Thánh Martin de Porres và Thời Đại Hôm Nay

23:02 |
Thánh Martin de Porres và Thời Đại Hôm Nay

Martin Nguyễn Thanh Tuyền, O.P
Trong giới Công Giáo, có lẽ không ai cảm thấy xa lạ với tên Martin de Porres vào thế kỷ XVI. Từ khi chào đời, ngài đã không được nhìn nhận bởi người cha đẻ của mình vì ngài có nước da đen như mẹ, vốn xuất thân từ vùng quê hẻo lánh nghèo nàn tại Panama. Mẹ ngài là người nô lệ mới được phóng thích, còn người cha thuộc dòng dõi quý tộc da trắng, vậy thì làm sao giới quý tộc ấy có thể chấp nhận được trong dòng tộc lại có một thành viên da đen xuất hiện. Thật là một điều sỉ nhục! Sau khi biết chồng tìm cách xa lánh và tẩy chay mình và đứa con vô tội, mẹ của Martin đành phải đưa con đi tìm nhà mướn sống qua ngày. Hai mẹ con trong căn lều lụp xụp đã nương tựa nhau mà tồn tại. Cuộc sống bây giờ thật khó khăn đối với hai mẹ con nghèo nàn và khổ nhục, và đây cũng là cuộc đời tiêu biểu của biết bao người dân da đen thời bấy giờ tại thủ đô Lima, nước Pêru, vốn đang trong cảnh đô hộ và đàn áp tàn nhẫn.
Thiên Chúa vẫn làm nên những điều kỳ diệu từ những gì là tầm thường nhất, nếu không muốn nói là từ hư không nữa ! Mặc dù gặp bao thử thách và sỉ nhục vì là đứa con hoang da đen, Martin đã trở nên một vị thánh vô cùng tuyệt vời cho nước Pêru nói riêng và cho Hội Thánh Công giáo nói chung. Và, có thể nói được rằng, Martin de Porres cũng chính là vị thánh của thời đại hôm nay, một thời đại phát triển tột bực về mọi mặt của đời sống vật chất nhưng cũng lại xuống dốc trầm trọng về khía cạnh luân lý và tinh thần. Xét về mặt nào đó, xã hội tân tiến ngày nay cũng không khá hơn gì so với xã hội của thánh Martin xưa kia. Thời Martin là thời của nô lệ, áp bức, phân biệt khinh khi, nghèo đói, cô độc buồn tủi… thì ngày nay, xã hội máy móc và tin học đã tưởng chừng đưa con người lại gần nhau hơn, thế nhưng… thực tế không như vậy!
Người nghèo đâu cả rồi ?
Nói về cuộc đời Đức Phật Tất-đạt-đa, chuyện kể lại rằng, hoàng tử sống trong đại điện rất lộng lẫy cao sang. Đời sống ngài thật êm đềm hạnh phúc, nhất là với công chúa Da-du. Vua Tịnh-Phạn yêu thương hoàng tử Tất-đạt-đa đến độ tôn thờ. Vua chăm sóc hoàng tử chu đáo đến nỗi không hề muốn con mình có bất cứ điều chi phiền lòng. Vua xây cho hoàng tử ba cung điện nguy nga, một cho mùa đông, một cho mùa hè và một cho mùa mưa. Tất-đạt-đa đã tận hưởng tất cả mọi hương vị lạc thú trần gian, và vẫn hồn nhiên tận hưởng khoái lạc trong đại điện cho đến khi chàng chứng kiến những cảnh tượng ông cụ lụ khụ chống gậy, người đau bệnh, và người chết. Tất-đạt-đa suy nghĩ rất nhiều… Và, chàng nghiệm ra chân lý của cuộc đời là bể khổ.
Vô tri bất mộ. Vâng ! Chỉ khi con người chứng kiến và trải nghiệm thì mới biết. Tất-đạt-đa sẽ không thể biết được chân lý của của cuộc đời nếu như chàng không can đảm bước chân ra khỏi cung điện cao sang. Thế giới bên ngoài chúng sanh không như thế giới bên trong cung điện mà chàng đã từng hưởng nếm. Vui thì sẽ có buồn. Khoẻ mạnh thì ắt phải có đau bệnh. Có sáng vì rằng có bóng đêm hiện hữu. Có mặt trăng ắt phải có mặt trời. Cuộc đời không đơn diện như chàng nghĩ. Thời đại hôm nay cũng thế. Người nghèo khổ sẽ biến đâu mất nếu chúng ta cũng sống trong “cung điện.” Thường xuyên tiếp cận với giới trí thức và giàu sang cũng sẽ làm cho chúng ta quên bẵng đi tầng lớp mù chữ và không có miếng ăn đầy đủ mỗi ngày. Riêng tại nước Mỹ, một trong những nước giàu có nhất trên thế giới, theo nhà nghiên cứu xã hội học là Robert E. Rector, ông cho biết riêng năm 2005 đã có hơn 37 triệu người dân Mỹ không có tiền mua thức ăn, áo mặc, nơi cư ngụ… Vậy, cứ trong 8 người Mỹ thì có 1 người nghèo đói. Ứng cử viên tổng thống là ông John Edwards gọi cái nghèo tại Mỹ này là một “nạn dịch” kinh hoàng. Cung điện mà chúng ta “có thể” đã và đang sống sẽ che khuất hoặc làm ngơ trước những thực tế của con người. Người nghèo thì mặc cảm, rụt rè và lẩn tránh.
“Người vững thì đứng lại được, còn người yếu thì sẽ bị cuốn trôi đi.” Người yếu bị cuốn trôi đi, nhưng họ không biến mất. Có chăng là khả năng nhận biết sự hiện diện của họ nơi chúng ta biến mất mà thôi. Người khon khổ vẫn có đó, họ ở ngay bên cạnh Tất-đạt-đa nhưng chàng lại không nhận biết. Không nhận biết là do chưa can đảm bước ra khỏi chính mình, mà cũng có thể do sự ích kỷ hay sợ bản ngã mình bị đe doạ đã che lấp một cách khôn khéo.
Thánh Martin rất nhiệt thành với người nghèo khổ, đến nỗi ngài có biệt danh là “bạn của người nghèo.” Thầy làm việc không ngơi nghỉ với những người da đen nghèo khốn và bệnh tật, rồi phải chu toàn bổn phận trong tu viện Santo Rosario hàng ngày, thậm chí chăm lo cho cả những súc vật nữa, từ con chuột đến con chó, nhất là những con ghẻ lở hay những con có “vấn đề”. Thầy còn có thêm biệt danh nữa là “ông bang trưởng loài chuột” ... Những bệnh nhân nào nghèo quá không người thân, thì chính thầy sẽ tự lo liệm xác và chôn cất. Cuộc đời thầy luôn luôn bên cạnh người nghèo và với người nghèo, vì chính thầy vốn xuất thân từ cuộc sống tủi nhục nghèo hèn vậy. Thầy không cảm thấy mình thieu thốn, nên cuộc sống thầy rất giản dị và tin yêu. Dù thầy sống trong bậc trợ sĩ, nhưng sự biết của thầy trổi vượt lên rất cao. Biết ở đây không phải biết thuộc về trí não duy lý, nhưng là thuộc về tri giác. Biết này không nhất thiết được thủ đắc qua việc học hành nghiên cứu, trường lớp, nhưng cái biết này xuất phát từ tận đáy sâu tâm khảm thầy, tâm khảm của yêu thương vô điều kiện vô phân biệt, vốn bắt nguồn từ sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Thật thế, thầy Martin sống một đời sống thật siêu thường trong cái bình thường và thực tế nhất của kiếp hạn giới.
Trong con mắt Martin, bạn nghèo của thầy hiẹn diện khắp nơi. Có lần thầy Martin mang về người hành khất rách rưới và hôi hám, mình đầy ghẻ chốc vào trong phòng của mình tại tu viện để chăm sóc, một tu sĩ thấy thế rất bất mãn vì không thể chấp nhận khi Martin cho người dơ bẩn ấy nằm trên giường của thầy. Thấy vậy, Martin ôn tồn đáp: “Mền chiếu của tôi có dơ bẩn thì chỉ dùng một chút xà phòng là có thể sạch ngay, thế nhưng cả một suối nước mắt nhân loại cũng không tài nào rửa sạch được vết thương do xã hội bất công và ích kỷ gây ra.” Chúng ta có thể có vô số lý do rất hợp lý để chối từ không chạm đến người nghèo, cũng như các môn đệ xưa kia nói với Chúa Giêsu rằng: “Có bao giờ chúng con thấy Ngài đói rách, mình trần….. đâu!” Phải chăng người nghèo thường chỉ làm phiền hà đến chúng ta? Phải chăng người nghèo không có gì để trả ơn? Phải chăng người nghèo làm cho chúng ta thấy mình bị mất mát cái gì đó…? Hầu hết những người nghèo đều có một cảm nhận như thế. Họ thấy mình như là một gánh nặng đối với những người xung quanh. Càng mặc cảm, họ càng phản kháng mãnh liệt đối với xã hội: ngạo mạn, nổi loạn, chè chén say xỉn, trộm cắp, … Một cách tự nhiên, họ sẽ thu vào trong thế giới riêng của chính mình, và thế là, chúng ta có thể tưởng chừng như họ đã… biến đâu mất rồi!
Cuộc đời Martin đã bị chối từ ngay khi thầy lọt lòng mẹ. Sau đó, vì mang màu da đen và mang vào đời mình tầng lớp nô lệ hèn hạ, thầy đã hiểu và thấm đượm sự khinh miệt và tủi hổ. Hẳn như bao người khốn khổ khác, người ta sẽ “trả thù đời,” bất mãn, và sống lê lết quậy phá cho vui hết đoạn đường đời bất công và khốn khiếp này. Nhưng Martin không làm thế. Tiêu biểu là khi được tám tuổi, cậu đã gặp lại cha đẻ của mình, nhưng người cha vẫn hất hủi và không đón nhận cậu. Ông khinh miệt và làm ngơ như ông chẳng biết gì. Tuy vậy, cậu vẫn không khóc, tuy buồn lắm, nhưng cứ mỗi lần đau đớn như thế, Martin lại chạy đến với Chúa tình thương và trao tat cả cuộc đời mình cho Ngài. Hơn nữa, Martin mỗi lúc càng để tâm đến người khổ đau nhiều hơn, và chăm lo cho họ như người cha nhân hiền vất vả vì đàn con nheo nhóc trong đói khát và bệnh tật. Martin luôn luôn đi bước trước đến với họ và giang rộng vòng tay ôm ấp với hết sức mà thầy có thể.
Phục vụ là hạnh phúc, như mẹ Têrêsa Calcutta đã từng nói. Martin làm việc không ngơi nghỉ, nhưng nét mặt vẫn vui tươi và trong sáng. Nơi những người khốn khổ bệnh tật, Martin đã thấy Chúa Giêsu khó nghèo ở đó. Và, Martin đã sống giữa lòng người nghèo, với người nghèo và trong người nghèo, qua mọi sinh hoạt hằng ngày, từ lúc đi nguyện kinh, khi đi ngủ và khi đi chữa bệnh.
Ý nghĩa hiện sinh
Ý nghĩa cuộc đời là gì ? Trong guồng máy xã hội tân tiến ngày nay không lúc nào dừng nghỉ, con người cứ mãi tần tảo ngược xuôi như đang giăng một màng nhện thật lớn vô hình. Họ đang làm gì? Đi đâu và về đâu? Tìm kiếm rồi đạt được, rồi lại kiếm tìm? Tìm cái gì và đạt được điều chi? Ai điên và ai tỉnh giữa sự ồn ào của guồng máy đang rầm rầm hoạt động? Tìm không được rồi lại bất mãn và buồn đau. Đạt được thì lại khao khát muốn đạt nữa…? Đạt đến khi nào mới ngưng nghỉ? Hay là đến vô cùng…?
Ắt hẳn những câu hỏi trên xem ra ngớ ngẩn trong thời đại hôm nay. Một câu hỏi không thực tế và trên trời !!! Với thế giới công nghệ thông tin, không ai không công nhận sự phát triển liên tục của nó. Những vi mạch trong mọi máy móc từ công nghiệp cho đến đồ gia dụng trong nhà mỗi lúc một phong phú, đa dạng và vô cùng tiện lợi đến không ngờ. Hầu như những nhu cầu vật chất của con người đều được đáp ứng và thế là… những câu hỏi ở trên dĩ nhiên không còn hợp thời và thiết yếu nữa. Thiên Chúa không còn chỗ đứng nào trong họ.
Ý nghĩa cuộc đời là chi… Tại sao và tại sao… được thay thế cho sự suy tính và ra chiến lược cho công việc của mình ngày mai. Thế nhưng, không may thay con người không thể sống như vậy mãi được. Cuối cùng, đến một thời điểm nào đó, con người cũng sẽ chạm đến sự vô thường của cuộc đời trong cái sự thật tam vô : vô duyên, vô vị và vô nghĩa. Chạy ngược chạy xuôi sáng tối để rồi cuối cùng thấy tóc mình bỗng dưng chuyển màu muối tiêu, da mặt không còn mịn màng và trơn láng như thời xuân trẻ nữa. Sáng thức dạy bỗng dưng thấy xương cốt nạng nề nhức mỏi, thậm chí có nhiều đêm trằn trọc mất ngủ mà không rõ nguyên nhân. Đôi mắt bỗng dưng phải đưa xa xa tờ báo mới đọc được, đọc một chút rồi lại bỏ xuống vì nhức mỏi... Tiến trình lão hoá tự nhiên của con người đang dần dần hiện rõ nét. Để ngăn cản tiến trình này, con người chạy theo biết bao mỹ phẩm để phủ một lớp trẻ trung như ngày nào. Đau đớn thay, tóc muối tiêu cứ thế xuất hiện, muối nhiều hơn tiêu, hàng tháng vẫn nhuộm đen mà sao chân tóc cứ bướng bỉnh nhú ra trắng toát đến thế! Thế rồi da mặt cũng hiện lên những ngõ hẻm đan chéo nhau mỗi lúc một nhiều hơn… Đôi khi, tự ngẫm lại mình, thấy sao mình mà vô duyên thế! Và lấy làm thương thay cho phận trớ trêu của mình ! Rồi lặng lẽ thở dài ngao ngán… Chưa hết, đến ngày hôm sau, bỗng dưng phải cẩn thận với những đồ ăn thức uống, vì bị tăng huyết áp, gan nhiễm mỡ hay cholesterol… gì đó. Thời gian dần dần trôi qua, lòng bỗng tự hỏi : “Cuộc đời là chi và ta sống để làm gì ?” Nhà cao cửa rộng với garage cứ lặng im một cách vô hồn đến thế sao ? Bắt đầu lòng dần dần trở nên trầm lặng… đăm chiêu và dõi mắt nhìn vào cõi không… Cuộc đời sao mà vô duyên, vô vị, và giờ đây… trở nên vô nghĩa quá ! Hơn lúc nào hết, ngày nay càng nhiều người làm bạn với Internet nhiều hơn. Đồng loại không còn tin vào nhau nữa. Đụng đến tương quan là chạm đến tiền bạc, địa vị… Mệt mỏi quá ! Thế giới ảo của chát chít đang bùng nổ khủng khiếp cho thấy con người ngày nay đang đi vào cô độc và trống vắng nhiều hơn.
