Sống ơn gọi Giảng Thuyết theo gương thánh Martinô
Khi
nói đến thánh Martinnô de Porres, người ta nghĩ ngay đến cụm từ “ông
thánh có tấm lòng vàng”, hoặc “ông thánh hay làm phép lạ”; “cha của
những kẻ khó nghèo, đau yếu”, nhiều người còn gọi thánh nhân bằng một
tên gọi thân thiện, gần gủi hơn, đó là “ông thánh da đen”… Tất cả những
cụm từ trên đây chỉ về thánh Martinô đều không sai, nhưng có lẽ bấy
nhiêu vẫn chưa đủ và sẽ không đủ khi nói về thánh nhân mà không nhắc
đến Người là một tu sĩ dòng Anh Em Giảng Thuyết.
Chính
trong môi trường của Dòng Giảng Thuyết, hấp thụ đời sống tu trì, thấm
nhuần tinh thần Đaminh, Martinnô de Porres đã trở thành một vị hiển
thánh lừng danh cho Giáo Hội bởi tinh thần “bác ái yêu thương, nhiệt tâm
phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân”. Chính vì thế, đời sống thánh nhân
đã trở thành một “kiểu mẫu” cho con người trong mọi thời đại, đặc biệt
đối với người tu sĩ Giảng Thuyết, cách riêng với anh em Trợ sĩ Đaminh.
Nếu
như đời sống của cha thánh Tổ phụ Đaminh được gói gọn trong câu châm
ngôn “Nói với Chúa và nói về Chúa”, thì thánh Martinnô de Porres cũng đã
thấm nhuần đời sống ấy trong tinh thần “xả kỷ hy sinh, tận tình bác
ái”. Đời sống của thánh nhân đã trở thành bài giảng thuyết lừng danh có
sức thuyết phục và cảm hóa được nhiều người không chỉ trong thưở bình
sinh của Người mà cả trong nhiều thời đại về sau. Trong tâm tình ấy,
người viết xin được chia sẻ đời sống của tu sĩ Martinnô de Porres qua ba
nét chính: sống với Chúa, nói với Chúa và nói về Chúa. Ba điều cốt lõi
đó đã làm nên con người Martinnô de Porres với tinh thần “xả kỷ hy sinh,
tận tình bác ái” và đã trở nên mẫu mực cho người tu sĩ Đaminh.
Sống với Chúa trong mọi hoàn cảnh
Chắc
hẳn ai trong chúng ta cũng thấu hiểu phần nào về hoàn cảnh bi đát và
đời sống thương tâm của thánh Martinô từ thuở thiếu thời. Thánh nhân là
kết quả của một mối tình “vụng trộm” giữa một chàng da trắng thuộc hàng
quí phái và một người dân da đen nô lệ mới được phóng thích tại thành
Lima, thủ đô nước Peru, cuối thế kỷ XVI. Thế nhưng, ngay từ lúc mới cất
tiếng khóc chào đời, thánh nhân đã bị chính cha ruột của mình từ khước
bởi vì nước gia “bánh mật” của Người[1].
Thánh
Martinô xuất thân từ một hoàn cảnh vô cùng bi đát và đắng cay. Bối cảnh
của cậu bé Martinô buổi thiếu thời thật khốn khổ. Hẳn như bao người
khốn khổ khác, người ta sẽ “trả thù đời,” bất mãn, và sống lê lết quậy
phá cho vui hết đoạn “đường đời bất công và khốn kiếp này”. Nhưng Martin
đã không làm thế. Từ nỗi oan nghiệt đó, thánh Martinô đã tìm được một
nơi nương tựa an toàn, một người Cha nhân ái là chính Thiên Chúa. Tìm
đến với Chúa, người Cha nhân lành, thánh Martinô đã cảm nếm được lời
thánh vịnh: “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa,thì hãy còn có Chúa đón nhận
con.”[2]
Số
phận hẩm hiu bất hạnh, bị khinh dể bỏ rơi, đã không đẩy người rơi vào
hố sâu của tuyệt vọng, của cuộc sống “giang hồ”, nhưng đã khơi lên cái ý
thức, mối trăn trở là chia sẻ, cảm thông và nâng đỡ cho những anh chị
em đau khổ, bệnh tật, kém may mắn. Trong bàn tay quan phòng của Thiên
Chúa, biết bao lớp người đã tìm thấy được ở nơi thánh Martinô bác ái,
những lời ủi an, những sự giúp đỡ, những cứu chữa tận tâm về cả phần hồn
lẫn phần xác. Nhất là tìm thấy lại được sự bình an cho tâm hồn.
Trong
khi bị đời ruồng rẫy khinh chê, thánh Martinô không oán hận hay than
thân trách phận, nhưng Người đã tìm đến với Chúa Giêsu Thánh Thể và làm
bạn với Chúa trong nhà chầu, tâm sự, chuyện trò với Chúa và kín múc nơi
Chúa nguồn mạch sức sống, niềm an ủi và hạnh phúc được làm con cái Thiên
Chúa. Từ đó, thánh nhân đã thấu hiểu ý nghĩa và giá trị của cuộc đời.
Thánh nhân đã kết hiệp những khổ đau trong cuộc đời, những thiếu thốn,
những vất vả trong đời sống hằng ngày với thập giá Chúa Giêsu làm thành
hy lễ tiến dâng Thiên Chúa.
