Tính Luân Lý Của Việc Tạo Sinh (tiếp theo…)
Chương II (Tiếp Theo) II. Truyền Thống Giáo Hội
Trong
Truyền Thống Giáo Hội, các Giáo Phụ đề cập nhiều về vấn đề phá thai.
Còn vấn đề tạo sinh nhân tạo, như đã có lần nói trên đây, là một vấn đề
rất là mới mẽ. Nó chỉ mới nảy sinh ra trong những thập niên gần đây,
cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như nghành sinh – y
học. Do đó, trong Truyền thống Giáo Hội, các Giáo Phụ chưa phải đối diện
với vấn đề này. Tuy nhiên, chúng ta cũng tìm thấy một vài lời dạy chỉ
dẫn quan trọng liên quan đến vấn đề. Từ những buổi đầu, Truyền Thống
sống động của Giáo Hội đã nhắc lại một cách dứt khoát giới răn “ngươi
không được giết người”, như quyển Didachè, tác phẩm Ki-tô giáo ngoài bộ
Kinh Thánh cổ xưa nhất, đã chứng tỏ điều ấy rằng: “Có hai con đường, một
con đường của sự sống, một con đường của sự chết, nhưng sự khác nhau
giữa hai con đường này rất lớn […}. Giới răn thứ hai của đạo lý: Ngươi
chớ giết người […}, ngươi chớ giết con bởi phá thai và ngươi sẽ không
được làm cho nó chết sau khi nó sinh ra […}. Còn đây là con đường của sự
chết: nhẫn tâm đối với người nghèo, dửng dưng đối với người đau khổ,
không biết đến Ðấng Tạo Hóa của mình, những điều đó làm thất bại công
trình của Thiên Chúa… đó là những kẻ tội lỗi thâm canh cố đế. Ước gì các
con có thể tránh xa tất cả những điều ấy”. Cũng từ thế kỷ thứ nhất,
Giáo Hội đã khẳng định sự xấu xa về luân lý đối với bất cứ hình thức hủy
diệt sự sống nào: “Ngươi không được giết phôi thai bằng việc làm sẩy
thai và ngươi không được hủy hoại kẻ sơ sinh”. Giáo Phụ Tertuliano (thế
kỷ II) đã khẳng định: “Chỉ cần cản trở sinh ra thì đã là kẻ giết người
rồi, người ta tước đoạt sự sống đã sinh ra hay là người ta hủy diệt nó
trong lúc nó sinh ra thì không có gì khác biệt nhau cả. Cái phải trở
thành một con người thì đó là một con người rồi”. Năm 195, Clément thành
Alexandria đã nói: “Do thiết chế, Thiên Chúa đã làm ra liên quan đến
việc sinh sản của nhân loại, tinh trùng không được xuất ra một cách vô
hiệu năng, cũng không được làm cho nó hư đi, cũng không được lãng phí”
Năm 419, trong khoảng thời gian chưa thoát hẳn ảnh hưởng của thuyết nhị
nguyên, thánh Augustinô đã tuyên bố: “Sẽ là một niềm vui lớn lao nếu vợ
chồng có thể có con cái mà không cần sống chung”. Chắc chắn là ngài
không thể thấy trước được rằng khoa học kỹ thuật về sau có thể “sao
chép” một con người mà không hoạt động giới tính. Nhưng, theo ngài, con
người không được tự do xâm phạm sự sống. Ngài nói: “Tự do đầu tiên là
không phạm tội ác… như giết người… và mọi hình thức thuộc loại đó”. Sách
Ngụy Thư của Barnabas nói rằng: “Bào thai được coi như người đồng loại.