Đó là những người nghèo trong xã hội hiện đại hôm nay: Nghèo về tình bạn, về tình người, và tình nhân loại. Cuộc sống vật chất càng đầy dư thì con người càng khó cảm thông và xích lại gần nhau hơn. Chương trình truyền hình trên kênh Discovery, người ta cho biết rằng diễn viên nổi tiếng Hoa Kỳ thập niên Marylyn Monroe chết không phải vì bị ám sát, nhưng mà cô đã tự tử vì cảm thấy cuộc đời thật vô nghĩa, cho dù cô có cả sắc đẹp lẫn tiền của. Cô cần tình người đích thực, nhưng người đời đến với cô không vì nhan sắc thì cũng vì tiền của. Lạc lõng. Chán chường. Tự tử.
Cuộc đời tưởng chừng như đơn giản làm sao, nhưng cũng vô cùng sâu thẳm lắm thay. Sâu thẳm đến nỗi con người không thể hiểu thấu được. Một em bé vô tội vừa sinh ra đã phải tắt thở, một bà mẹ goá phụ nghèo khổ tần tảo sáng tối với ruộng rẫy bỗng dưng lăn đùng ra chết để lại đàn con nhỏ ngây ngô cho cuộc đời đầy cạm bẫy… Có một anh trí thức nọ hỏi một vị đạo sĩ Ấn Độ: “Xin chỉ cho tôi biết đâu là bí mật của cuộc đời ?” Vị đạo sĩ ôn tồn đáp : “Có bí mật gì đâu mà ông phải khốn khổ đi tìm đến thế !” Vâng ! Có gì bí mật đâu, có gì khó hiểu đâu trên cõi đời này. Bí mật hả ? Đó, đàn chim đang bay tìm mồi nuôi con kìa, hoa huệ đang toả ngát hương thơm đó, đàn cá đang vui đùa dưới dòng suối trong kìa, bà mẹ đang cho con bú mớm… Anh có thấy không ? Và, có một anh chàng da đen tên là Martin đang chăm sóc những người cùi hủi và bệnh hoạn đó !
Bí mật cuộc đời chính là những gì tầm thường nhất trong cuộc sống hàng ngày, là những cử chỉ hành động của một anh chàng Martin hèn hạ đang dâng hiến cả cuộc đời mình cho người xấu số bất hạnh. Bí mật trong những tiếng chổi xào xạc lặng lẽ trong sân tu viện Santo Rosario mỗi ngày. Bí mật trong những bước chân lang thang thăm hỏi những người da đen nghèo khổ, và trong những lần thay băng và lau chùi vết thương lở loét hôi hám của vùng đất Lima…
Rao Giảng sự trần trụi của Đức Kitô
Càng nghịch lý hơn nữa, càng bí nhiệm hơn nữa, đó là Vua vũ trụ, là vị cứu tinh nhân loại đã và đang đớn đau và trần trụi trên cây thập giá: “Nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy...”, “hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi…” Con đường của Chúa Giêsu là vậy. Thực thế, trong thời đại ngày nay, thế giới vẫn không thể thoát khỏi hấp lực về chủ nghĩa vật chất và hiệu quả. Nền kinh tế cạnh tranh dần dần mỗi lúc một lớn mạnh thì đồng thời làm cho người nghèo cảm thấy mình không còn chỗ đứng nữa. Thầy Martin vẫn phải gặp nhiều thử thách và chiến đấu với lòng mình rất nhiều khi đến với người nghèo và đưa họ vào ngay trong tu vien để chăm sóc. Có một đêm tối nọ, đang trên đường trở về tu viện, thầy gặp một người da đen đang nằm quằn quại trên vũng máu vì bị cướp đánh đập tàn nhẫn. Vội vàng, thầy băng bó vết thương và cõng anh ta về tu viện của mình. Thầy nghĩ rằng, anh ta cần được chăm sóc cho thoát khỏi cơn nguy kịch rồi mới chuyển đến nhà chị để nghỉ ngơi. Không may cha bề trên biết được và trách mắng vì tội không vâng phục. Sống đời sống tu trì, Martin và các tu sĩ dòng Đa Minh đã chọn con đường khiêm nhu và khó nghèo là một lẽ, nhưng Martin còn thực hiện trọn vẹn hơn nữa. Martin luôn luôn dùng đôi chân của mình làm phương tiện để đi đến với người nghèo, áo mặc chỉ có hai bộ rách rưới chắp vá. Mỗi lần tu viện phát đôi giày cho Martin, Martin đều cho người khác mượn cho đến khi cũ mòn thì Martin mới lấy về mà đi. Trong phòng chỉ có một cái chõng để nằm nghỉ và mấy ảnh tượng cho những khi Martin cầu nguyện. Đi đâu, Martin cũng mang theo một số đồ đạc, không phải cho bản thân mình, nhưng là những thứ đưa đến cho người nghèo, như cơm áo, thuốc men, và vài đồ cần thiết mà Martin có được, Martin đều chia sẻ hết cho họ.
Trong khoa truyền nhiễm HIV/AIDS tại một bệnh viện nọ ở Việt Nam, có cây thập giá được treo trong phòng bệnh nhân. Thập giá trông rất giản dị và không có gì đặc biệt cả, nhưng là một lời mời gọi trở về. Trở về sự trần trụi và tình yêu trong Đức Kitô, Người đã từng làm người, chịu khổ đau, xỉ nhục và chết. Người bệnh chính là người nghèo, nhất là bệnh thế kỷ nữa. Có một anh thanh niên nọ 34 tuổi ở khu vực chợ Bến Thành, quận 1, bị Aids. Ngày ngày hai chị thuộc tu hội nọ đạp xe đạp đến viếng thăm. Anh là con một, trong gia đình khá giả. Cha mẹ đều là giám đốc công ty lớn của thành phố. Lúc trước, một mình ôm chiếc tivi ngày đêm, anh lặng lẽ thấm thía nỗi đau bản thân, và từ khi có sự hiện diện của hai chị nữ tu, bầu khí gia đình nhẹ nhàng hơn và mỗi lúc một gần nhau hơn. Giữa một thành phố xem ra sang trọng nhất, và một gia đình tương đối khá giả, có hai chị trong bộ áo giản dị của nữ tu đạp xe lọc cà lọc cạch…!
Một dấu chỉ cho Thiên Chúa nghèo khó và yêu thương vô điều kiện ngay trong thực tại trần gian này. Chính qua sự nghèo hèn mà mọi người có thể liên kết lại cùng nhau trong duy nhất tính của Đức Kitô, Người đã chọn sống nghèo và chết nghèo. Chỉ khi Hội Thánh đồng hành trong niềm tin Kitô giáo với kẻ nghèo khổ thì mới có sự hiệp nhất ấy. Sự hiện diện của hai chị nữ tu là sự hiện diện cho sự hiệp nhất, giữa một xã hội tiêu thụ và công nghệ vốn dần dần đưa đồng loại xa cách nhau. Chị nữ tu ấy sống nghèo qua thái độ và cách sống giản dị của mình. Cha Albert Nolan, O.P, trong cuốn Jesus Before Christianity, cho biết : “Thiên Chúa không muốn được chúng ta phục dịch, mà chính Thiên Chúa lại muốn phục dịch chúng ta; Thiên Chúa chẳng muốn chỗ đứng hay địa vị cao nhất trong xã hội, mà trái lại, Ngài muốn ở chỗ thấp nhất và hèn hạ nhất. Ngài không muốn có vị thế nào, chỗ đứng nào cả. Thiên Chúa không muốn được sợ hãi và tùng phục, nhưng Thiên Chúa muốn chính mình được nhận diện trong chính những nỗi đớn đau kẻ nghèo hèn. Thiên Chúa không phải là kẻ sống thờ ơ lãnh đạm và hoàn toàn xa cách chúng ta, nhưng Ngài đã tham dự một cách bất khả thay thế trong công cuộc giải phóng nhân loại, vì Thiên Chúa đã chọn bị đồng hoá với mọi người trong tinh thần liên đới và lòng thương xót. ”
Giữa một xã hội phân biệt màu da và giai cấp, Martin đã hiện diện trọn vẹn tính nghèo khó, đây là dấu chỉ sự hiệp nhất trong Đức Kitô. Sự hiện diện của Martin cho thấy ngài đang đồng hành với người khốn cùng trong hy vọng và trong tình thương. Martin đã hiểu được rằng, Chúa Giêsu không chỉ chết một lần trên cây thập tự, nhưng Người đang chết dần chết mòn nơi những con người đang bị khinh khi và chối từ. Chúa Giêsu vẫn còn bị đóng đinh và điệu ra pháp trường cho đến ngày Chung Cuộc. Martin cảm nhận được rằng để trở thành môn đệ Đức Kitô, không gì khác hơn là đón nhận chính cuộc sống như Đức Kitô đã từng sống. Có nghĩa là, Martin vui vẻ đón nhận khổ đau, sự khinh miệt và nghèo hèn để Martin có thể chiến thắng đau khổ trên cuộc đời này, tiêu diệt khổ đau bằng chính sự đau khổ cùng với người nghèo và nhân danh người nghèo. Thực thế, chúng ta sẽ không thể nào hiểu được Đức Giêsu Kitô nếu chúng ta không biết đến đau khổ, của chính chúng ta và nhất là của đồng loại. Đây là con đường đầy thách đố, nhưng chỉ qua con đường đau khổ này, con người mới có thể hiểu được đỉnh cao của ơn huệ mà Thiên Chúa ban cho phận hữu sinh – đó là, con người Đức Giêsu Kitô chịu chết và Phục Sinh. Đây như là món quà diệu vợi, món quà này cần phải kiên nhẫn nguyện xin, và là cánh cửa cần phải gõ hoài gõ mãi. Món quà này thật đắt giá vì sự vô giá của nó. Đắt giá, vì nó phải trả bàng cả cuộc đời chúng ta!
Vì Đức Giêsu đã trọn vẹn làm người, nên cuộc đời của Người không được “miễn nhiễm” khỏi khổ đau của thân phận, Người đã nếm mùi vinh thắng của con người, sống với những thất bại, thua cuộc và sự chết của giới hữu sinh. Cuối cùng trong vũ trụ vạn thể này, Người đã tỏ hiện mầu nhiệm sâu thẳm nhat của tình yêu Thiên Chúa. Người được sinh ra chẳng phải nơi nhà thương hay nhà cửa nào đó đàng hoàng, nhưng mà là trong nơi súc vật thường lui đến trú ngụ. Thế là, suốt quãng đời làm lụng vất vả của nghề mộc thủ công và rồi lang thang rày đây mai đó... Môn đệ có theo đó, nhưng cũng chẳng hiểu gì Thầy của mình. Thậm chí còn chối từ và bán đứng Thầy mình cho kẻ khác. Chúa Giêsu đã chạm đến và sống trong hố sâu hút thẳm của thân phận hữu sinh. Vì thế, rao giảng Tin Mừng ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, chính là rao giảng sự thua cuộc, thất bại, mong manh, dễ vỡ của tất cả phận người chúng ta; để qua đó, anh chị em nghiệm thấy được Tình Yêu Thiên Chúa và khao khát Phúc Lạc Nước Trời.
Từ thiên giới, Ngôi Lời đi đã xuống và trở thành kiếp nhân sinh của giới hạn thể. Vô Tận đã trở nên hữu hạn. Thiên Chúa đã trở thành con người trong thế giới vô tâm và hận thù, tranh dành và ngấu nghiến cắn xé. Vô Tận đi vào hữu hạn để mời gọi phận hữu sinh về cõi Vô Tận, là Nguồn Cội từ đó vạn vật vũ trụ được sinh ra. Còn Martin được sinh ra như là dấu chỉ tỏ bày cho con người khổ đau biết là họ rất đáng được trân trọng và yêu thương.
Tất cả những khổ đau nhân thế Đức Kitô đã và đang ôm trọn hầu dẫn đưa chúng ta vào trong cung lòng của Người. Người chính là sợi dây liên kết giữa đất và trời, giữa vạn thể hạn hữu với Cõi Phúc Lạc Tuyệt Đối. Vì thế, trong mỗi bước đi dù có khập khễnh trên cuộc đời này, cho dù “đời ta một vở kịch dài, một mình ta đóng cả hài lẫn bi” thì Đức Kitô vẫn muốn chúng ta đừng quên điều cốt lõi này: “hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15,4), để tất cả nên một trong Cha (Ga 17,21). Tất cả nên một, mà trong cái tất cả đó, có người anh chị em của tôi, trong căn nhà của tôi, trong làng của tôi, trong đất nước của tôi… và trên trái đất của tôi. Tôi đã đau với nỗi đau của người anh em người chị em tôi trong cơn bão tố vừa qua, nạn lụt lội ở miền Trung miền Bắc, trong cơn sóng thần tại Indonesia, trong cuộc chiến tại Palestine, trong cơn đói khát tại Phi Châu, trong nỗi cô đơn và cuồng loạn tại Mỹ, trong tiếng Scandal của anh chị em tôi, trong căn bệnh thế kỷ của đồng loại,… Vì, “…như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Lời Nguyện của Đức Giêsu với Cha : Ga17,2). Đó là lời gọi mời và tha thiết cho hết thảy chúng ta đi vào cung lòng yêu thương của Cha.
Martin từ lúc chào đời đến khi lìa thế, thầy đã vui vẻ đón nhận phận hữu sinh trong hy vọng và tín thác; Có nghĩa là, Martin khao khát muốn tất cả người khốn cùng đón nhận lời gọi mời của Đức Kitô, và chìm sâu vào trong mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa. Khi chúng ta sống kiên trung trọn vẹn cùng và với mầu nhiệm khổ đau và cũng là mầu nhiệm Tình Yêu trong suốt cuộc đời này, thì chúng ta cũng đang làm cho tất cả những hạn giới trở thành vô tận, và đang được kết hiệp vào trong sợi dây nối kết giữa đất và trời là Đức Giêsu Kitô, Đấng trung gian đã và đang làm cho vạn thể nên một.
Nguyện xin thánh Martin cầu thay nguyện giúp cho tất cả chúng ta can đảm và vui tươi hầu đón nhận anh chị em không phân biệt sang hèn mạnh yếu, đón nhận tất cả những gì đã, đang và sẽ xảy đến cho mỗi chúng ta trong niềm hy vọng và tin tưởng vào Tình Yêu Thiên Chúa. Đồng thời, bạn và tôi, không sợ hãi để lặn sâu vào mầu nhiệm đớn đau của Đức Kitô, nơi anh chị em bên cạnh chúng ta, vốn đang nghèo về vật chất, trí tuệ, tình bạn, tình yêu thương,... Lặn sâu vào trong Đức Kitô đang bị đóng đinh là ngụp lặn vào Đức Kitô phục sinh, Đấng vẫn không ngừng gọi mời chúng ta cách thầm lặng đi về Cõi Phúc trong tình thương vô tận.
Martin, vẫn còn đó, thầy đang cứu giúp những con người bệnh tật và bỏ rơi;
Martin, vẫn hiện diện đó, thầy đang lắng nghe những tiếng rên la và gào thét của những người cô độc và trống vắng;
Và, Martin, đang âm thầm nhắc nhở con cái thầy hãy tiếp nối công việc yêu thương của thầy… trong Đức Giêsu Kitô.
Vì thế, trên hành trình đức tin, cho dù biết bao cơn sóng ngầm và trớ trêu của cuộc đời hôm nay, bạn và tôi hãy cùng nắm tay nhau và khích lệ nhau đi về Nước Trời, trong niềm hy vọng và tình thương yêu đại đồng. Mong thay!
Tu Viện Martin, Hố Nai
Xem thêm…

