Nguyễn Đình Giao
Nước ta có tục lệ sau khi mất
được 35 ngày (ngũ tuần) thì “vong” (linh hồn người chết) được đưa lên
chùa. Trong nam tục lệ này được gọi là lễ cầu siêu, cũng thực hiện trong
vòng 49 ngày (nhưng hình như thường ngay sau khi mất). Người theo Phật
giáo coi đây là lễ mong cho người vừa mất được siêu thoát.
Năm 1989 (Kỷ Tỵ), Mẹ tôi mất.
Khi ấy, việc thờ cúng, lễ bái đã có phần được khôi phục. Nhiều người
khuyên đến 35 ngày cần làm lễ để Mẹ tôi được lên chùa, được “mát mẻ”.
Nghe nói rất mơ hồ, nhưng vì tự thấy mình là người chưa hiểu biết, chưa
tinh tường được nhiều lẽ huyền bí của kiếp người, chỉ đơn giản nghĩ làm
như thế là tỏ ra có hiếu, tỏ lòng thương tiếc Mẹ nên tôi đã theo.
Về mặt tiền bạc, cũng chẳng tốn
kém gì nhiều , mua sắm những thứ cần thiết theo yêu cầu của nhà chùa đã
có mấy con gái, con dâu lo liệu. Mình chỉ có một việc tới hôm ấy, đến
chùa, ngồi sau nhà sư chủ lễ, nghe đọc kinh các loại. Thấy bảo đứng lên
thì đứng lên, bảo ngồi xuống lại ngồi xuống. Rồi vái lậy, ê a đọc theo, …
tất tần tật đều có sự chỉ đạo chẳng khác gì con rối. Lỡ có lúc lơ đễnh,
không tập trung nghe lời kinh thì sau đó giật mình, ân hận lắm. Chỉ có
thế mà mệt rã rời. Không dám kêu, vì đoán chắc ngần ấy các em, con cháu
chẳng ai không mệt. Chỉ buồn cười: bà Bác tôi năm ấy đã ngoài 80, tu
tại gia, mà lòng thành của Cụ thì không thể ai nghi ngờ. Mỗi tháng, Cụ
ăn chay 6 ngày, còn ngày nào, Cụ cũng lên cái gác nhỏ bằng gỗ đọc kinh
hai lần, sáng và chiều. Con cháu đều được dặn, khi thấy Cụ đọc kinh trên
gác, cấm được hỏi han làm kinh động. Từ xa tới thăm, Cụ bảo: Cứ thấy
tôi đang tụng kinh là biết tôi khỏe, đợi được thì đợi, có việc gì vội
thì cứ về! Hôm ấy Cụ ngồi cùng đọc kinh ngay sau nhà sư chủ lễ, tôi thì
ngồi cách đó không xa (con trưởng mà!). Đang đọc, bỗng nghe thấy Bác tôi
nhắc khẽ nhà sư: “Cụ đọc sai hết rồi!” Nhà sư vẫn đều tay gõ mõ, không
quay lại, bảo: “Có cụ sai thì có!” Chẳng biết ai sai, nhưng tôi tin Bác
tôi hơn!
Chuyện rồi cũng qua đi.
Gần chục năm sau, Cô tôi mất.
Các em con Cô Chú tôi cũng làm lễ lên chùa khi tới tuần 35 ngày. Tôi là
phận cháu, không phải theo cả buổi lễ, chỉ tới thắp hương ở chùa rồi về
đi làm. Hôm sau, tới thăm Chú tôi, thấy Cụ mệt mỏi, chẳng thiết nói năng
gì. Ngồi một lúc, Cụ than cái ngày hôm qua sao mệt quá, khổ quá, mà
không biết khổ như thế để làm gì? Chẳng biết Cụ bà có được cái gì không?
Ít lâu sau, Cụ “di chúc” với các con: Khi Bố chết, các con lo chôn cất
chu đáo, tới ngày giỗ, anh em con cháu sum họp, thắp nén hương, thế là
đủ. Đừng đưa lên chùa làm gì, khổ cho mọi người lắm.
Khi Chú tôi mất, nhớ tới lời dặn
của Cụ, con cháu cũng có người lâu nay rất “khoái” chuyện “tự do tín
ngưỡng”, say mê hương khói cảm thấy áy náy nhưng vẫn phải nghe theo. Con
nhà tử tế, được ăn học đàng hoàng, cũng là có giáo dục, sao dám làm
trái với ý nguyện của người đã khuất! Có họa là đồ vô phúc!