Bởi thế, bất cứ sự tấn công trực tiếp nào đối với sự sống của nó, thì
đó là tấn công Thiên Chúa, Ðấng đã tạo dựng và yêu thương nó. Ngươi phải
yêu thương đồng loại như chính bản thân ngươi. Ngươi sẽ không được giết
đứa trẻ…”. Thánh Tomas Aquinô (1225 – 1274) đã viết trong “Tổng Luận
Thần Học Chống Kẻ Ngoại”, rằng: “Thiên Chúa chăm sóc mọi sự để mang đến
sự tốt lành. Vậy, mọi sự tốt lành hệ tại ở việc đạt được mục đích riêng
của nó. Sự dữ lấy đi khỏi mục đích chính đáng ấy. Ðiều này tốt cho cả
hai toàn phần hay từng phần, để rồi mỗi phần của con người và mọi hành
vi của nó phải đạt tới mục đích chính đáng. Vậy, tinh trùng của người
nam, dù nó rất phong phú nơi mỗi cá nhân, thì nó cũng rất cần thiết để
duy trì nòi giống… Vì thế, sự gieo tinh trùng phải mang theo hậu quả
mang thai và sinh con. Thật rõ ràng rằng sự gieo tinh trùng trong cách
thế ấy nếu không có ý mang đến hậu quả là nghịch với sự thiện ích con
người. Và nếu có ý làm như vậy thì mắc tội. Ðây có ý nói tới cách thức
mà không thể có sự truyền sinh như sự gieo tinh trùng không theo cách
thức vợ chồng ăn ở tự nhiên. Trái lại, ăn ở bình thường mà không có sự
truyền sinh do khuyết tật thì không nghịch với tự nhiên và cũng không
mắc tội. Thí dụ người vợ son sẻ…”. Thánh Francis de Sales (1567 – 1622)
đã viết: “Những quan hệ vợ chồng thì rất thánh thiện đến nỗi rất khuyên
làm để mưu ích chung. Tuy nhiên, nếu xâm phạm đến trật tự đã lập để sinh
con thì mắc tội rất nặng. Trong trường hợp đó, tội luôn luôn là nặng và
đáng ghét tùy theo mức độ lệch ra khỏi trật tự này…”. III. Quan Ðiểm
của các Thần Học Gia và Học Giả 1. Ðối với vấn đề thụ tinh nhân tạo a)
Ðối với việc thụ tinh cùng nguồn (AIH) Theo thần học gia B. Haring,
“trong tình trạng vấn đề hiện nay, xem ra một cặp vợ chồng ước muốn có
con và thực sự thấy rằng phương pháp thụ tinh có trong giúp không được
như ý, sẽ không làm điều gi sai khi nhờ đến AIH”. Theo linh mục Th.
Rey-Mermet, DCCT, thì: “Sự thụ tinh nhân tạo được gọi là đồng nhất khi
tinh trùng được lấy từ người chồng, khi ấy đứa bé hoàn toàn là con của
đôi vợ chồng. Em có dồi dào “gien” như những đứa bé khác, nghĩa là có
những đặc tính di truyền của hai cha mẹ em. Ngày nay, các luân lý gia
đồng ý bào chữa việc thụ tinh nhân tạo đồng nhất, trong trường hợp cần
thiết, nghĩa là bằng tinh trùng của người chồng để tránh cho đôi vợ
chồng yêu thương nhau không đau khổ vì không có con. Sự can thiệp y học
này hẳn không phải là một sự giao hợp âu yếm giữa vợ chồng, tuy thế, nó
vẫn là hoàn toàn tình yêu cho tất cả mọi người trong cuộc, kể cả đứa con
sắp sinh ra? Vậy thì nó phù hợp cách tuyệt vời với bản tính nhân loại
và do đó cũng phù hợp với luật tự nhiên”. Trong chiều hướng đó, theo
Karl H. Peschke, các phương pháp giúp cho việc thụ tinh được dễ dàng hơn
đó là dùng một cái muỗng để đưa tinh trùng vào cửa mình, hoặc dùng một
ống tiêm trong đó có đưa tinh dịch của người chồng, sau một lần giao hợp
bình thương giữa hai người, để đưa vào âm đạo của người vợ, thì được
phép sử dụng các phương pháp này. Vấn đề đặt ra là cách thức lấy tinh
dịch từ người chồng để cho thụ tinh nơi người vợ qua việc thủ dâm, giao