ƠN GỌI NÊN THÁNH

22:53 |
ƠN GỌI NÊN THÁNH
Lễ Các Thánh Nam Nữ
Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt
 
Người ta thường nói ơn gọi là làm linh mục, tu sĩ. Ngày nay ơn gọi được hiểu rộng ra mọi lãnh vực, gia đình, nghề nghiệp, thiên hướng. Nhưng có một ơn gọi cơ bản, ơn gọi của mọi ơn gọi, ơn gọi dành cho tất cả mọi người: đó là ơn gọi nên thánh. Chúa Giêsu mời gọi; “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời”(Mt 5, 48). Thánh Phaolô cũng nói: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh”(1Th 4,3). Và sách Giáo lý Công giáo khẳng định: Hội thánh là sự hiệp thông của các Thánh (GLCG 946). Nhưng nên thánh là gì? Muốn nên thánh ta phải làm gì? Và nên thánh ta được gì? Đó là những đề tài Lời Chúa hôm nay trình bày cho ta. Nên thánh là gì?

Nên thánh là siêu thoát trần gian. Nước Trời khác với nước trần gian. Trả lời Philatô, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này”(Ga 18, 36). Trong Bài giảng trên núi, thường được gọi là Hiến chương Nước Trời, Chúa Giêsu đưa ra hai lôgích đối nghịch. Lôgích trần gian đối nghịch với lôgích Nước Trời. Người thuộc trần gian tìm hạnh phúc nơi của cải, danh vọng, quyền lực, hưởng thụ, lạc thú, tôn vinh. Nhưng người thuộc Nước Trời được phúc khi chối từ tất cả những điều ấy. Mối phúc đầu tiên đã tóm tắt tất cả: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Muốn được Nước Trời làm gia sản, phải chối từ gia sản trần gian. Nên thánh là đi ngược thói đời. Cuộc lội ngược dòng này là một cuộc chiến đấu khốc liệt được sách Khải huyền diễn tả bằng hình ảnh “giặt áo trong máu Con Chiên”. Đây là điều khó khăn. Nhưng đây là điều ta phải làm.

Nên thánh phải kết hợp với Chúa Giêsu. Giặt áo trong máu Con Chiên nghĩa là phải kết hợp với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần gian, sống như người trần gian. Nhưng Người chối từ vinh quang trần gian để dẫn ta vào Nước Trời. Tám Mối Phúc không phải là lời nói suông. Chính Chúa Giêsu đã sống Tám Mối Phúc khi sống nghèo khó, hiền lành, trong sạch, đau khổ, thương xót, hòa giải, bị bắt bớ và bị giết hại. Đó không phải là một cuộc sống dễ dàng. Phải chiến đấu đến đổ máu mình ra, đến mất mạng sống, mất tất cả danh dự. Tóm lại là mất hết những gì mà trần gian coi là giá trị. Ta cũng thế, muốn nên thánh phải sống như Chúa Giêsu. Phải chiến đấu từ bỏ những bả vinh hoa trần gian. Cuộc chiến đó thật khốc liệt. Cuộc chiến đó có cả mồ hôi, máu đào và nước mắt. Máu đó hòa vào máu Con Chiên sẽ rửa sạch linh hồn ta khỏi mọi vương vấn nhơ uế trần tục. Áo linh hồn ta sẽ trở nên trắng như tuyết. Khi thanh tẩy mình khỏi mọi dính bén trần gian ta mới xứng đáng được là công dân của Nước Trời. Nhưng nên thánh như thế thì được gì?

Nên thánh ta chiếm được chính Chúa. Thư 1 thánh Gioan cho ta biết một kho tàng bí mật. Ta là con Thiên Chúa. Và ta sẽ nên giống Chúa Giêsu là Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa. Ta được Thiên Chúa yêu thương. Ta được thừa kế gia nghiệp Nước Trời. Gia nghiệp Nước Trời là vinh quang không gì so sánh được như thánh Phaolô dạy trong thư Rôma 8, 17-18: “Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô ; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người. Thật vậy, tôi nghĩ rằng : những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta”.


Được chính Thiên Chúa là được tất cả. Giầu sang, phú quí, an vui, hạnh phúc và vinh quang. Hạnh phúc đó vô cùng vô tận. Hạnh phúc đó viên mãn khiến ta chẳng còn mơ ước gì khác nữa. Đúng như lời Chúa hứa trong câu cuối của bài Tám Mối Phúc Thật: “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”.

Như thế ơn gọi nên thánh là một lời mời gọi vừa cao cả vừa tha thiết. Ơn gọi nên thánh cho ta thấy ta được Thiên Chúa yêu thương biết bao. Ơn gọi nên thánh cho ta thấy phẩm giá ta cao trọng biết bao. Và ơn gọi nên thánh cho ta hiểu định mệnh ta cao quí biết bao. Ta được dựng nên cho tình yêu. Ta được dựng nên để phát triển, đạt tới tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô, “thánh thiện như Thiên Chúa”. Ta được dựng nên để hưởng hạnh phúc. Không phải thứ hạnh phúc bọt bèo và chóng qua. Nhưng là hạnh phúc tràn đầy viên mãn và vĩnh cửu. Hạnh phúc của Chúa. Hạnh phúc trong Chúa. Và hạnh phúc với Chúa.
Ôi, lạy Chúa, ơn gọi nên thánh cao cả biết bao. Sao con lại được Chúa yêu thương đến dường ấy. Sao con phàm hèn mà Chúa nâng con lên cao cả dường ấy. 

Ôi con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, 
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm ?
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
(Tv 8, 5-6).

Lạy Chúa con xin tạ ơn Chúa muôn đời. Xin ban ơn giúp sức để con đủ sức dứt bỏ mọi quyến luyến trần gian. Để con hoàn thành ơn gọi nên thánh Chúa đặt nơi con. Để con được hạnh phúc muôn đời với Chúa. Họp đoàn với muôn ngàn thần thánh ca tụng Chúa muôn đời. Amen.
Xem thêm…

NAY NGƯỜI, MAI TA

22:39 |

NAY NGƯỜI, MAI TA

Lm Giuse Đinh lập Liễm 


 I. NGƯỜI CHẾT NỐI LINH THIÊNG VÀO ĐỜI.

Đứng trước thi hài người quá cố hôm nay, tôi liên tưởng đến bài hát mà thiếu nhi giáo xứ vẫn hát trong buổi sinh hoạt chiều Chúa nhật, đó là bài : “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh công Sơn. Mục đích của bài hát này nhằm thúc giục mọi người Trung Nam Bắc đoàn kết xây dựng quê hương đất nước chúng ta.

Nhưng trong bài hát này có một câu làm tôi phải suy nghĩ, đó là “Người chết nối linh thiêng vào đời”. Không biết rõ tác giả định nói gì ? Chắc chắn phải có một ý nghĩa thâm sâu . Tuy không hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nó giúp tôi nảy ra một ý nghĩ : người chết nối linh thiêng vào đời vì thực tại cái chết là một thực tế đặt con người đứng trước một cái gì huyền bí, đáng sợ, và khi đứng trước thi hài người chết, ai ai cũng phải đối diện với cái ý nghĩ này : nay người, mai ta. Và tôi muốn nói với bạn :”Hodie mihi, cras tibi” : nay tôi, mai anh. Tôi chết, anh còn sống, nhưng còn sống đối với anh chỉ là “chưa chết”. Anh chỉ được “triển hạn”, chứ không bao giờ được “miễn trừ”.

Với những ý nghĩ như vậy mà chúng ta thường im lặng , trầm mặc đứng trước người chết, nhất là đứng trước thi hài một người thân yêu của mình. Chúng ta im lặng, trầm mặc và buồn sầu, không chỉ vì người thân yêu không còn nữa, mà còn vì nghĩ đến cái chết sẽ xẩy ra cho mình. Người chết như mang theo phần nào chính chúng ta. Trong người chết, nhất là những người ruột thịt máu mủ của chúng ta, một phần ruột thịt máu mủ của chúng ta đã ra đi.

“Người chết nối linh thiêng vào đời” là như thế, nghĩa là người chết đặt chúng ta đối diện với một thực tại khác, một thế giới của sự im lặng, huyền bí, một thế giới của sự tôn nghiêm, đáng kính, đáng sợ… Vì sợ người chết, sợ sự chết, nên người ta dù muốn hay không cũng phải nghĩ đến cái chết của mình, phải chuẩn bị cho cái chết không thể tránh được.

Người Estonia có câu ngạn ngữ :”Cái chết ở trước mặt người già và sau lưng người trẻ”. Đây là tâm lý chung cho mọi người vì người già dễ cảm thấy mình gần đất xa trời hơn người trẻ.

Tuy thế, nhiều khi người già cũng như người trẻ đều “tham sinh úy tử” nên ít khi nghĩ đến cái chết, nhưng khi thần chết đến thì người ta cảm thấy đã quá muộn. Vì thế, ông Henri Bordeaux nói :”Phần đông người ta chỉ mở mắt một lần, mà lần ấy lại là chính lúc tắt thở, nhưng người ta vội bóp mắt lại ngay”.
Đồng quan điểm với ông Henri Bordeaux, ông John C. Collins nói :”Người chết mở mắt cho người sống”, cũng có nghĩa là người sống bóp mắt người chết.

Ông Stephen Leacock nói :”Lạ lùng thay cái chuỗi đời người : còn nhỏ thì ước được lớn lên. Lớn lên rồi, ước đến tuổi trưởng thành. Đến tuổi trưởng thành rồi, ước được một tổ ấm. Được tổ ấm rồi, ước làm ông nội nghỉ ngơi. Được nghỉ ngơi rồi lại nuối tiếc quãng đời quá khứ và cảm thấy một luồng gió lạnh đang rì rầm thổi tới. Nhưng khi ý thức được rằng đời sống chính là ở hiện tại, ở trong ngày hôm nay, thì đã quá muộn rồi”.

II. HODIE MIHI, CRAS TIBI.
Hôm nay, người chết nằm đây muốn nhắc nhở chúng ta : “Hodie mihi, cras tibi” : hôm nay phiên tôi, ngày mai đến phiên anh. “Hôm nay” (hodie) là một ngày nhất định, rõ ràng, tại đây và lúc này, ai cũng phải công nhận rằng người thân yêu của chúng ta đã ra đi về đời sau, và lát nữa sẽ được chôn vùi trong lòng đất.



Nhưng còn chữ “Ngày mai” (cras) là một ngày bất định, mông lung, mờ mịt không biết bao giờ mới đến như người ta nói :”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ” (Tục ngữ). Đây là điều bắt buộc chúng ta phải động não vì nó liên quan đến số phận đời đời của chúng ta.

Theo tâm lý chung, người đời ai cũng “tham sinh úy tử” (ham sống sợ chết). Người ta cũng nhận xét rằng : các cụ già thường sợ chết hơn các thanh thiếu niên. Nhưng có một điều thực tế : không bao giờ người ta thấy mình sống lâu cả. Dẫu đã tóc bạc da đồi mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy :

Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,
Thoát chốc mà già đã tới ngay
(Nguyễn Khuyến)

Thỉnh thoảng chúng ta phải “stop” lại để bình tĩnh đứng ra ngoài cuộc đời bề bộn, ra ngoài cái Tôi chủ quan, mà quan sát và ý thức nhận định một cách khách quan :


Tại sao tôi sống ?
Sống để làm gì ?
Chết rồi, ra sao ?

Phải tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Có người không biết tại sao mình sống, rồi sẽ ra sao ! Cho nên họ có cái nhìn bi quan về cuộc sống bởi vì họ không tìm ra được lẽ sống.



Ngày xưa có một ông vua, tuổi đã quá thất tuần mà vẫn chưa xem được một quyển sách nào. Bộ sách mà ông thèm khát được đọc là bộ “Lịch sử loài người”. Nhưng vì bận rộn không có thì giờ đọc nên đã nhờ các nhà thông thái nghiên cứu và rút gọn lại trong một câu cho vua dễ nhớ và để làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Sau một thời gian, ban tu thư đã trình lên vua một câu vắn tắt :”Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ : loài người sinh ra để khổ rồi chết”. Nhà vua gật đầu. Đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười mãn nguyện… rồi tắt thở.

