8. Tấm lòng với người nghèo khổ
Tin Mừng Lc 4, 16-22
Rồi
Đức Giêsu đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường
như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ
trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép
rằng : Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để
tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho
kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả
lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.
Đức
Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống.
Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với
họ: "Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe." Mọi người
đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người.
Suy niệm
Đức
Giêsu khởi đầu sứ vụ công khai với Thần Khí của Chúa Cha, Thần Khí tràn
ngầp tâm hồn Đức Giêsu và đưa dẫn Chúa Giêsu thi hành sứ vụ đặc biệt
của Chúa Cha :
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn”(Lc 4, 18-19)
Thần
Khí của Chúa Cha không phải là tinh thần, thái độ so sánh hàng ngang,
người này với người kia, nhóm này với nhóm nọ; nhưng là sự bao bọc quảng
đại từ trên cao nhìn xuống, giống như tấm lòng của cha mẹ ôm trọn tất
cả mọi đứa con và đặc biệt lo lắng cho những đứa con khó khăn, yếu đau
nhất.
“Anh
em hãy yêu kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền
trả. Như vậy, phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là
con Đấng Tối Cao, vì Người vẫn nhân hậu với cả phương vô ân và quân độc
ác” ( Lc 6, 35).
Lãnh
nhận Thần Khí của Chúa Cha, Đức Giêsu không tìm cho mình những người ưu
tú, không vun đắp cho nhóm của mình để hơn những nhóm khác, không lấy
sự phân biệt tội lỗi và công chính như tiêu chuẩn để lọc lựa và loại
trừ. Trái lại, Đức Giêsu thể hiện tấm lòng của Chúa Cha, Ngài yêu thương
tất cả mọi người và đặc biệt chăm sóc những đứa con kém may mắn nhất
hoặc tội lỗi lạc xa đàn chiên nhiều nhất :
“Hãy
về học cho biết ý nghĩa của câu này : Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ
tế. Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người
tội lỗi” (Lc 9,13)
Tinh
thần đó Chúa Giêsu đã thể hiện trong suốt cuộc đời sứ vụ công khai và
thể hiện như một nét căn bản của nhiệm cục mới của ơn cứu độ. Đức Giêsu
luôn bày tỏ một tấm lòng cảm thông, yêu thương đặc biệt với những người
nghèo khổ, bé mọn, tội lỗi và mang lại niềm hy vọng cứu độ cho họ. Đức
Giêsu động lòng trắc ẩn trước những hoàn cảnh éo le, Đức Giêsu cảm thông
với những người đói, Đức Giêsu hớn hở vui mừng vì nhận ra thánh ý yêu
thương lạ lùng của Chúa Cha đang được thể hiện :
“Ngay
bấy giờ, được Thánh Thần tác động, Đức Giêsu hớn hở vui mừng và nói : “
Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín
không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, những lại mặc
khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc
10, 21)
Khi trả lời cho thắc mắc của Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu khẳng định lại sứ vụ của Đấng Mêsia :
“Các
anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe : người
mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe,
người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng ...” (Lc 7, 22-23)
Do
đó, tấm lòng đối với những người nghèo khổ tội lỗi không phải chỉ là
một tình cảm của con tim đức Giêsu, nhưng chính là nguồn cội sâu xa
trong lựa chọn của Đức Giêsu, biểu hiện nơi thái độ của của Đức Giêsu
trong mọi hoàn cảnh và hơn nữa, đó chính là nét căn bản giải thích diễn
tiến của lịch sử ơn cứu độ.
Ơn
cứu độ của Thiên Chúa không phải là một bài toán thách đố con người để
chỉ lọc lựa những người tốt; nhưng ơn cứu độ ấy bộc lộ tấm lòng yêu
thương quảng đại của Thiên Chúa; ơn cứu độ của Thiên Chúa tràn xuống tận
đáy xã hội, có khả năng nâng dậy những người hèn kém và tầm thường
nhất, những người tội lỗi và bất chính nhất, miễn lã con người dám để
cho Thiên Chúa đón nhận và yêu thương mình. Không một người nào lại bị
loại bỏ khỏi tấm lòng quảng đại của Thiên Chúa, trừ khi chính họ muốn
khước từ tình thương của Ngài.
Những
yếu tố ấy lại chính là đường nét của thời đại Cánh Chung, thời đại
Thiên Chúa hoàn tất chương trình sáng tạo và cứu độ con người. Đức Giêsu
tuyên bố ứng nghiệm ngày hôm nay những yếu tố biểu lộ tình thương bao
bọc của Thiên Chúa : ”Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm
biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho
người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19)
Điều
đó có nghĩa là thời của Đấng Mêsia, thời gian của Giáo Hội, thời gian
Cánh Chung cũng mang tính chất đặc biệt của Tin Mừng giải phóng, và Giáo
Hội của Chúa cũng không thể là điều gì khác hơn một sự thể hiện lòng
nhân lành quảng đại của Chúa đối với những người nghèo khổ.
Như thế, nét đặc trưng nhất của thời đại Đấng Mêsia không phải là điều
gì khác hơn thời đại biểu hiện “Tấm Lòng Vàng” của Thiên Chúa; và Martin
đã thể hiện được nét đặc trưng của Nước Chúa để cũng được gọi một cách
thân thương : vị thánh “tấm lòng vàng”.
0 Nhận xét