hợp nửa chừng hay giao hợp với bao cao su. Các phương pháp này đã bị
Huấn Quyền Giáo Hội (Ðức Pi-ô XII) lên án, vì chúng cung cấp tinh dịch
từ những hành vi ngược tự nhiên. Tuy nhiên, về mặt thực tiễn, thủ dâm là
phương cách dễ dàng và an toàn nhất để cung cấp tinh dịch cần thiết. Do
đó, theo Linh Mục Mark, CMC, “thủ dâm để lấy tinh dịch coi như thiếu
trật tự liên kết hành vi vợ chồng trong hôn nhân. Tuy nhiên, nó hợp pháp
khi không chủ ý tách rời, nhưng vì chủ ý giúp việc thụ thai đạt được
tiến trình tự nhiên”. Theo cha Rey-Mermet, thì: “Việc thủ dâm cần thiết
trong trường hơp này thì không phải là một “tật xấu làm một mình”: nó là
quan hệ yêu đương với người vợ, là quan hệ dâng hiến và sáng tạo sự
sống; nó dẫn vào một “toàn thể” là trật tự giới tính bình thường của con
người. Ngày nay, các nhà thần học có vẻ không lên án việc thủ dâm này. Ý
muốn có tính liên hệ và sáng tạo chắc chắn hiện diện trong việc làm này
hơn là trong nhiều cuộc giao hợp thân xác “bình thường”. Và ai là người
được mong mỏi hơn là đứa trẻ sắp sinh ra?”. Bởi vậy, Karl H. Peschke
nói rằng: “Chức năng sinh sản của hành vi tính dục ở đây không hề bị phá
hỏng, mà còn được hỗ trợ là khác. Mục đích trực tiếp của việc thụ tinh
này là thụ thai. Bao lâu vợ chồng còn muốn có con vì tình yêu giữa hai
người, thì hành vi tính dục ấy vẫn còn đầy đủ ý nghĩa, nó là sự biểu
hiện của tình yêu ấy. Hiểu như thế, hẳn vợ chồng sẽ đánh giá tốt việc
thụ tinh này. Hai mục tiêu của tính dục đã được bảo đảm trong việc thụ
tinh cùng nguồn. Mới nhìn qua, cung cấp tinh dịch như thế không khác lắm
với việc thủ dâm hay làm như Onan. Thế nhưng, nó hoàn toàn khác hẳn.
Ðây chính là lý do giải thích tại sao có sự hiểu lầm khi đánh giá việc
thụ tinh này”. Và cuối cùng, cha B. Haring, DCCT, đã khẳng định: “Không
có lập luận mạnh mẽ nào chứng tỏ sự xuất tinh của người chồng để có con
hay việc đưa tinh trùng vào tử cung của người vợ là vô luân”. Ðó cũng là
ý kiến của các nhà thần học như: Rodrer Van Allen, F. Podimattam,
George V. Lobo, A. Regan… b) Ðối với việc thụ tinh khác nguồn (AID) Vấn
đề thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của một người hiến vô danh, dù ngoài
hôn nhân hay trong hôn nhân, đều bị coi là vô luân. Các nhà thần học
luân lý Công Giáo đều nhất trí với kết luận này. Cha B. Haring nói rằng:
“Việc mua tinh trùng ở một ngân hàng tinh trùng để cho thụ tinh nhân
tạo là một việc trái luân lý, không những vì đứa bé có cha vô danh và
nguy cơ đồng huyết, nhưng cũng bởi vì nó tách biệt hẳn mục đích hoà hợp
và sinh sản của hôn nhân. AID còn có thể gây nhiều xáo trộn cho các mối
tương quan trong gia đình, đặc biệt về phía người mẹ”. Kark H. Peschke
cũng khẳng định rõ về việc thụ tinh khác nguồn thì bất hợp pháp. Theo
ông, đứa con được thụ thai trong trường hợp đó là con bất hợp pháp và
nếu sinh ra do một người đã kết hôn, thì đó là con ngoại tình. Tất cả
những lý do nào đã được đưa ra để chống lại việc sinh con bất hợp pháp
và ngoại tình đều có thể áp dụng ở đây, chống lại việc thụ tinh khác
nguồn. Chỉ có hôn nhân mới bảo vệ được phẩm giá người phụ nữ, mà theo sự
thường phải trở thành một người mẹ. Cũng vậy, chỉ có hôn nhân mới tạo