Cuộc sống trên trần gian này chỉ là một cuộc hành trình có khi dài có khi ngắn đối với mỗi người, nhưng luôn phải có điểm đến, nghĩa là cuộc hành trình phải kết thúc, chứ không phải đi đến vô tận. Đây là một thực tế hiển nhiên, ai cũng phải công nhận. Đã có sinh thì phải có tử, nhưng khi chết rồi người ta còn muốn để lại danh thơm tiếng tốt cho hậu thế :

Người đời hữu tử hữu sinh
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.

Napoléon Bonaparte, hoàng đế nước Pháp (1769-1821), kẻ đã làm thay đổi bản đồ Âu châu, nhà chiến lược quân sự đại tài, đã phải tâm sự : “Tôi chết trước thời hạn, và thân thể tôi lại trở về với lòng đất. Đó là số phận của con người đã từng được gọi là Napoléon đại đế. Có một vực sâu ngăn cách giữa sự khốn cực của tôi và vương quốc bất diệt của Chúa Kitô”.

Để chuẩn bị cho cuộc ra đi vĩnh viễn, chúng ta phải mở rộng tâm hồn ra, đừng bao giờ khép kín lại với người khác. Con người sinh ra với những ngón tay nắm chặt lại. Bản tính con người vốn khép kín, ích kỷ. Một đứa trẻ được nuông chiều sẽ nghĩ rằng mọi người đều có bổn phận phải phục vụ nó, nó là trung tâm của vũ trụ, cả thế giới này là của nó. Nhưng mọi người cũng biết rằng khi chết đi, các ngón tay sẽ buông xuôi, tiền tài và danh vọng đều để lại…

Cuộc hành trình tâm linh là đi từ bản thân tới người khác, phải mở trái tim để yêu thương người khác, phải mở bàn tay để chia sẻ với người khác.

Truyện : Hãy bắt chước dòng suối.

Có một phiến đá ở bên cạnh một dòng suối được khắc những chữ “Hãy bắt chước dong suối” . Ba người du khách tình cờ đi đến đây, và tự hỏi không biết dòng chữ có ý nghĩa gì.

Một người là nhà buôn nói :

- Nó có nghĩa là dòng suối đưa nước tới một dòng suối khác. Suối này lại tiếp tục đưa nước tới một dòng khác lớn hơn, cho tới khi nó gặp sông, và nước sông đổ ra biển. Như thế, nó có nghĩa là : người ta nên quan tâm đến vấn đề vật chất và cố gắng làm giầu, như thế họ mới có thể thành công và giầu có.

Người trẻ nhất trong ba người nói : 

 - Không phải như vậy. Nước của dòng suối này rất trong và sạch. Ai đi qua đây, suối cho họ thức uống làm tỉnh người. Nếu dòng nước chảy đi xa hơn, nó sẽ bị vẩn đục hơn và không uống được. Dòng chữ có nghĩa là : Chúng ta nên giữ cho trái tim và linh hồn trong sạch, không vẩn đục, cũng như dòng suối này vậy. 



Người lớn tuổi nhất nói :

 - Người bạn trẻ nói đúng đó ! Dòng suối cho nước mát, sạch cho những ai đang bị khát. Dòng suối cho nhưng không đòi phải trả lại nước cho nó. Dòng suối cho tất cả mọi người không từ chối ai cả. Nó có nghĩa là : chúng ta nên tốt với mọi người, không nghĩ đến điều họ trả ơn, hay chúng ta được ban thưởng gì (Arthur Tonne , Stories for sermons, vol 13). 



Xem thêm…

THẮP NÉN HƯƠNG LÒNG

22:26 |
THẮP NÉN HƯƠNG LÒNG *
 Luật sư Lê Công Định
Lúc thiếu thời đi học, nhắc đến cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, đa số thầy cô dưới mái trường XHCN của tôi đều gọi là “thằng Diệm” và “thằng Thiệu”. Về nhà tôi kể lại cho ba mẹ nghe. Ông bà nghiêm nghị cấm tôi không nên bắt chước thầy cô, vì như thế là vô lễ và bất kính đối với các bậc tiền nhân. Sau này, trưởng thành, có dịp đi làm việc ngang vùng Ninh Thuận, một đồng nghiệp lớn hơn tôi vài tuổi hỏi: “Nghe nói vùng này là quê hương của thằng Thiệu?” Tôi cau mày, đáp: “Dù sao ông Nguyễn Văn Thiệu cũng đáng bậc cha chú của anh mà! Nếu mình đi đến vùng Nghệ An, em nói đây là quê hương của thằng Hồ, anh sẽ cảm thấy thế nào?” Anh ấy chống chế: “Xin lỗi, thói quen thôi mà!” Từ đấy anh ấy xem tôi là “phản động” (!). Tôi hãnh diện về tiếng “phản động” đó, vì nhớ đến lời giáo huấn đạo làm người của cha mẹ tôi.

Ba tôi, một người tham gia phong trào cộng sản, vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng đối với cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Ông thường nhận định với tôi rằng dân tộc này sẽ tốt đẹp hơn nhiều, thậm chí có thể sánh ngang với Nhật Bản ở Á châu, nếu cụ Diệm lèo lái con thuyền đất nước đến được bờ bến mà cụ tâm niệm và tranh đấu cả một đời. Khi tôi tỏ vẻ ngạc nhiên vì sao ông chưa bao giờ bày tỏ sự tôn trọng tối thiểu đối với bất kỳ lãnh tụ cộng sản nào, ba tôi lắc đầu trả lời: “Ba chọn lầm đường!” Và ông luôn căn dặn tôi: “Thế hệ của con không được quyền lạc lối như ba.”

Mỗi sáng mùng một Tết hàng năm lúc tôi còn là học sinh tiểu học và trung học, sau khi sang chúc Tết ông nội về, ba mẹ thường đưa anh em chúng tôi đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi viếng mộ dượng sáu tôi là ký giả Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, Chủ bút nhật báo Đông Phương ở Sài Gòn trước 1975. Bao giờ cũng vậy, trước khi đến mộ dượng tôi, ba tôi luôn dừng lại thắp hương, còn mẹ tôi (một giáo dân Công giáo) đọc kinh cầu nguyện trước mộ Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu và bà cụ cố thân sinh của hai ngài. Anh em chúng tôi phải đứng chấp tay, cúi đầu. Điều đó đã trở thành thông lệ của gia đình tôi ngày xưa.

Năm 1998, sang Pháp học, tôi đọc một quyển sách về Tổng thống Ngô Đình Diệm và biết rằng sau khi nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi bị giải tỏa năm 1985, hài cốt của ba vị cùng với ông Ngô Đình Cẩn được thân nhân chuyển về nghĩa trang Lái Thiêu. Tết năm 1999, nhân dịp trở về Việt Nam dự chương trình Orientation dành cho sinh viên nhận học bổng Fulbright du học Hoa Kỳ, tôi chở ba tôi đi Bình Dương tìm nghĩa trang Lái Thiêu, mà ông còn nhớ tên gọi xưa là “Nhị Tì Quảng Đông”. Chúng tôi dò hỏi những người dân gác mộ xung quanh đó, thì được hướng dẫn tận tình và đưa đến tận nơi. Họ còn nhắc nhở chúng tôi viếng nhanh rồi về, vì buổi trưa các du kích xã đi ăn cơm nếu không chúng tôi có thể bị mời về xã đội điều tra lý do viếng mộ ông Ngô Đình Diệm (?).
 
Mộ phần Tổng thống Ngô Đình Nhu- nghĩa trang Lái Thiêu - ảnh ddth

Theo quyển sách tôi đọc, bia mộ của cố Tổng thống ghi “Giacôbê Đệ”, còn bia mộ của ông Cố vấn ghi “Baotixita Huynh”, do thân nhân lúc cải táng cố tình tráo hai chữ “huynh” và “đệ” để kẻ gian nhầm lẫn. Tôi không rõ thực hư việc này, nhưng quả nhiên thấy rõ những dòng chữ ấy. Giữa mộ hai ngài là mộ của bà cụ cố thân sinh. Cách một quãng xa, ngôi mộ có tấm bia dựng cao ghi chữ “Can” và năm mất 1964, chính là mộ phần của ông Ngô Đình Cẩn. Hai cha con tôi kính cẩn làm lễ, thắp hương, đọc kinh cầu nguyện và chụp ảnh lưu niệm. Suốt đoạn đường về ba tôi trầm ngâm, muộn phiền trước cảnh một nhân vật từng có sự nghiệp vĩ đại nhất của dân tộc ở thế kỷ 20 mà cuối đời chỉ còn nắm tro tàn vùi chôn tại một nơi và theo một cách thức không tương xứng với tầm vóc và đóng góp của ông. Nỗi buồn của ba lây sang cả tôi.

Trở lại Paris năm đó, tôi tìm đến thăm trường Ecole des Chartres, một trong những trường danh giá nhất của Pháp, nơi ông Ngô Đình Nhu từng theo học. Ngôi trường ấy tọa lạc gần trường luật Panthéon-Assas của tôi. Tôi vẫn nể phục ông Nhu như một nhà tư tưởng lớn hiếm hoi của Việt Nam đương thời. Từ chuyến đi năm 1999 trở về sau, lúc thì vào dịp Tết, lúc nhân ngày giỗ hai ông, tôi âm thầm đến viếng mộ phần của bốn vị đều đặn. Giữa năm 2007, một buổi chiều cuối tuần, đón tiếp luật sư Lê Quốc Quân vào Sài Gòn, tôi đưa anh và hai vợ chồng luật sư đồng nghiệp cùng đến nghĩa trang Lái Thiêu. Chúng tôi đã tổ chức một buổi lễ tôn nghiêm dành cho các vị, với nguyện ước một ngày không xa công lao và danh dự của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm sẽ được phục hoàn và tôn vinh tương xứng với sự nghiệp vĩ đại của ông.

Tiếc rằng giờ đây đang trong thời gian quản thúc, ngày mai tôi không thể đến viếng mộ phần của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và ba vị tiền nhân như mong ước, hy vọng lời chia sẻ này thay cho nén hương tưởng niệm để tỏ lòng kính trọng và niềm tiếc thương của tôi dành cho nhân vật lịch sử đã từng tranh đấu và ngã xuống vì quốc gia Việt Nam.
---------------
TMSS: Ngày lễ các thánh và lễ các linh hồn nhắc nhớ chúng ta nên bỏ qua tất cả để sống với nhau. Cho dù có tất cả thì cũng có mang được gì theo. Chỉ có lòng nhân và tấm chân tình mới là hành trang mang theo về bên kia cõi đời. Vậy hà cớ gì mà phải gọi nhau là thằng hay đứa - cách thù hằn và gây phân cách. Mọi thứ sẽ được tỏ lộ theo thời gian và sự thật sẽ luôn chiến thắng cho dù có bị vùi sâu thật sâu. Đóm lửa nhỏ của lòng nhân ái có thể thiêu rụi cánh rằng hận thù. Người chết nhắc nhở chúng ta điều đó. Hãy sống với nhau bằng tấm chân tình và đức ái! Mong lắm thay!
* Tựa bài do TMSS đặt
Xem thêm…

01/11 - Lễ Các Thánh

08:19 |

Lễ Các Thánh: các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa

LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ

Lời Chúa: Kh 7,2-4.9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a

 






1. Các thánh

Nói tới việc nên thánh, nhiều người thường có thái độ hoài nghi và an phận, họ bảo: Nên thánh là chuyện của các linh mục, tu sĩ, những người có nhiều thời giờ để đọc kinh cầu nguyện, chứ còn chúng tôi phải ngược xuôi, bươm chải giữa lòng đời. Không trộm cắp giết người, không bỏ lễ ngày Chúa nhật, không bỏ xưng tội rước lễ vào mùa Phục sinh cũng là khá lắm rồi, còn nói chi đến chuyện nên thánh.

Đó là một quan niệm sai lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý tưởng dành riêng, một loại ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có lẽ xuất phát từ một thực tế, đó là trong số những vị thánh được Giáo Hội tuyên phong, thì con số giáo dân rất thấp so với các linh mục và tu sĩ. Hơn nữa, có những thời người ta đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc nhiều người thi đua nhau lập thành tích trong khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng tượng, người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.

Còn một quan niệm sai lạc khác nữa coi việc xa tránh thế gian là điều kiện cốt yếu để nên thánh. Chúng ta thường nói: tu là cõi phúc, tình là giây oan, sự thánh thiện là một cái gì thuộc về cá nhân, không dính dấp chi tới cuộc đời. Vậy thì Giáo Hội quan niệm như thế nào về sự thánh thiện? Tôi xin thưa: trong Kinh Tiền tụng ngày lễ hôm nay, chúng ta vốn thường đọc: Khi tuyên dương công trạng các ngài, Chúa biểu dương chính những ân sủng Ngài ban. Nghĩa là các thánh không phải là những siêu nhân, nhưng là những con người bình thường, được Chúa tuyển chọn và ban cho tham dự vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức để sống một cuộc sống phù hợp với Tin mừng. Công trạng của các ngài là một đón nhận và không cản trở ơn huệ của Chúa.

Bởi vì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng thánh, còn chúng ta được trở nên thánh, khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất ấy. Các thánh sở dĩ được tuyên phong là thánh, bởi vì cuộc đời các ngài được coi như là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mà vì Thiên Chúa đã xuất hiện nơi Đức Kitô, nên có thể nói cách khác rằng: Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Thánh thiện Kitô giáo không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với hoàn thiện. Có những vị thánh mà vẫn bất toàn. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói: Những kẻ trộm cắp, đĩ điếm có thể vào Nước Trời dễ hơn những kẻ tự coi mình là đạo đức, là mô phạm.

Đúng thế, với người trộm lành, Chúa Giêsu đã hứa: Ngay hôm nay con sẽ được lên thiên đàng với Ta. Có lần người ta đã thắc mắc tại sao vị tử đạo kia có hai vợ mà vẫn được làm thánh. Sở dĩ, ngài được làm thánh không phải vì có hai vợ, mà vì mặc dù tội lỗi như thế, ngài đã chấp nhận chịu chết để khỏi chối Chúa. Mất vợ thì được, chứ mất Chúa thì không.

Ngày nay chúng ta cần tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.




