hay bất cứ cách nào khác... Ngài chỉ muốn thể hiện quyền năng trong tình yêu và vì tình yêu. Chính vì thế mà Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể chỉ đón nhận lại quyền năng đã có từ trước của Ngài sau khi đã đi trọn con đường yêu thương, yêu thương đến độ tự huỷ :
"Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu (Pl 2, 6-9).
Có thể nói, trong cuộc sống nhân loại, quyền năng là một dụng cụ hết sức cần thiết nhưng cũng hết sức nguy hiểm. Quyền năng có thể giải quyết nhiều vấn đề, nhưng quyền năng lại cũng bộc lộ nhiều nguy cơ phá huỷ nét chân chính của con người, khi mà quyền năng trở thành quyền hành thống trị, thành quyền lực khuất phục, thành quyền bính bên trên đòi hỏi người khác. Do đó, quyền năng phải được gắn liền với tình yêu; quyền năng trọn vẹn cũng phải được thấm nhuần với tình yêu trọn vẹn, tình yêu hy sinh chính mạng sống của mình cho bạn hữu. Chỉ sau khi đã thể hiện một tình yêu trọn vẹn đến độ dám trút bỏ quyền năng và vinh quang, thì khi ấy Đức Giêsu mới khẳng định quyền năng tuyệt đối của Ngài, theo cách đặc biệt của Thiên Chúa:
“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Xc. Mt 28, 18t).
Quyền năng của Thiên Chúa, quyền năng được trao ban cho đức Giêsu chỉ có thể là quyền năng của tình yêu mà thôi. Do đó, Đức Giêsu đã chẳng dùng quyền năng của Ngài một cách khơi khơi hoặc một cách thống trị, nhưng Ngài mời gọi con người thể hiện lòng tin vào Ngài. Chỉ trong mối tương quan của lòng tin, khi con người biết tin tưởng một cách tự nguyện, trông cậy và yêu mến Thiên Chúa thì Ngài mới thực hiện quyền năng đích thực. Quyền năng của Thiên Chúa nhằm nâng con người lên địa vị con cái tự do của Thiên Chúa chứ không phải đè bẹp con người trong sự khiếp sợ và làm hèn hạ con người trong thái độ xin xỏ.
Chúa Giêsu vẫn muốn thực hiện những phép lạ để chữa lành những khổ đau của con người, nhưng Ngài luôn đợi chờ lòng tin; và người ta có thể nói tới “sức mạnh của niềm tin”, không phải như một phương cách để chiếm hữu quyền năng của Thiên Chúa, mà như một tương quan chân chính mở đường cho quyền năng yêu thương của Thiên Chúa được thể hiện. Thiên Chúa sẽ thể hiện quyền năng của Ngài nhưng không phải để thống trị mà là để gia tăng lòng tin, cậy, mến của con người đối với Ngài và giúp con người tìm thấy niềm hạnh phúc sâu xa chân chính, hạnh phúc có Chúa. Do đó, điều quan trọng đối với người Kitô hữu không phải là cầu xin phép lạ, nhưng là xin thêm niềm tin :
“Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17, 5)
Ngoài con đường tin-cậy-mến, người ta sẽ bị đè bẹp khi đối diện với quyền năng của Thiên Chúa; và chính Thiên Chúa, khi thể hiện quyền năng ngoài con đường yêu thương, cũng sẽ tự hạ giá chính Ngài. Cánh cửa để đi vào quyền năng của Thiên Chúa là chính là lòng tin, hay lòng cậy trông và yêu mến đối với Thiên Chúa.
"Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này : ‘Hãy bật rể lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc 17, 6).
Trong cuộc đời các vị thánh, chúng ta thường thấy các phép lạ được thực hiện một cách “dễ dàng” như thể các thánh nắm giữ được quyền năng của chính Thiên Chúa. Thật ra, tính cách “dễ dàng” như thế không diễn tả năng lực của chính các ngài, mà bộc lộ lòng tin của các ngài vào quyền năng của Thiên Chúa. Trong tình yêu, các Ngài có thể tin chắc Thiên Chúa chiều ý của mình; và trên nẻo đường đã thông thoáng trong mối tương quan tin-cậy-mến của các thánh với Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa cũng được trao ban một cách “đơn giản”.
“Xem quả thì biết cây”, thánh Martin làm nhiều phép lạ ngay khi còn sống, và Martin thực hiện những phép lạ ấy một cách đơn giản, hồn nhiên; bởi vì niềm tin của Martin vào quyền năng của Chúa cũng đơn giản và hồn nhiên. Đó chính là “hoa trái” để chúng ta nhận ra được phẩm chất của “cây đức tin” trong tâm hồn thánh Martin.
Lm Giuse Nguyễn Trọng Viễn OP
(Những trang tin mừng mở ra trên cuộc đời thánh Martinô)
Xem thêm…

Copyright ©THT - Được biên soạn và sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau - Ghi rõ nguồn:quatangsusong.blogspot.com/ - Khi phát hành thông tin trên trang này
Gx Đaminh | Namkna | Trung Tâm Học Vấn Đaminh | Kho tài liệu hay |