điều kiện đủ để cho con cái được an sinh và giáo dục. Ðối với người cha
hợp pháp, người con ấy chỉ là con ghẻ, đôi khi còn tệ hơn nữa. Ðứa con
ấy sẽ là lời nhắc nhở thường xuyên về sự bất lực của người cha ấy, một
lời nhắc nhở làm ông cảm thấy nhục nhã. Còn đối với người mẹ, đứa con ấy
sẽ không đem lại niềm vui. Bà cảm thấy người cha của đứa con ấy là một
người hoàn toàn xa lạ đồi với mình. Ðứa con sinh ra do người khác cho
hầu chắc sẽ trở thành nguồn nhục mạ, ghen tuông và lo lắng. Theo thần
học gia Gregory C. Higgins, đối với phương pháp AID, nhiều nhà thần học
luân lý e ngại rằng trong trường hợp của một cặp vợ chồng, việc đưa tinh
dịch của đệ tam nhân vào hoạt động thụ thai của vợ chồng thì đã phạm
đến luật hôn nhân. Trong trường hợp của người phụ nữ độc thân, các nhà
phê bình cáo buộc rằng thật là bất công khi đứa trẻ được sinh ra mà nó
không có quyền biết ai là cha của nó. Về mặt thực tế, đứa trẻ mang nhiều
mối bất lợi khi không có những thông tin liên quan đến những nguồn
bệnh-sử, điều này có thể rất quan trọng trong cuộc đời sau này của
chúng. Các nhà luân lý cũng rất lo lắnng về những hoạt động của việc
hiến tinh: Việc hiến tinh hoặc việc bán tinh trùng thường sinh ra một
đứa trẻ mà người ta sẽ không bao giờ biết đứa con đó có hợp với đạo đức
hay không? Một nhận định cuối cùng có thể tác động đến nhiều người ra
như thể hoàn toàn khó tin, ngoại trừ trường hợp đã xảy ra rồi. Một người
hiến tinh có thể thực sự là người cha của rất nhiều đứa con cùng huyết
thống với ông. Trong một trường hợp nổi tiếng, một bác sĩ chuyên thụ
tinh nhân tạo đã dùng chính tinh trùng của ông để cấy vào bệnh nhân của
ông. Ðiều này có thể sinh ra nhiều trường hợp anh chị em cùng cha khác
mẹ hoặc cùng mẹ khác cha sau này cưới nhau mà không biết. Cha Th.
Rey-Mermet, DCCT, cũng nói về việc thụ tinh khác nguồn rằng: “Ðứng về
mặt di truyền thì kết quả của thao tác này sẽ là một đứa con ngoại hôn,
nó là con của người vợ chứ không phải là của người chồng… Vấn đề căn bản
là bình diện luân lý, làm sao có thể chấp nhận sự nắn lại những quan
niệm – và những thực tại- về giới tính, về hôn nhân, về quan hệ cha, mẹ,
con cái, về quan hệ bà con, về gia đình? Bán và mua tinh trùng nhân
loại như bán và mua hạt giống rau cải hay bông hoa… như thế là quên rằng
con người là một nhân vị, là quên rằng không xã hội nào có thể để hôn
nhân và việc sinh sản theo tuỳ tiện của những tư nhân. Ðối với người tín
hữu, những điều này là công việc trực tiếp của Thiên Chúa: Con người
không có quyền hành gì để thay đổi nó. Còn cái gọi là quyền của những bà
goá, của những người độc thân và những người không sinh sản được, thì
quyền ấy đã bị huỷ bỏ bởi quyền đầu tiên của đứa trẻ là được sinh ra
trong một gia đinh thật sự của một cặp vợ chồng”. Thật vậy, bằng cách
thụ tinh nhân tạo này, chấm dứt ý nghĩa hôn nhân trong đó hai người trở
nên một xương một thịt. Hai người không còn định liệu số con theo ý
muốn. Phương tiện kỹ thuật tấn công thẳng vào trật tự do Thiên Chúa tác
thành cho hôn nhân và vào chính phẩm chất của con người trong tình yêu
hôn nhân. 2. Ðối với việc thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) Về phương pháp