2. Người khổng lồ thiêng liêng

Ít năm trước đây, một triệu phú người Pháp là Công tước Alfred de Pierre-Cout, đã để lại trọn gia tài 2 triệu đôla để nuôi lớn những người khổng lồ. Tòa án thực hiện di chúc, cho trích một phần tư số tiền của gia tài là 500.000 đôla để dùng vào thử nghiệm này. Các viên chức thành phố Rouen nước Pháp đã tìm kiếm trên thế giới những người đàn ông, đàn bà lớn con. Cho họ sống từng đôi trong những ngôi nhà gần Rouen. Thử nghiệm chấm dứt ít năm sau.

2000 năm trước đây, một nhân vật vĩ đại nhất đã đến trên mặt đất này và để lại một di sản để làm phát sinh không phải người khổng lồ, nhưng là người phi thường thiêng liêng, không phải những người có thân thể to lớn, nhưng là những người có tâm hồn siêu việt. Chúng ta vừa đọc chúc thơ của Người trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài giảng thời danh trên núi cho chúng ta phương cách để trở thành siêu việt. Chúng ta thường gọi là Tám Mối Phúc Thật – Tám con đường hạnh phúc.

Trong ngày lễ các Thánh, chúng ta tôn kính tất cả mọi người nam nữ, già trẻ trong mọi thời đại, thuộc mọi quốc gia, mọi nghề nghiệp. Họ đã sống theo đường lối này và đã trở thành siêu nhân. Tên tuổi và việc làm của hơn 40.000 siêu nhân này được ghi trong sổ bộ của Hội Thánh Chúa Kitô. Nhưng còn một số đông vô kể không có tên trong sổ bộ. Các ngài cũng là những siêu nhân, chúng ta tôn kính các ngài trong ngày hôm nay. Trong số đó có nhiều vị gần gũi và thân thương với chúng ta.

Điều gì làm các ngài thành vĩ nhân? Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Các ngài nghèo khó trong tinh thần: Tiền bạc, của cải không phải là cái các ngài quan tâm.

· Các ngài hiền lành, hòa nhã, ân cần, khoan dung. Các ngài đã chịu đói, chịu khát, các ngài đấu tranh Công lý cho mọi người. Các ngài nhân từ, dung thứ những thiếu sót của con người.

· Các ngài có tâm hồn trong sạch, không phải chỉ trong giới răn thứ sáu. Nhưng còn trong mục đích làm đẹp lòng Chúa và ích lợi cho tha nhân. Các ngài là người kiến tạo hòa bình: với chính các ngài, với tha nhân và với Chúa.

· Lòng tốt của các ngài đưa các ngài đến tù tội, ngược đãi và ngay cả sự chết. Các ngài bị sỉ nhục, bị nhạo cười vì niềm tin, vì hành động như những người theo Chúa Kitô.

Mỗi lần chúng ta thực hành một trong Tám Mối Phúc Thật này, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng, chúng ta trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Để khuyến khích chúng ta lớn lên, Mẹ Giáo Hội nhắc nhở chúng ta suốt một năm tên của các vị Thánh. Hôm nay, ngày lễ các Thánh nam, nữ, gia đình Chúa xum họp quanh bàn thánh Chúa để tôn kính tất cả, trong đó có bà con láng giềng đã trở nên siêu nhân, mặc dù chưa được ghi tên trong sổ bộ.

Sức mạnh để trở nên siêu nhân Chúa Kitô cho chúng ta trong của ăn, chúng ta lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh Lễ. Ước gì tất cả chúng ta sẽ được trong số những người sẽ được tôn kính trong ngày lễ các Thánh mai sau.

Xin Chúa chúc lành bạn.




3. Hạnh phúc thay

Một người Pháp tên là Pi-e Quốc (Alfred de Pierrecout) để lại gia tài hai triệu đô la với lời di chúc phải dùng số tiền này gây giống những người khổng lồ. Người ta đã tìm và chuyển những người cao lớn ngoại khổ về một vùng gần tỉnh Ru-ăng (Rhuen), rồi khuyến khích họ lập gia đình với nhau, mong thành lập một dòng giống khổng lồ. Chương trình này tiến hành được ít năm rồi thất bại. Còn Chúa Giêsu cũng muốn gây dựng một dòng giống vĩ nhân và đã thành công. Bí quyết thành vĩ nhân của Chúa đã tóm gọn trong Bài giảng trên núi, cũng gọi là “Tám mối phúc thật”.

Chúa Giêsu công bố những bí quyết hạnh phúc này trên một gọn núi. Khung cảnh làm tăng vẻ hùng vĩ long trọng, khiến ta nhớ tới núi Sinai của Cựu Ước, nơi Thiên Chúa công bố mười giới luật. Những điều hạnh phúc này cũng gọi là Hiến chương Nước Trời, đây là tóm lược toàn bộ giáo lý của Đức Kitô. Tuy đơn sơ giản dị nhưng là tinh hoa của Tin Mừng, Chúa muốn gửi gắm với tất cả nhân loại, nhất là những người đau khổ: ốm yếu, tật nguyền, nghèo túng, thất nghiệp, những người bị khinh chê, tuyệt vọng, giới thu thuế và người tội lỗi.

Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó…, phúc cho những người hiền lành…, phúc cho ai có từ tâm…, phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính… Những người gặp khó khăn đau khổ sẽ được hạnh phúc trong Giáo Lý Đức Giêsu, đây là kiểu nói khác của Lời Chúa: “Ai vất vả mệt mỏi hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi. Hãy nhận lấy gánh của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng và các con sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì ách của Ta êm ái, gánh của Ta nhẹ nhàng” (Mt 11,28-30). Chính vì đem hạnh phúc lại cho người đau khổ mà Chúa Giêsu mới đúng là “Đấng được trông chờ”, là “người được tiên báo”, là “người đem Tin Mừng Cứu Độ”. Chúng ta đừng được quên từ ngữ Tin Mừng Cứu Độ đã được chính Chúa nhắc lại: “Thần Linh Chúa xuống trên tôi, Người đã xức dầu tôi, sai tôi mang Tin Mừng cho người nghèo, băng bó cho ai có cõi lòng tan vỡ, công bố giải thoát cho các tù nhân, an ủi những người bị áp bức…” (Is.61,1-6; Lc.4,18).

Hạnh phúc cho họ… vì Nước Trời là của họ… Tám mối phúc thật đóng khung trong kết luận đó. Nước Trời thuộc anh em, không phải chỉ là lời hứa hẹn mai sau, nhưng niềm hạnh phúc này còn lan toả ngay trong hiện tại. Khi hiến chương tám mối phúc thật được thực hiện thì những người đau khổ sẽ hạnh phúc, tình thế sẽ đổi thay. Chúa không ca tụng đói nghèo, đau khổ, nhưng muốn cải thiện cuộc sống dưới ánh sáng Tin Mừng. Nước Trời, Nước Thiên Chúa là tổ chức được xây dựng ngay trong cuộc sống thế trần, và đầu tiên nhằm xoá hết khổ đau, áp bức. Chúa Giêsu không phải chỉ là Vua mai sau, nhưng ngay bây giờ Nước Chúa đã hình thành, và Chúa đã là Vua luôn đem hạnh phúc cho dân của Người.

Phúc cho người có tâm hồn nghèo, vì Nước Trời thuộc về họ. Phúc cho người hiền lành, họ sẽ được đất. Trong từ ngữ Hy Lạp, hai ý đó chỉ có một từ. Đó không phải là thái độ chịu đựng tiêu cực, nhưng là một cố gắng đạt tới, để cho nhân quyền được tôn trọng. Phúc cho ai than khóc, họ sẽ được ủi an. Phúc cho ai đói khát công chính, họ sẽ no thoả. Phúc cho ai có từ tâm, họ sẽ được thương xót. Phúc cho ai tinh sạch trong lòng, họ sẽ thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khóc với Matta và Maria; Chúa đã sống công chính rập mẫu Chúa Cha. Chúa đã thương xót các tội nhân, Người luôn tha thứ. Các tín hữu phải noi gương Chúa ban phát lòng thương xót và tha thứ. Khi đó họ được gọi là con Thiên Chúa, vì họ đã kiến tạo hoà bình.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con noi gương các bậc thánh thiện mà Giáo Hội mừng kính hôm nay, biết thực hành những lời Chúa dạy trong Tám mối phúc thật, để chúng con lãnh nhận hạnh Chúa hứa ban.


4. Các Thánh và bổn phận nên thánh

Hôm nay chúng ta mừng kính các thánh trên trời, là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa, là những người được Chúa tuyển chọn và tạo thành một đám đông vô kể bước vào vinh quang Nước trời, như thánh Gioan đã diễn tả:

- Các ngài thuộc những dòng họ đã được đóng ấn, mặc áo trắng và cầm cành lá thắng trận.

Chúng ta cũng có thể nói được rằng: các thánh là những bậc đàn anh đã đi trước chúng ta. Nhìn vào đời sống của các ngài, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ, bởi vì các ngài cũng đã phải chiến đấu trong cuộc chiến trần gian, các ngài cũng đã phải mang trên đôi vai thân phận yếu của kiếp người và cũng đã vấp phạm, có vị còn ngập chìm trong tội lỗi hơn cả chúng ta nữa.

Nhưng với ơn Chúa trợ giúp và cùng với những cố gắng cá nhân, các ngài đã chiến đấu, đã đi đến cùng mà vẫn giữ được đức tin. Các ngài đã kết thành một hàng rào danh dự chung quanh Con Chiên là chính Chúa.

Chắc hẳn bây giờ từ trời cao, các ngài đưa mắt nhìn chúng ta bằng cái nhìn trìu mến và thầm mong một ngày kia chúng ta cũng sẽ được bước vào cõi phúc trường sinh. Các ngài đã chỉ cho chúng ta con đường nên thánh mà các ngài đã đi qua. Các ngài sẽ nâng đỡ và nói với chúng ta rằng:

- Hãy tìm kiếm Chúa và đừng sợ hãi. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Hãy bắt chước chúng tôi vì chúng ta cũng chỉ là những kẻ tầm thường và đáng thương. Hãy uốn nắn những sai lỗi. Hãy cố gắng trở nên trọn lành như lời Chúa đã truyền dạy.

Vào một buổi tối người mẹ đã nói với những đứa con của mình như sau:

- Mẹ sẽ rất vui mừng nếu như một trong các con trở nên một vị thánh.

Lập tức đứa bé nhất đã giơ tay lên và nói:

- Con sẽ là một vị thánh.

Đứa bé giữ lời hứa, lớn lên làm tới chức Giáo hoàng với danh hiệu Celestinô V, và đã trở nên một vị thánh.

Trở nên một vị thánh không phải là một việc có thể được thực hiện trong một sớm một chiều, nhưng là kết quả của những cố gắng không ngừng, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trong suốt cả cuộc đời, để được luôn trung thành cùng Chúa.

Quan sát một người tập đi xe đạp, chúng ta thấy không phải cứ ngồi lên xe là đã chạy được ngay. Lúc đầu thế nào cũng xiêu bên nọ, xọ bên kia, ngã lên ngã xuống, rách cả quần, toạc cả đầu gối…Nhưng nếu cố gắng mãi, sẽ có lúc người ấy biết đi và biết đi một cách anh dũng, bỏ cả hai tay m xe vẫn không đổ.

Hay như chú bé kia nuôi một con sáo, để tập cho con sáo biết nói, chú bé phải cho nó ăn ớt, rồi lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác lời mình định dạy cho nó, đến một ngày nó sẽ nói được.

Cũng vậy trên con đường trọn lành, chúng ta sẽ tiến lên từ từ, từng bước một, trong khi nhìn ngắm mẫu gương của các thánh. Cùng với sự trợ giúp của ơn Chúa và những cố gắng của bản thân, chúng ta sẽ học biết phải yêu mến Chúa như thế nào. Mỗi ngày sẽ là một bước tiến lại gần Chúa hơn. Chúng ta không phải chỉ trở nên thánh một lần thay cho tất cả, mà phải liên tục trở nên thánh. Chúng ta giống như người bơi ngược dòng nước, không tiến tức là lùi. Không cố gắng bơi sẽ bị dòng nước là những đam mê tội lỗi cuốn trôi.

Ơn gọi nên thánh không phải là một ơn gọi được dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, nhưng là một ơn gọi của mọi người con Chúa, bởi vì con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Chắc hẳn Chúa sẽ vui mừng khi nhìn thấy những đường nét của Ngài trong tâm hồn chúng ta.

Hãy suy gẫm lời thánh Augustinô:

- Cậu nọ cô kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?

Dù trẻ hay già, dù đàn ông hay đàn bà,tất cả chúng ta đều có thể và phải trở nên thánh.

Thánh Đamascênô kể lại một mẩu chuyện như sau: ngày xưa ở một vùng kia, người ta có một tập tục kỳ lạ, đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm. Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ mọi quyền lực, đều hành mọi công việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời gian ấy, người ta sẽ tước đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta tới một hoang đảo xa xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng.

Năm ấy có một vị vua lên ngôi, nhưng ông ta khôn ngoan hơn những người đi trước. Trong thời gian trị vì, ông ta chỉ có một ý nghĩ: phải chuẩn bị cho tương lai, kiến thiết hòn đảo xa xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông truyền cho người ta xây cất cung điện, biến rừng hoang thành những vườn cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi. Rồi ông cho chở tất cả vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.

Chúng ta thầm khen:

- Ông vua này quả là thận trọng và khôn ngoan.

Hãy bắt chước ông vua ấy, dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hãy gửi trước về trời những kho tàng, là những hành động bác ái yêu thương của chúng ta.

Đừng lần lữa, nhưng hãy bắt tay vào việc nên thánh ngay từ hôm nay, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:

- Việc hôm nay chớ để tới ngày mai, bởi vì ngày mai biết đâu đã quá muộn, liệu còn có hay không?