Khi
lớn lên, thánh Martinô theo học và hành nghề y tá. Thánh Martinô lấy
làm sung sướng vì được theo học một nghề hợp với sở thích của mình. Hy
vọng độc nhất của thánh nhân là với nghề y tá, Người sẽ có phương tiện
“cứu nhân độ thế”. Thánh nhân cảm thấy vui vì nhờ công việc này mà Người
có cơ hội phục vụ Chúa qua những người nghèo khổ, bệnh nạn tật nguyền
và những người bị bỏ rơi trong xã hội. Thánh nhân ý thức rằng, phục vụ
và yêu thương những con người khốn khổ đó chính là phục vụ Chúa vậy.[3]
Mặc dầu công việc bận rộn và vất vả, nhưng không vì thế mà thánh
Martinnô sao nhãng việc sống với Chúa, người luôn thánh hóa đời sống
hàng ngày bằng cách làm mọi việc vì Chúa cho sáng danh Chúa. “Trong
những giờ rãnh rỗi, Martinô thường tâm giao với Chúa: Than thở, cầu
nguyện, ban đêm, cậu có thói quen bớt giờ ngủ để nguyện gẫm. Nhiều lần
cậu quên cả ngủ để thức khuya cầu nguyện”[4].
Nhờ
đời sống thân tình với Chúa như thế, thánh Martinô đã nhận ra tiếng
Chúa gọi mời sống đời dâng hiến trong dòng Đaminh. Khi nhận ra tiếng
Chúa, thánh nhân đã từ bỏ mọi sự và dấn thân trong nhà Chúa với những
công việc tầm thường của một “người giúp việc”. Thế nhưng, thánh nhân đã
biến những công việc tầm thường ấy thành những công việc phi thường. Từ
ngày vào sống trong Tu viện, thánh Martinô càng cảm nhận tình thương
của Thiên Chúa và càng sống thân mật với Chúa hơn qua các công việc bổn
phận hằng ngày. “Kể từ nay, Martinô có mặt khắp nơi trong tu viện, từ
nhà nguyện cho đến nhà bếp, phòng ăn hoặc vườn rau. Tất cả mọi việc các
cha các thầy nhờ đến, Martinô luôn vui tươi phục vụ không hề gian khổ.”[5]
Sở
dĩ thánh Martinô có được động lực và sức mạnh để hành động như thế là
vì thánh nhân nhờ đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong mọi khoảnh
khắc cuộc sống, nhất là khi chiêm ngắm mầu nhiệm tình yêu cứu độ của
Chúa Giêsu, được tình yêu Chúa Giêsu, Đấng đã vì yêu chết trên Thập giá
thúc đẩy. Bởi lẽ, “Thiên Chúa hiện diện trong linh hồn Martinô, làm cậu
nên sức mạnh và đầy nhiệt huyết giúp đỡ tha nhân và những người cần
đến.”[6]
Từ đó thánh nhân thấm nhuần tinh thần của Chúa Giêsu trong sự khiêm nhu
hiền hậu. Hay nói cách khác, thánh nhân đã đáp lại lời gọi mời yêu
thương của Chúa: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi,
vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ
ngơi bồi dưỡng.”[7]
Một
khi đã được Thiên Chúa bồi dưỡng và đỡ nâng, thánh nhân càng có đủ sức
mạnh và nghị lực để sống và sống hết tình với anh em trong sự khiêm nhu
chân thành. Đó là một cuộc đời âm thầm lặng lẽ, không hám danh, tham
lợi, không quyền cao chức trọng, và tưởng chừng như một kẻ “vô danh tiểu
tốt” trong tu viện. Nhưng chính trong sự lặng lẽ ấy, thánh nhân đã làm
nên “chuyện lớn” không chỉ trong tu viện mà cho cả thành phố Lima thời
bấy giờ. “Quả thật một cuộc đời âm thầm, bình dị chính là một cuộc đời
chìm khuất, nhưng đó là chìm khuất để ươm mầm cho sự sống thật. Hơn nữa,
một đời sống chìm sâu trong ánh sáng của Chúa; đó lại chính là ươm mầm
đời sống trong mảnh đất ân huệ để trổ sinh bông hạt là ý nghĩa chân
chính cho đời sống con người cách phong phú hơn hết.”[8]
Chính
vì thế, thánh nhân đã trở thành một “kiểu mẫu” người tu sĩ trong mọi
thời đại. Qua đó, thánh Martinô mời gọi mỗi chúng ta quý trọng đời sống
chiêm niệm để kín múc nơi Chúa nguồn mạch sức sống làm chất liệu cho lời
giảng thuyết của ta, để đời tu có ý nghĩa giữa một thế giới huyên náo
hôm nay. Điều kiện cốt yếu nhất để người tu sĩ hoàn thành tốt trọng
trách của mình giữa trần thế hôm nay như sứ mệnh và mục đích của Dòng
đòi buộc là lấy đời sống chiêm niệm làm căn bản. Nhờ đời sống cầu
nguyện, chúng ta để đạt tới sự hiểu biết, yêu mến và hiến thân trọn vẹn
cho Chúa Giêsu Kitô, nhiệt tâm phục vụ tha nhân. Và như thế, thánh
Martinnô không chỉ có sống trọn vẹn cho Chúa mà là một mẫu gương cho
người tu sĩ nói với Chúa.
Tá Đương OP
0 Nhận xét