IVF, không phải tất cả các bệnh viện đều thực hiện phương pháp IVF để
làm đông lạnh các phôi thai; một số bệnh viện chỉ thực hiện việc thụ
thai ở một số trứng, đồng thời đưa tất cả các trứng được thụ tinh vào cơ
thể người phụ nữ, nhiều người lo ngại về tiến trình này có thể nảy sinh
ra lắm vấn đề. Trước tiên, quá trình làm tan lạnh có thể gây ra nhiều
hiểm hoạ: có từ 30% đến 40% trứng không thể sống sót nổi. Liệu điều kiện
bất thường như thế có làm cho việc đông lạnh những trứng đã thụ tinh
rồi trở thành hành vi vô luân hay không? Thứ đến, giả sử hai trong ba
trứng đậu thai và người đàn bà sinh ra được hai đứa con mạnh khoẻ, sau
đó vợ chồng họ không muốn sinh con nữa. Vậy, điều gì sẽ xảy đến cho hai
trứng đông lạnh đã được thụ tinh rồi? Nó có thể được dùng để nghiên cứu
hay không? Nó có thể bị phá huỷ hay không? Ðiều này đặt ra nhiều vấn đề
về tình trạng của những phôi thai đông lạnh mà người ta thấy có một mối
liên hệ trực tiếp giữa những cuộc tranh luận về các kỹ thuật truyền sinh
với vấn đề phá thai. Theo cha B. Haring, DCCT. ý nghĩa của việc thụ
tinh trong ống nghiệm có thể rất khác biệt nếu trong một trường hợp được
thực hiện vì mục tiêu nghiên cứu với ý định sẽ loại bỏ phôi thai và một
giai đoạn nhất định của cuộc thí nghiệm, và trong trường hợp khác, được
thực hiện để trợ giúp các đôi vợ chồng muốn có con và với ý đinh cấy
trứng thụ tinh vào dạ mẹ ở giai đoạn sớm nhất có thể. Các nhà khoa học
biện minh cho các cuộc thí nghiệm như vật với lý do sẽ giúp khoa phôi
thai học tiến bộ và qua đó phục vụ sự sống con người. Tuy nhiên, những
hy vọng về những lợi ích y khoa về sau không bù đắp được những xâm phạm
kinh khủng đối với mạng sống con người. Thụ tinh trong ống nghiệm với ý
định cấy trứng đã thụ tinh vào tử cung người mẹ có thể được xét theo một
nguyên tắc như đối với thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của người
chồng. Tuy nhiên, khả năng sống còn và phát triển bình thường của trứng
được thụ tinh cho đến nay vẫn còn rất mong manh và tỷ lệ thành công rất
thấp. Vì thế, rất khó tán đồng. Theo cha Th. Rey-Mermet, DCCT. sự mong
muốn có con là sự ước muốn rất chính đáng của kẻ làm cha mẹ. Tuy tỷ lệ
thất bại còn rất cao, những thao tác trên trứng con người cũng có lý do
chính đáng để thực hiện trong mức độ nó được dùng để phục vụ sự sống và
tình yêu giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, với điều kiện là những
thao tác này không biến thành những cuộc thí nghiệm và coi bào thai chỉ
là một chất liệu của phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, nó cũng dễ đưa tới
những lạm dụng không thể tha thứ được. Những trứng đã có được bằng thụ
tinh trong ống nghiệm có thể đem cất trong các ngân hàng hay cấy lại vào
những người đàn bà khác mà không phải là người mẹ; hoặc là các trứng ấy
được cắt ra làm đôi hầu có thể có những cặp sinh đôi, mà người ta có
thể làm cho sinh ra cách khoảng nhau 5 hay 10 năm. Phải ngăn chặn ngay
những hành động thí nghiệm đó, bởi vì, đó là một dạng khoa học vô lương
tâm. Quả vậy, như William E. May đã nói: “Việc tạo ra phôi thai người
trong ống nghiệm như một sự nghiên cứu là việc làm hoàn toàn phi luân”.