5. Các Thánh

Một viên tướng nọ rất ghét một vị ẩn sĩ trong vùng ông ta cai quản. Do đó, ông ta thường sai một nhóm gái làng chơi đến quấy rầy, quyến rũ, phá phách nhà tu hành đủ kiểu, nhưng không lần nào có hiệu quả cả. Một bữa đang khi vị ẩn sĩ tắm dưới suối thì đám con gái mất nết cũng ào xuống tắm và ra sức chọc ghẹo. Thấy thế, vị ẩn sĩ vội bước lên bờ thì đám con gái ăn mặc hở hang đó không chịu tha, liền vây tròn xung quanh vừa nhảy múa ca hát vừa ăn nói tục tĩu. Chẳng chút động lòng hay tức giận, vị ẩn sĩ ngước mắt lên trời, hai tay dang rộng với dáng điệu vui mừng hớn hở và cầu nguyện rằng: “Lạy Thượng Đế, con cảm tạ Ngài đã ban cho nhân loại những con người rất đẹp đang nhảy múa đây. Phải chăng chính hiện thân Chân Thiện Mỹ của Ngài đang ở đây. Con xin thành tâm cảm tạ Ngài”. Cứ thế, vị ẩn sĩ trong tư thế và tâm tình đó vẫn vui vẻ cầu nguyện. Càng lâu nét mặt ông càng rạng rỡ, thanh thoát hơn bao giờ hết. Bỗng một cô gái trong đám bỏ hàng chạy đến quì sấp dưới chân vị ẩn sĩ và thốt lên: “Đây đúng là một vị Thánh, một vị Thánh ở giữa loài ngoài”.

Có lẽ, cái cảm tưởng chung nhất khi nghe nói đến một vị thánh là một người đều cho rằng đó là một loại người siêu phàm, họa hiếm, trăm năm mới có một người. thật ra, về một phương diện nào đó các Ngài đúng là hạng người như thế, nhưng nếu chúng ta ngây thơ đến độ quá thần thánh hóa các Ngài là chúng ta sẽ mắc phải một thứ mặc cảm bệnh hoạn: nghĩa là có lúc nào đó dám ước mơ làm thánh thì cho việc ấy là một chuyện phạm thượng, bất kính, rồi dần dần coi việc nên thánh là chuyện viễn vọng, quá xa tầm tay của mình.

Vậy chúng ta tự hỏi mang mặc cảm tự ti bệnh hoạn như thế có đúng không? Và phải quan niệm Các Thánh là những người như thế nào mới hợp lý? Các Ngài có cái gì giống và cái gì khác mọi người chúng ta?

Trước hết Các Thánh là những người giống chúng ta: cũng được sinh ra, lớn lên bình thường, đôi khi còn rơi vào những hoàn cảnh khắc nghiệt hơn như nghèo khổ có, bệnh hoạn có, tang tóc tai họa có, chán nản thất vọng có, vui buồn có… Và cũng mang trong mình mọi yếu đuối hư hèn, mọi tính hư nết xấu, cũng tham sân si, cũng hỉ ai ái nộ, cũng lầm lỡ mang tiếng xấu. Thuộc đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội: giàu sang quyền thế có, bần cùng dân đen có, trí thức bác học có, dốt nát quê mùa có. Nói tắt các Ngài không khác chúng ta bao nhiêu, trái lại nhiều Vị còn mang nơi mình một quá khứ đầy tội lỗi, xấu xa hơn chúng ta nữa.

Tuy nhiên Các Ngài là những người khác chúng ta. Chính cái khác này đã nâng Các Ngài lên bậc thần thánh và làm cho chúng ta trở thành con người tầm thường. Nói rõ hơn, cái khác ở đây không phải là một sự kiện lạ lùng, một bí quyết gia truyền, cũng không phải một đặc ân dành riêng cho một số người, cũng không phải do dòng máu di truyền, mà là có quyết tâm cao, cố gắng phi thường, dốc quyết sắt đá, cải thiện không ngừng, hợp tác với ơn Chúa cách hiệu quả.

Nói cụthể hơn là khi đứng trước mãnh lực của tiền tài danh vọng, Các Ngài thấy lợi ít hại nhiều nên đã cương quyết từ bỏ, còn chúng ta viện đủ lý do để bám theo, trước những quyến rũ của thế gian xác thịt, Các Ngài dốc lòng xa tránh để sống thanh cao trong sạch hơn là nô lệ cho đam mê nhục dục, trước anh em đồng loại, thay vì xa tránh, tranh chấp, giận ghét, oán thù Các Ngài còn luyện tập từ bỏ cả những quyền lợi riêng tư, hưởng thụ chính đáng nữa. Dĩ nhiên, tất cả những việc làm đó mà Các Ngài quyết tâm thực hiện chỉ vì vâng lời Chúa dạy để yêu mến Người và phục vụ anh em nên Các Ngài đã thành công trên con đường cứu rỗi.

Như thế, cái khác giữa Các Thánh và chúng ta xem ra không có gì quá khác xa nhau. Chẳng qua Các Ngài vâng theo ý Chúa hơn, chọn điều thiện điều tốt hơn, cố gắng luyện tập các nhân đức hơn. Còn chúng ta nại đủ lý do này khác để từ chối ơn Chúa soi sáng hước dẫn, không cố gắng quyết tâm đủ để tuân thủ lời Chúa dạy, mà chỉ biết lo dung dưỡng bản thân, tham quyền cố vị nên mãi mãi không bước đến cùng đời sống trọn lành được.




6. Các Thánh

Hôm nay toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, vì thế chúng ta hiệp nhau nơi đây để ca tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi những người đi trước chúng ta, những người đã đi theo Đức Kitô, chính Ngài đã mở ra cho họ một con đường: “Con đường của sự sống, con đường của hạnh phúc”, và hôm nay các ngài đang chia sẻ vinh quang đó với chính Đức Giêsu trên Nước Trời. Cùng với các ngài, chúng ta hãy hân hoan vui mừng, bởi vì hôm nay là lễ của tất cả những người đang sống cũng như của tất cả các thánh đang hưởng mặt Chúa trên Nước Trời, Cùng với tất cả chúng ta đang đi trên con đường xây dựng tình yêu, xây dựng hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Cũng như mọi người, các thánh cũng là những con người yếu đuối, nhưng các ngài đã thắng vượt được khó khăn và thử thách trong cuộc sống, cho nên chúng ta cũng xin các ngài bầu cử cho chúng ta để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành tiến về thiên quốc và cũng như các ngài, chúng ta bắt đầu cuộc sống bằng tâm tình sám hối, xin Chúa thứ tha cho những lần chúng ta đã chối từ không muốn làm chứng nhân tình yêu của ngài trước mặt mọi người.

Trong đa số các nhà thờ bên Tây Phương, nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính, người ta thường thấy hình của các vị thánh được chạm trổ đủ mọi màu sắc. Có một em bé gái nọ, lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ kính. Trong khi các du khách bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật trong nhà thờ thì em bé lại dán chặt đôi mắt vào chân dung của các vị thánh được vẽ trên các kính màu. Em ngây ngất trước vẻ đẹp của những chân dung ấy mà không biết họ là ai. Và một du khách nào đó đã giải thích cho em biết: đó là các vị thánh.

Tối hôm đó, trước khi lên giường ngủ, em bé đã khoe với mẹ rằng: em đã biết ai là một vị thánh và em nói với mẹ như sau: “vị thánh là một người mà ánh sáng chiếu xuyên qua”. Có lẽ không có một định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị thánh. Các vị thánh là con người mà ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa đã chiếu xuyên qua các ngài. Chính định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên trời cao để chiêm ngắm các vị thánh được Giáo hội tôn phong hay không được ai biết đến, tất cả các vị thánh đều là những con người đã luôn luôn để cho ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa chiếu xuyên qua mình để soi sáng mọi người xung quanh.

Năm 1986, trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp, Đức Thánh Cha Gioan Phalô II đã nhắc đến những hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho nước này. Đó là sự hiện diện của rất nhiều vị thánh. Đức Thánh Cha nói như sau: “Khi các vị thánh đi qua thì Thiên Chúa cùng đi qua với các ngài”.

Cũng trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp của Đức Thánh Cha, Ngài có nói như sau: “Các thánh cũng là những con người yếu hèn như chúng ta, nhưng ánh sáng của Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả con người của các vị ấy”. Các Ngài đã cứu Giáo hội bằng chính sự yếu hèn của mình. Qua cuộc sống của các thánh, Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta một tín hiệu: “Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để nên thánh”. Các thánh là những ngọn hải đăng, các ngài chỉ cho chúng ta một một con người đường để chúng ta đi về với Chúa. Con đường ấy chính là con đường hạnh phúc, một nguồn hạnh phúc thâm sâu phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng người.

Trong Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, hai chữ “Có Phúc Hạnh Phúc” đã được Chúa Giêsu lập lại đến chín lần. Có lẽ Chúa Giêsu muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng: “Nếu các ngươi nghe lời Ta nếu các ngươi sống như Ta thì các ngươi sẽ được hạnh phúc thực sự”. Và có lẽ các vị thánh cũng sẽ mời gọi chúng ta như sau: “Nếu anh chị em sống như chúng tôi thì anh chị em cũng sẽ được hạnh phúc”.

Trên thế giới này có bao nhiêu lời hứa hẹn về hạnh phúc. Trên khắp cả nẻo đường mà chúng ta đi qua, các phương tiện truyền thông xã hội mà chúng ta nghe và mỗi ngày sống đâu đâu cũng nghe thấy những lời kêu gọi tìm hạnh phúc. Người ta mời gọi: hãy tiêu dùng sản phẩm của chúng tôi thì quí vị sẽ được hạnh phúc.

Quả thật, trái đất mà chúng ta đang sống đầy dẫy những lời quảng cáo cho hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể đề ra cho chúng ta hạnh phúc thực sự và con đường dẫn đến hạnh phúc ấy là con đường của tình yêu mà chính Ngài đã đi qua. Ngài nói với chúng ta rằng: “Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có tình yêu”, một tình yêu quên mình, chia sẻ và tha thứ cho đến cùng.

Con đường hạnh phúc mà Chúa Giêsu đề ra cho chúng ta là con đường của những tâm hồn trong sạch, cởi mở với tha nhân đến độ quên chính bản thân mình. Đó là con đường của những con người khi bị loại trừ và bách hại vẫn tiếp tục chúc tụng và yêu thương. Đó là con đường của những con người không ngừng hoạt động để mang lại hòa bình cho người khác, để mọi người biết nhìn nhận tình yêu thương nhau như anh em con Cha trên trời. Chính Chúa Giêsu đã qua con đường ấy, Ngài qua thực là mẫu người của hạnh phúc. Từ 2000 năm qua, đã có biết bao nhiêu người đi theo con đường ấy và ngày nay con đường ấy được tiếp tục mở ra cho mỗi người chúng ta.






7. Các Thánh nam nữ

Có một hiệp sĩ nọ bị kẻ thù hạ nhục nên nhất quyết truy lùng để báo oán. Anh đem theo mười người bạn với mũ giáp lên đường. Thấy mình không thể chống cự nổi, kẻ thù bèn xuống ngựa, nằm giang tay ra theo hình thập giá và nhắm mắt chờ đợi nhát gươm định mệnh. Trông thấy hình thập giá và kẻ thù của mình đang thở dốc như người hấp hối, người hiệp sĩ động lòng thương nên đã chặn các bạn lại, không cho họ tấn công. Anh nhẹ nhàng đến gần,mời hắn ta đứng dậy và tha thứ cho hắn. Sau Cử chỉ anh hùng ấy, người hiệp sĩ cảm thấy tâm hồn mình tràn đầu sự bình an và tươi vui, mà anh chưa từng được nếm thử trong đời. Anh ghé vào một ngôi nhà thờ, quì dưới chân thánh giá cầu nguyện. Lúc sau, anh như thấy Chúa Giêsu nhấc đầu khỏi thập giá cúi xuống chào mình, như vẻ tàn đồng cử chỉ tha thứ cùa anh. Anh thấy rằng mình giống Ngài được một chút bởi vì khi hấp hối trên thập giá, Ngài cũng đã cầu xin Thiên Chúa tha cho những kẻ giết mình.

Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, hay nói một cách khác, trở nên thánh đó phải là ơn gọi của mọi người kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi cho chúng ta trong ngày lễ hôm nay.

Thực vậy sự thánh thiện chính là nền tảng làm thành thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô là Giáo Hội, cộng đoàn các thánh. Sự thánh thiện như thế không phải là ơn gọi dành riêng cho một lớp người đặc biệt được các ơn thần bí này nọm mà là ơn gọi bình thường của tất cả mọi người tin vào Chúa. Nó là điểm tới tự nhiên của cuộc sống đức tin và tình mến nơi mỗi người chúng ta, nó là bổn phận của mọi người tin Chúa bởi vì tin có nghĩa là mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa và tin mừng yêu thương của Ngài, đồng thời dấn thân sống những đòi buộc của tin mừng ấy, để ngày càng trở nên giống Chúa hơn, là đấng thánh thiện trọn lành.

Bí quyết nên thánh đã được Chúa Giêsu cống hiên cho tất cả chúng ta qua các mối phúc thật mà Ngài đã rao giảng, đã sống và làm gương cho chúng ta. Ngài đã chỉ cho chúng ta tám ngả đường giúp chúng ta nên thánh, nghĩa là trở nên giống Chúa.

Điều quan trọng đó là chúng ta có can đảm thực thi tinh thần tám mối phúc thật, có dám bước đi trên những ngà đường Ngài đã chỉ vẽ hay không?




8. Các Thánh nam nữ

Sau 14 năm làm Giáo hoàng, ĐTC Gioan Phaolô đã tôn phong 553 vị thánh, trong đó có 117 vị thánh tử đạo Việt Nam, 103 vị thánh tử đạo Đại hàn, 25 vị tử đạo người Mehicô. Quả thực cho đến nay trong lịch sử Giáo Hội chưa có vị Giáo hoàng nào phong nhiều thánh như thế. Trước tình trạng này, có những nhà thần học cho rằng việc phong thánh trong Giáo Hội đang bị lạm phát và các người được tôn phong không còn được trọng kính như trước đây. Thế nhưng dưới ánh sáng của đoạn sách Khải huyền trong thánh lễ hôm nay, lập trường của những nhà thần học này xem ra có vẻ hẹp hòi.

Thực vậy, nên thánh phải là một ơn gọi, một bổn phận của tất cả và của từng người kitô hữu như lời Chúa đã nói: Các con hãy trở nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là đấng trọn lành. Mẹ Têrêsa Calcutta đã khai triển tu tưởng trên như sau: Sự thánh thiện không phải là một cái gì xa xỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ, nhưng bất kỳ người nào cũng có thể nên thánh bằng cách làm những công việc nhỏ bé và chia sẻ niềm vui yêu thương cho hằng triệu người đang cảm thấy bi bỏ rơi hất hủi và không được ai chăm sóc. Anh chị em có thể thay đổi cuộc đời họ bằng những công việc đơn sơ như trao ban một nụ cười. Vậy các thánh là người như thế nào?