Chú tôi mất tới nay đã được 15 năm, mọi việc của con cháu trong đại gia đình đều không có gì phải lo lắng ân hận.
Từ sau khi nghe lời dặn của Chú,
nghĩ tới khi Bố sẽ tới ngày trăm tuổi, tôi vẫn có ý tìm hiểu về tục lệ
này vì quả thật cảm thấy có gì đó chưa được thuyết phục. Càng nhiều
tuổi, tôi càng không thích làm việc gì chỉ vì “người ta vẫn làm như
thế”. Cách giải thích của nhiều tài liệu không giống nhau và đều ở tình
trạng “u u minh minh” đầy huyền hoặc. Sau thời gian dài suy xét, có tham
khảo ý kiến của nhiều người nhất là những người cao tuổi, có hiểu biết,
trong đó có những người am hiểu đạo Phật hoặc chân tu, tôi tự rút ra
kết luận: Con người ta chết là hết, tất cả những hành vi của con cháu
với người đã khuất chỉ là những ước lệ để tỏ lòng hiếu thảo, nỗi niềm
chân thành thương tiếc. Tình cảm với Cha Mẹ trước hết thể hiện khi các
bậc sinh thành còn sống cùng con cháu nơi dương thế, mà thế nào là hiếu
thuận, làm sao là kính yêu chắc chẳng phải nhiều lời, ai cũng thấu hiểu.
Mọi việc làm sau khi Cha Mẹ an giấc ngàn thu nên trân trọng và đơn
giản. Những sự nhiêu khê tốn kém đang có xu hướng phát triển ngày nay
phần lớn đều do nhiều người chỉ “thấy người ta làm như thế” và cũng do
không ít kẻ có quá nhiều tham vọng muốn cầu xin và lo sợ bản thân mình
chịu nhiều tai ương vì đã làm từng làm điều không lương thiện. Lòng tham
không đáy và nỗi sợ hãi mơ hồ ám ảnh khiến nhiều người nhìn bên ngoài
cũng “đạo cao đức trọng” đã có những nghĩ suy và hành xử như kẻ ngu
muội. Còn các “thầy chùa” thì ra sức khuyến khích vì mối lợi vô cùng hấp
dẫn từ đông đảo các tín đồ.
Tôi quan niệm chỉ nên làm lễ
“đưa vong lên chùa” khi ở một trong ba hoàn cảnh: một là người mất khi
còn sống đã tin theo đạo Phật, thường xuyên tới chùa thể hiện tín ngưỡng
hoặc tu tại gia, khi sống “ăn chạy niệm Phật” nên khi chết cũng muốn
“nương nhờ cửa Phật”; hai là người chết không có con cháu nối dõi, không
có người lo việc hương khói, đưa lên chùa cũng giống như tục “cúng
hậu”, xưa đã có nhiều người thực hiện, muốn nhờ nhà chùa lo việc hương
khói về sau; và ba là, người đã mất khi còn sống đã từng làm những điều
vô nhân bạc nghĩa, nay cần đưa lên chùa để có điều kiện sám hối.
Nhìn cảnh người ta xì xụp cầu khấn, đủ thứ tốn kém để cúng bái, lúc sinh thời, Bố tôi thường bảo:
- Có cho được cái gì, Cha Mẹ cho
hết rồi, không việc gì phải xin xỏ; mà làm sao Cha Mẹ, Ông Bà lại làm
điều gì có hại cho con cháu để phải hãi hùng lo sợ rồi phải hương khói
lễ lạt cho tốn kém?
Nhiều người nghe tôi nói đều
không phản đối, vì thế, khi Bố mất, tôi đã trình bày những suy nghĩ
này với anh em, con cháu trong nhà và rất may mắn, đã tìm được sự đồng
thuận. Chắc ai cũng thấu hiểu cái mệt mỏi và sự vô nghĩa khi làm việc
này mà không dám nói sợ bị hiểu lầm.
Bố tôi mất đã được 6 năm, đời
sống của con cháu từ chuyện làm ăn tới việc học hành đều “thông đồng bén
giọt”. Cùng với nhiều điều khác trong đời sống việc này càng khiến tôi
tin rằng chỉ nên coi phong tục là những nét văn hóa, đừng để phụ thuộc,
thậm chí lệ thuộc khiến mình trở thành người vô tình góp phần vào sự
khủng hoảng và dung tục hóa cái vẫn được gọi là “thế giới tâm linh”.
0 Nhận xét