Nguồn ngọn của một con người – giây phút ban đầu của việc người ấy hiện
hữu phải là hoa trái của một hành vi do tình yêu của cha mẹ thúc đẩy.
Ðứa con sinh ra không thể được thụ tinh như là một sản phẩm do việc can
thiêp của các kỹ thuật y học và sinh học mà ra. Không ai được đặt việc
ra đời của một đứa bé vào những điều kiện của tính hữu hiệu kỹ thuật
được đó lường bằng những thông số kiểm tra và chế ngự. Việc thụ tinh
trong ống nghiệm là một việc làm mất đi cá tính người. Trong khi mà tình
yêu phải được biểu lộ qua thân xác và sự sống chớm nở từ thân xác với
bất cứ giá nào, thân xác vẫn phải là nơi diễn ra sự thụ tinh. Bảo đảm
nằm ở đó rằng sự sống ở bước đầu của nó không được giao cho ai khác
ngoài cha mẹ. Mặt khác, việc thụ tinh và nuôi bào thai trong ống nghiệm
là không hợp pháp, khi chỉ sản xuất ra những bào thai con người như
những “sinh thể vật chất”, đồng thời chủ ý diệt phôi thai trong ống
nghiệm chỉ vì mục đích nghiên cứu và các phương pháp thử nghiệm tác hại
đến bào thai trong ống nghiệm. 3. Ðối với vấn đề tạo sinh dòng vô tính
(Cloning) Giáo sư Jean Fz. Mattei, một nhà di truyền học thuộc Ủy Ban
Ðạo Ðức Học của Pháp, đã nói lên quan điểm của mình về tạo sinh dòng vô
tính rằng: “Ðiều cần làm ngay là ngăn chặn những nguy cơ lạm dụng công
nghệ. Nhân bản ra hàng loạt hoàn toàn trái với quan niệm của tôi và vấn
đề nhân cách”. Ðức Tổng Giám Mục Renato Martino, quan sát viên thường
trực của Ðức Gio-an Phao-lô II, tại Hội Ðồng Liên Hiệp Quốc, đã nói
rằng: “Những đứa trẻ được tạo nên bằng dòng vô tính sẽ có một cuộc sống
bất thường trong liên hệ với cha mẹ và thân thuộc, vì hành động định
trước đồng thời có chủ tâm và độc đoán liên hệ đến thân xác của chúng.
Những hậu quả về phương diện đạo đức và pháp lý do hành động ấy mang lại
làm cho tương lai của nhân loại ra ô nhiễm và mất đi tính cách thánh
thiện của nó. Mặt khác, việc tạo sinh như vậy loại bỏ tình nghĩa giữa
cha mẹ và con cái, là một sự thụ thai vô tính (asexual) và vô giao
(agamic), do dó, thiếu sự kết hợp giữa con người và giao tử (gamete)”.
Tuy nhiên, có những người nghĩ rằng tạo sinh dòng vô tính với mục đích
điều trị thật ra không phải là sinh sản vô tính. Ðiều đó có nghĩa là họ
tin rằng sản sinh vô tính mô tế bào (tissues) không phải là sản sinh vô
tính tế bào và do đó, không phải thật là sản sinh vô tính con người.