Trong các nhà thờ cổ, khi nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính người ta thường thấy hình cácvị thánh với đủ mọi màu sắc. Một em bé nọ lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ như thế, trong khi các du khacùc bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật thì em bé lại dán mắt vào chân dung của các vị thánh được ghep bằng kính màu. Em ngạc nhiên nhưng lại không biết họ là ai? Và một du khách nào đó đã giải thích cho em biết đó là các vị thánh. Tối hôm đó em đã nói với mẹ rằng em biết ai là một vị thánh. Và em cho hay vị thánh là một người mà ánh sáng chiếu xuyên qua. Có lẽ không một định nghĩa nào xác đáng hơn về các vị thánh. Phải, các người là những con người mà ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa chiếu xuyên qua. Chính với định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên để chiêm ngưỡng các vị thánh được Giáo Hội tôn phong hay không được ai biết đến. Tất cả các vị thánh đều là những con người luôn để cho ánh sáng tình yêu Thiên Chúa chiếu xuyên qua mình, để soi tỏa cho mọi người chung quanh. Cũng trong chiều hướng ấy, DTC Gioan Phaolô đã nói: Các thánh cũng là những con người yếu hèn như chúng ta nhưng ánh sáng Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả những yếu hèn ấy của thân phận con người. Qua cuộc sống của các ngài, Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta một tín hiệu, đó là tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Các ngài là nhưng ngọn hải đăng, chỉ cho chúng ta thấy con đường đến với Chúa. Và con đường ấy chính là con đường hạnh phúc, một hạnh phúc chân thật phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng người.




9. Ơn gọi Kitô hữu

Trên một chuyến xe lửa, người ta chụm đầu vào nhau và bàn tán sôi nổi về một vụ phá thai vừa mới xảy ra ở trong vùng. Nhiều người đã bênh vực cho hành động ấy của người mẹ trẻ. Một vài người khác thì giữ thái độ yên lặng. Và chỉ có một cô gái đã thẳng thắn nói lên rằng:

- Không thể được, vì đó là một hành động sát nhân. Đứa nhỏù, dù mới chỉ là một thai nhi bé bỏng, cũng đã là một người có linh hồn và thể xác.

Chàng thanh niên, người tình của cô gái thì bĩu môi tỏ vẻ kinh bỉ trước lập trường dứt khoát của cô gái. Nhưng rồi ngày hôm sau, chàng thanh niên đã nhận được bức thư của cô gái, trong đó cô gái đã viết:

- Tôi không hy vọng rằng mình sẽ xây dựng được hạnh phúc với một kẻ không dám mở miệng bênh vực quan điểm của Giáo Hội.

Cô gái này quả thực là một người can đảm, dám lên tiếng bênh vực sự toàn vẹn của tôn giáo, dù có phải hy sinh cả một cuộc tình tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng thật đáng buồn vì có rất nhiều người trong chúng ta lại hành động một cách khác hẳn. Đối với họ, sống là để làm việc. Và làm việc là để kiếm tiền. Và kiến tiền là để nuôi sống gia đình, cũng như để có được những tiện nghi, những hưởng thụ tư riêng. Sau tất cả những công việc đó, nếu còn chút ít thời giờ, thì họ mới nghĩ đến tôn giáo và mới nhớ rằng mình cũng có một linh hồn bất tử và mình cũng là Kitô hữu. Có thể họ cũng sẳn sàng làm một vài việc đạo đức chiếu lệ nào đó, miễn là không mất quá nhiều thời giờ và không thiệt hại tới địa vị, danh vọng và lợi tức của họ. Còn nếu như đời sống tôn giáo đem lại những thiệt thòi và khó khăn, họ sẽ vội vã ban Chúa như Giuđa hay chối Chúa như Phêrô.

Nếu đọc lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy những tín hữu đầu tiên đã không sống và hành động như thế. Họ luôn hãnh diện tuyên xưng mình là Kitô hữ. Họ coi tước hiệu Kitô hữu là như một ơn gọi của Thiên Chúa xuất phát từ trời cao.

Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ họ:

- Anh em hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình.

Còn chúng ta thì sao? Thái độ của chúng ta rất có thể đã thật khác xa với thái độ của các tín hữu sơ khai. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội và có tên trong hồ sơ lưu trữ của giáo xứ. Đạo của chúng ta là đạo giấy tờ. Còn trong cuộc sống, chúng ta lại hành động trái với những gì chúng ta đã tin nhận, trái với lý tưởng cùa người Kitô hữu.

Phải chăng chúng ta chỉ là những Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực. Có tên mà không sống, không làm, không hành động? Phải chăng danh hiệu Kitô hữu chỉ còn là như một chiếc phù hiệu mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng muốn mang lấy, vì nó ảnh hưởng tới lý lịch, nghề nghiệp và địa vị của chúng ta. Chỉ cần nhìn vào một vài việc đạo đức là chúng ta có thể thẩm định được chúng ta nghĩ gì về ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. Chẳng hạn ngày Chúa nhật, chúng ta đi tham dự thánh lễ. Đi thì đã muộn, rồi lại còn tụm năm tụm ba đứng bên ngoài nhà thờ nói chuyện và hút thuốc. Chúng ta làm dấy thánh giá một cách nguệch ngọc, như vẽ bùa trên mình. Rồi khi thánh lễ chưa kết thúc, chúng ta đã vội vã ra về, đúng với tiêu chuẩn: đi muộn về sớm. Trong khi đó, chúng ta sẵn sàng thức khuya dạy sớm để coi một trận đấu bóng đá. Chúng ta lặn lội, bất kể đêm hôm mưa gió để đi coi một buổi trình diễn văn nghệ hay một vở tuồng cải lương…

Là Kitô hữu, chúng ta là những người đã được Chúa kêu gọi. Ơn gọi của chúng ta là nên thánh, là sống Phúc âm giữa lòng cuộc đời. Nếu chúng ta trung thành với ơn gọi, chắc chắn chúng ta sẽ được thừa hưởng vinh quang Nước trời mà Ngài đã hứa ban. Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài sẽ soi lối để chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương anh em, nhờ đó xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Là Kitô hữu, chúng ta trở nên như men trong bột, như ánh sáng trong bóng tối và như muối trong thức ăn. Hoạt động của chúng ta tuy âm thầm nhưng có sức hoán cải và đội mới cả xã hội này.

Rất nhiều lần tôi nghe những anh em ngoại giáo phát biểu như sau:

- Là người có đạo thế mà cũng vợ nọ con kia, thế mà cũng gian tham độc ác, thế mà cũng rượu chè cờ bạc…Tin đạo chứ không tin kẻ có đạo…

Nghe qua những lời phát biểu trên, hẳn chúng ta đã cảm thấy nhức nhối và cay dắng, bởi vì quả thực, chúng ta chưa sống xứng đáng với ơn gọi của mình. Chúng ta chưa thực sự trở nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên trời là Đấng trọn lành.

CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, hôm nay chúng con mừng kính các thánh nam nữ, là những bậc đàn anh đàn chị đã đi trước chúng con và đã chu toàn được ơn gọi Kitô hữu của mình. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, đồng thời ra sức thực thi giới luật yêu thương của Chúa để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa giữa lòng cuộc đời. Xin cho chúng con luôn ghi nhớ lời thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?





 10. Nên thánh

Có hai vợ chồng nhà kia, lấy nhau đã nhiều năm mà vẫn không sinh được một mụn con nào. Năm ấy, có một vị tư tế đến thăm, ông này đã được họ giúp đờ nhiều lần. Sau khi đã cho vị tư tế ăn uống no nê, họ đã xin với ông: khi ngài lên đền thờ, thì làm ơn cầu nguyện với thần minh cho chúng tôi có được một đứa con. Khi vụ tư tế lên đền thớ, ông đã cầu nguyện cho họ như sau: Tâu lạy các thần minh, vợ chồng họ thật tử tế với con, xin các ngài thương xót cho họ có được một mụn con đề vui cửa vui nhà. Một trong số các vị thần đã trả lời cách nghiêm nghị và dứt khoát: Theo như số phận đã ấn định thì họ sẽ không có con.

Năm năm sau, vị tư tế đó lại lên đường hành hương một lần nữa và cũng dừng lại ở gia đình ấy. Thấy có hai đứa bé đang nô đùa trước cổng, ông ngạc nhiên hỏi: Con ai vậy. Người cha đáp: Con chúng tôi đấy. Vị tư tế đang còn bỡ ngỡ thì người đàn ông giải thích: năm năm trước, khi ngài từ biệt chúng tôi thì một vị nổi tiếng thánh thiện đã đến làng này. Chúng tôi đón tiếp ông và hôm sau trước khi từ giã, ông đã chúc lành cho hai vợ chồng chúng tôi và những đứa bé này là kết quả của sự chúc lành đó. Nghe thế vị tư tế hối hả lên đền thờ và trách các thần minh: Tại sao các ngài bảo tôi là số họ không con, thế mà bây giờ họ đã có những hai đứa? Một vị thần nghe vậy đã mỉm cười và nói: Có lẽ một vị thánh nào đó đã làm thay đổi số mệnh người đời.

Thực vậy, nếp sống gương mẫu và thánh thiện của chúng ta có thể làm thay đổi được cuộc đời của những người chung quanh. Chúa Giêsu đã từng căn dặn những kẻ tin theo Ngài: Chúng con phải sống thế nào để mọi người nhìn vào chúng con mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời. Lời khuyên này hiện nay càng đúng hơn bao giờ hết, vì có một thời người ta hâm mộ những lời giảng thâm thúy hùng hồn của các nhà truyền giáo. Có một thời người ta cải tà qui chánh trước những điều kỳ lạ xảy ra trước mắt. Nhưng ngày nay người ta sẽ tin Chúa nhiều hơn nhờ đời sống thánh thiện của những người tin Chúa. Đời sống gương mẫu và thánh thiện của người kitô hữu có thể thay đổi được vận mệnh của người khác. Từ không biết Chúa đến nhận biết, tôn thờ và yêu mến Chúa để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu.

Đời sống đó còn có thể thay đổi được cả vận mệnh của thế giới. Từ lòng tị hiềm ghen ghét, chiến tranh và chém giết lẫn nhau đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc và nâng đỡ lẫn nhau. Đời sống gương mẫu và thánh thiện của chúng ta có ảnh hưởng sâu xa tới niềm tin của người khác và làm cho mầu nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô được “hiển linh: cho muôn dân trên toàn cõi địa cầu.




11. Nên thánh

Người ta kể lại rằng trong đời thánh Antôn tu rừng có một lần ngài xin tá túc trong ngôi nhà của anh thợ đóng giày theo lệnh Chúa. Hai vợ chồng dọn bữa ăn và chuẩn bị chỗ ngủ cho thánh nhân. Ngài ở đó ba ngày, hỏi thăm về đời sống và công ăn việc làm. Nhờ những câu chuyện trao đổi, họ đã trở thành bạn thân với nhau. Sau đó, thánh nhân từ giã họ mà trở về nhà. Lúc bấy giờ Chúa hỏi: con thấy người thợ giày ấy thế nào? Thánh nhân thưa lại: Ông ta là một người đơn sơ, vợ ông có thai và sắp sinh con. Họ có vẻ yêu nhau lắm. Ông ta có một cửa tiệm nhỏ để đóng và sửa giày. Ông ta làm việc hăng say, gia đình ông ta sống đạm bạc với số tiền kiếm được nhưng luôn biết chia sẻ giúp đỡ cho những người kém may mắn. Ông ta và vợ luôn tin tưởng mãnh liệt vào Chúa và cầu nguyện ít nhất mỗi ngày một lần. Họ có nhiều bạn thân và người thợ giày thì luôn miệng kể chuyện khôi hài cho mọi người cười. Chúa lắng nghe thánh nhân và cuối cùng Ngài phán: Antôn, con là một vị thánh sống, nhưng người thợ giày và bà vợ cũng là những vị thánh sống.

Cơ hội nên thánh luôn ở trong tầm tay của chúng ta, con đường theo Chúa nằm ngay dưới chân chúng ta. Chu toàn bổn phận của mình trong vui tươi, tin tưởng và phó thác nơi tình yêu thương của Chúa là mình đang bước vào con đường cứu rỗi. Đừng tìm đâu xa. Ơn thánh Chúa đang tràn ngập trong những biến cố lớn nhỏ của đời mình. Thánh nữ Têrêxa hài đồng khuyên: Mỗi khi cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa và phục vụ anh em, đó là chúng ta đang xây đắp kho tàng vĩnh cửu của mình trên trời.

Tin tưởng, kính mến Thiên Chúa và yêu thương, phục vụ, tha thứ cho anh em trong những liên hệ hằng ngày, đó là con đường nên thánh.

Nên thánh không phải là cố gắng làm những công việc phi thường, nhưng là khiêm tốn chu toàn bổn phận hằng ngày một cách tốt đẹp. Nên thánh chính là làm những công việc bình thường một cách phi thường. Người Do thái mong đợi một vị cứu tinh cao sang quyền phép, nên họ đã không nhận ra con người ngheo nàn tại Nagiarét là Đấng Cứu thế. Hêrôđê đòi xem những phép lạ, nên đã không nhìn thấy nơi người tử tội là vị Thiên Chúa tối cao.






12. Thánh thiện

Linh mục Anthony de Melo có kể câu chuyện như sau: Có một linh sư Ấn giáo nọ nổi tiếng là bậc thánh thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện và qui tụ được nhiều đệ tử.

Ngày kia, có một người tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con người khao khát chân lý từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói với anh:

- Trước khi nhận ngươi làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sự vâng lời. Đằng trước trung tâm có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn ngươi phải lội qua dòng sông ấy.

Không một chút do dự, người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống dòng sông. Vừa lội qua dòng sông anh vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của thầy tôi’’.

Nhờ có sự hỗ trợ của nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên đã bơi qua dòng sông và trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh sư thấy mình là người thánh thiện. Lập tức, ông cho tập trung các đệ tử trong nhà lại và trịnh trọng bước xuống dòng sông, vừa công khai bơi lội vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng của ta, tung hô quyền năng của ta’’. Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.

Thánh thiện chính là quên mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự thánh thiện của mình. Thiên Chúa ban cho ta sự thánh thiện là để cho người khác hưởng dùng. Bao lâu sự thánh thiện đem lại lợi ích cho kẻ khác thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút một người thánh thiện giữ riêng ân huệ cho mình, thì người đó đánh mất sự thánh thiện, đồng thời đánh mất chính bản thân.

Thật ra, thánh thiện không là một đặc ân cho một số người ngoại hạng. Đó là ơn ngọi của mỗi người kitô. Người kitô không thể không là người thánh thiện, vì chính thánh thiện là tên gọi của Chúa Kitô:’’ Ngài là Đấng thánh’’.

‘’Ngài là Đấng thánh’’, bởi vì hơn ai hết Ngài là Đấng quên mình. Thánh Phaolô đã nói đến sự thánh thiện của Chúa Kitô bằng công thức:’’Ngài để tự hạ vâng phục cho đến chết và chết trân thập giá’’.Đó cũng là lý tưởng bắt buộc của mọi người tín hữu kitô. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ:’’Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình vì Ta người đó sẽ tìm lại được’’. Quên mình, sống trọn vẹn cho người khác, đó chính là định nghĩa đích thực của sự thánh thiện.




13. Suy niệm của Lm Nguyễn Tiến Huân

CÁC NGÀI LÀ AI VÀ TỪ ĐÂU TỚI?

Trong thị kiến về “những kẻ đã được niêm ấn” (tức là những kẻ thuộc về Thiên Chúa và ở trong sự bảo vệ của Người) được tuyển chọn tới trước ngai Con chiên, Thánh Gioan thấy số người đó thật đông đảo: “144 ngàn thuộc mọi chi tộc Israel” và một đoàn người khác đông đảo không thể đếm được thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng.” Tất cả những người đó đều “mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế” chiến thắng (Kh 7,2-9). Đoàn người đông đảo không thể đếm được đó là chính các Thánh Nam Nữ mà chúng ta mừng kính trong ngày lễ đặc biệt hôm nay: Lễ Các Thánh.

Các ngài là những người khi còn sống đã biết thực hiện tinh thần của Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã dạy trong bài giảng trên núi hôm nay. Đó là Tám Mối Phúc Thật hay cũng còn gọi là Hiến chương Nước Trời (Mt 5,1-12).

Có những vị đã thực hiện đức khó nghèo, khiêm nhường, nhỏ hèn (Mt 11,25; 18,2-4) vui nhận số phận rốt hết (Mt 19,30). Tinh thần khó nghèo đó đã dẫn các ngài tới một đời sống nghèo khó vật chất thực sự (Mt 6,19). Vì thế các ngài được Chúa chúc phúc và trọng thưởng: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước trời là của họ” (Mt 5,3).

Nhiều đấng khác đã sống đời hiền lành theo gương Chúa Giêsu (Mt 11,29) thì được Người khen tặng: “Phúc cho những ai hiền lành vì họ sẽ được đất nước làm cơ nghiệp” (c. 4). Và cứ thế, những vị đã sống đời ưu phiền, những kẻ đã “gieo trong nước mắt” (Tv 126,5) thì nay được an ủi. Những kẻ đã đói khát sự công chính thì nay được no đầy. Kẻ đã biết yêu thương người thì nay được Chúa thương yêu. Những người đã sống đời trong sạch thì nay được nhìn thấy Thiên Chúa. Những Thánh đã dùng tất cả đời mình để tác tạo hòa bình thì nay được gọi là con Thiên Chúa. Và những đấng khi còn sống đã bị bắt bớ, bị bách hại vì Chúa như các Thánh Tử Đạo Việt Nam thì nay được khen tặng phần thưởng Nước Trời.

Các ngài đã sống khác nhau, nêu những gương mẫu khác nhau như trăm hoa đua nở và “mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười” (Kiều). Nhưng tất cả đều có một điểm chung giống nhau là họ đã theo Chúa Giêsu mà chọn con đường Thánh giá đau khổ để tới vinh quang và họ đã ra sức giữ gìn “chiếc áo trắng ngày Rửa tội” tinh tuyền bằng Thánh sủng của ơn Cứu Độ: “Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt và tẩy áo trắng trong máu Con chiên” (Kh 7,14).

Mừng lễ các Thánh, trước hết chúng ta ca tụng và cảm tạ Chúa vì những đặc ân và phần thưởng Chúa đã ban cho các Thánh. Sau nữa, chúng ta cầu xin Các Thánh bầu cử cùng Chúa cho chúng ta nhiều ơn lành để sống noi gương các Ngài và hẹn sẽ gia nhập một trong tám đoàn người được Chúa chúc phúc hôm nay.

Lạy Chúa, tuần này con quyết noi gương các Thánh thực hiện một trong tám Mối phúc thật mà Chúa đã công bố trong bản Hiến chương Nước Trời hôm nay.




14. Nên thánh

Ngày kia, thánh Antôn tu rừng đã đến gặp bác thợ giày, vì nghe đồn bác là một người đạo đức lạ thường. Được hỏi về bí quyết nên thánh, bác thợ giày liền đáp:

- Tôi chỉ biết đóng giày mà thôi.

Ngạc nhiên, thánh nhân bèn hỏi lại:

- Nếu chỉ có thế, làm sao mà thánh thiện cho được. Như tôi đây, tôi thường nghĩ đến Chúa trong từng giây phút. Bác có bí quyết nào khác nữa không?

Bác thợ giày liền giải thích:

- Tôi làm việc tám giờ, cầu nguyện tám giờ và nghỉ ngơi tám giờ.

Thánh nhân vẫn chưa cho đó là một cuộc sống lý tưởng vì ngài cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh nhân hỏi tiếp:

- Còn về đức khó nghèo thì sao?

Bác thợ giày trả lời:

- Tài sản và lợi tức của tôi, một phần ba thì dâng cho Giáo Hội, một phần ba thì bố thí cho người nghèo, còn một phần ba thì giữ lại cho tôi.

Thánh nhân cũng chưa cho đó là một bí quyết trọn hảo, bởi vì chính ngài đã phân phát tất cả những gì mình có cho Giáo Hội và cho người nghèo. Vặn hỏi mãi, cuối cùng bác thợ giày mới chịu bật mí:

- Mặc dù tôi bố thí một phần ba cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không thể ngủ yên khi nhìn thấy cảnh nghèo túng chung quanh tôi, đến nỗi tôi đã phải thân thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, thà rằng Chúa để cho con phải xuống hỏa ngục, còn hơn là nhìn thấy những kẻ khốn khổ này phải sống triền miên trong cảnh nghèo đói.

Nghe nói thế, thánh nhân liền bỏ ra về vì ngài chợt hiểu rằng: Ngài chưa đủ thánh thiện như bác thợ giày, đến độ dám hy sinh tất cả vì người nghèo.

Từ câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy có nhiều cách để nên thánh, dường như không có một mẫu mực thánh thện nào chung cho tất cả mọi người. Có người nên thánh ngay trong bậc gia đình của mình giữa trần gian. Có người chịu chết vì đạo. Có người sống trong bậc tu trì. Mỗi vị thánh là một cách sống. Tuy nhiên, giữa những khác biết đó, vẫn có một mãu số chung cho mọi cuộc sống thánh thiện, đó là tình yêu.

Thực vậy, Thánh Phaolô đã diễn tả: Dù tô nói được mọi thứ tiếng, dù tôi làm được những việc lạ lùng, mà nếu không có đức ái, không có tình yêu, thì tôi cũng chỉ là như não bạt khua vang.

Không có đức ái, không có tình yêu, thì tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được xây trên một nền móng hão huyền mà thôi. Chúa Giêsu cũng đã nói:

- Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành.

Thiên Chúa là Tình yêu. Ngài đã yêu thương mọi người, không loại trừ một ai. Cũng vì tình yêu, mà Ngài đã xuống thế làm người như chúng ta và đó cũng chính là điểm tận cùng của tình yêu. Bác thợ giày trong câu chuyện vừa nghe không những đã dành mọi của cải cho người nghèo, mà hơn thế nữa bác còn nghĩ đến người nghèo như là lẽ sống của bác. Và đó chính là bí quyết cao vời nhất để nên thánh.

Bố thí tất cả của cải, xa lánh mọi thú vui, đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Tất cả đều tốt, nhưng nếu sống như thế để tìm cho mình sự thanh thản trong tâm hồn vì sợ bị người khàc quấy rầy, thì vẫn chưa phải là lý tưởng cao đẹp nhất.

Hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành. Đó phải là lý tưởng của chúng ta. Cha trên trời đã yêu thương mọi người đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài. Thiên Chúa là Cha, bởi vì Ngài luôn sống cho con cái của Ngài. Và bây giờ đến lượt chúng ta, để trở nên giống Ngài, chúng ta cũng phải sống cho người khác, bằng những hành động bác ái và yêu thương, nâng đỡ và phục vụ mọi người. Đó chính là bí quyết giúp chúng ta trở nên tốt lành và thánh thiện.




15. Niềm hy vọng hạnh phúc – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 5, 1-12a

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng. Khác hẳn với những gì người đời thường nói. Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.

Trước hết là niềm hy vọng hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước được hạnh phúc. Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người. Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi. Vì cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc sống đời sau không bao giờ tàn úa.

Tiếp đến là niềm hy vọng Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này, nhưng ở trên Nước Trời. Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ nhân Nước Trời. Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót, được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa. Đó là hạnh phúc tuyệt đối không gì có thể so sánh được.

Sau cùng là niềm hy vọng được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa đời ta, là hạnh phúc của ta. Được Chúa là được tất cả. Chúa là sản nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có. Chúa là niềm an ủi khiến ta không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.

Tuy nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh phúc.

Các thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện. Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như tuyết. Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh luyện trong cuộc sống trên trần gian. Các ngài được chính Chúa vì các ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.

Vì thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè chúng ta.

Lễ các thánh là lễ của niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của chúng ta.

Nhưng lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là con đường Tám Mối Phúc. Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị. Phấn đấu sống khiêm nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình. Khi phấn đấu sống như thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.

Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con. 

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1) Tám mối phúc của Chúa đem đến cho ta những niềm hy vọng nào?

2) Lễ các thánh gợi cho ta những tâm tình nào?

3) Làm thánh là giúp xây dựng xã hội. Bạn nghĩ gì về ý kiến này?




16. Lễ các Thánh nam nữ – Lm. Nhân Tài.

“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”

Hôm nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng, qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh thông công của Giáo Hội, và khi suy niệm đến mầu nhiệm thông công này, chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh hơn.

Các thánh là những con người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua cuộc sống làm người với những khổ đau, không đi qua đau khổ thì không thể trở thành một thánh nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế: bị đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá và cuối cùng chết trên thập giá.

Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian các ngài cũng có tham sân si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng ta đã phạm hôm nay, nhưng các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết quyết tâm đứng lên cố gắng làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ để rồi hôm nay các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của Thiên Chúa trên thiên đàng.

Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có vị đã từng làm quan lớn quan nhỏ, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo, làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó tế, có các vị là nam nữ tu sĩ. v.v… nghĩa là các ngài đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh, phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận của mình.

Các thánh nam nữ là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết thực hiện “Hiến Chương Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần gian này:

1) Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.

2) Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.

3) Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi còn ở đời này.

4) Các ngài mong muốn được trở nên người công chính, và sống công chính giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng

5) Các ngài biết thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.

6) Các ngài sống trong danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của nó, nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy Thiên Chúa.

7) Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là con Thiên Chúa.

8) Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống và tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban Nước Trời cho họ, nên các ngài đã được Nước Trời làm của mình sau khi từ giã cõi đời tạm này.

Các thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên những thánh nhân, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài, bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của chúng ta –người Kitô hữu.

Xin Mẹ Maria và các thánh nam nữ trên thiên đàng, cầu bàu cho chúng ta là những người đang trên đường đi về quê trời biết noi gương của các ngài, biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống trong tội, và biết phục vụ và tha thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

17. Ơn gọi nên Thánh

 Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành Thánh lễ mừng kính Các Thánh Nam Nữ.

Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là "một đoàn người đông đúc, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ". Họ đang chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu Kitô Đấng Cứu độ chúng ta.
1. Các Thánh Nam Nữ là ai?
Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc), những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, được thấy Thiên Chúa đẹp đẽ.
Các Thánh Nam Nữ đông vô kể "Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên... Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn" (Kh 7,2-4). Con số "một trăm bốn mươn bốn ngàn" chỉ là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa, dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể hiểu theo nghĩa số học, số lượng. "Một trăm bốn mươn bốn ngàn" trong Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy ( 12 x 12 = 144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy.Và điều tuyệt diệu là trong thị kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12 ngàn thuộc chi tộc Giuđa,12 ngàn thuộc chi tộc Ruben,12 ngàn thuộc chi tộc Gad...không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan viết tiếp: "tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế" (Kh 7,4).
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản "Ta bảo thật các ngươi,nhiều kẻ tự phương đông,phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng Abraham,Isaac và Giacop trong nước trời". Chính vì thế, ngoài những vị thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi dân tộc.
2. Con đường nên thánh
Thánh Gioan viết: "Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài, Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao" (Kh7,13).Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa : "Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên" (Kh 7,14). Quả thực, việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng lớn lao của các Ngài : "Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên Chúa... Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh" (Kh 7,15-17).
Các Thánh "đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên". Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện,tinh tuyền,không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại.Các Thánh càng không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người bình thường như mọi người,nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống Tám Mối Phúc Thật,là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với ân sủng đó,vâng theo ý Chúa,chọn điều thiện,luyện tập nhân đức.
Có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực. Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian, chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho Thiên Chúa làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh thần hay thể xác. Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công chính đẹp lòng Chúa. Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ. Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người. Có người nên thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người.(ĐGM Bùi Văn Đọc).
Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì, có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm, lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn sa mạc cô liêu... Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi "qua đau khổ đến vinh quang".
"Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng".
Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
Con đường nên thánh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật.
Sống các Mối Phúc Thật, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng và trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Năm Phụng vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Dân Chúa tham dự thánh lễ để tôn kính tất cả, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội tuyên phong.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các Thánh Nam Nữ.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
TMSS sưu tầm
Xem thêm…

Copyright ©THT - Được biên soạn và sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau - Ghi rõ nguồn:quatangsusong.blogspot.com/ - Khi phát hành thông tin trên trang này
Gx Đaminh | Namkna | Trung Tâm Học Vấn Đaminh | Kho tài liệu hay |