Hiểu như thế là sai lầm. Không thể sản sinh vô tính tế bào mà không sản
sinh vô tính một bào thai, nghĩa là không tiêu huỷ bào thai. Dĩ nhiên,
không ai có thể hy sinh một mạng người để thử nghiệm. Ðức Hồng Y Murphy –
O’ Connor, thuộc giáo phận Westminster tại Anh quốc, đã nói trong bài
phản đối dự luật của chính phủ Anh về sinh sản vô tính như sau: “Sinh
sản vô tính tạo ra sự sống con người- một phôi thai – được cấy vào tử
cung người phụ nữ, sẽ phát triển thành một em bé. Nó là cách mới để tạo
con người mà tách biệt cách hoàn toàn và tận sâu thẳm khỏi hành vi yêu
thương của con người. Một đứa bé do sinh sản vô tính không có cha và
không cần tinh trùng trong cuộc sinh này và mẹ nó thì bị giản lược thành
một người cung cấp trứng đơn thuần… chấp nhận kiểu sinh sản vô tính con
người mà không có yếu tố di truyền từ cha mẹ là một kiểu mới kèm theo
những hệ luỵ xã hội lâu dài và những nan giải về đạo đức. Việc sinh sản
vô tính như là việc lao đầu theo một luân lý liều lĩnh”. Christian Much,
cố vấn pháp luật của Liên Hiệp Quốc, đã nói rằng: “Trên bình diện luân
lý, Ki-tô giáo, Hồi giáo và tất cả mọi tôn giáo đều xem việc nhân bản vô
tính là một sự xâm phạm đến quyền năng sáng tạo của Thượng Ðế”. Kinh
nghiệm của các nhà khoa học trong việc thí nghiệm với loài vật cho thấy
hiện rõ ràng có nguy trầm trọng tạo nên những cá nhân tàn tật bất toàn
nếu cấy bào thai do sinh sản vô tính vào trong lòng bà mẹ cho phát
triển. Tiến trình thụ thai theo dòng sinh vô tính thì thực là niềm mong
đợi không thực tế chút nào. Thành quả của tạo sinh vô tính không bao giờ
có thể thay thế con người được cưu mang trong tình yêu hôn nhân tự
nhiên được cả. Những con người do tạo sinh vô tính, xét về thể lý, có
thể rất giống với bản mẫu, thế nhưng hai con người này sẽ khác biệt ít
nhất là không như hai người sinh đôi đồng dạng trên bình diện cá tính và
những đặc tính về tâm thần. Giáo sư Jacques Testard, giám đốc nghiên
cứu của INSERM (Viện Quốc Gia Về Sức Khoẻ Và Nghiên Cứu Y Học của Pháp),
người đã cho ra đời đứa bé đầu tiên được thụ tinh trong ống nghiệm tại
Pháp, đã nói rằng: “Ðứng trên quan điểm đạo đức, sinh sản vô tính một
con người hiện nay là điều không thể chấp nhận. Không chỉ biến phụ nữ
thành công cụ mà họ còn phải chịu những nguy hiểm không lường trước và
cả cho ra đời những đứa trẻ dị tật. Tỷ lệ thất bại, như đã được thừa
nhận trong khuôn khổ nghiên cứu trên loài vật, cũng là con số không thể
chấp nhận. Có thể nơi đứa bé đầu tiên, người ta không nhận thấy có gì
bất thường. Nhưng những đứa bé “không hoàn chỉnh” sau đó sẽ bị ném vào
giỏ rác chăng?” Thần học gia Bernard Haring, DCCT, nhấn mạnh rằng: “Tôi
hy vọng rằng người ta sẽ không bao giờ thực hiện việc sinh sản vô tính
nơi con người. Xét về mặt sinh học, nó sẽ làm giảm sự đa dạng sinh học
cần thiết để duy trì nòi giống. goài những thiệt hại hiển nhiên thấy
được trên bình diện sinh học, xét về mặt luân lý, nó sẽ còn gây thiệt
hại lớn lao cho các đứa bé sẽ ra đời. Mỗi con người đều được Thiên Chúa
ban cho cái quyền có một gia đinh là thành phần của lịch sử nhân loại,
trong đó, sự sống được lưu truyền nhờ vào tình yêu của cha mẹ. Những đứa
trẻ do sinh sản vô tính tạo ra sẽ là những đứa trẻ mồ côi được định
trước. Ðứa bé không thể chỉ là bản sao của một người cha mẹ có óc chiếm
hữu. Một xã hội không cha hay không mẹ hẳn sẽ chẳng có sự phong phú và
đa dạng mà Ðấng Tạo Hoá đã muốn ban cho nhân loại”.
Phó Tế Nguyễn Văn Tâm, DCCT
0 Nhận xét