Láng giềng tham lam
Theo Xinloiong
Chuyện Trung Quốc là một cường quốc đang trỗi dậy không cho họ có
quyền áp đặt những tuyên bố chủ quyền giả tạo. Thế nhưng đó chính là
điều Bắc Kinh đang làm ở Nam Hải, hay Biển Đông Nam Á, nếu ta muốn dùng
một tên gọi trung lập về chính trị không có những hàm ý thực dân hay đế
quốc. Với những người như tôi đã từng quan sát sự phát triển của Trung
Quốc với niềm hy vọng và hứng thú, kiểu bành trướng không nhượng bộ gần
đây của Bắc Kinh là điều vô cùng đáng thất vọng và thật sự đáng lo ngại
cho toàn khu vực.
Hành động mang một giàn khoan trị giá cả tỉ đô-la đến đặt ở một vị
trí xa xôi nằm hẳn trong vùng đặc quyền kinh tế của một nước khác đòi
hỏi phải có không chỉ vốn và chuyên môn kỹ thuật, mà còn cả thái độ kiêu
căng chính trị và việc rõ ràng bất chấp các chuẩn mực quốc tế.
Chỉ trong trí tưởng tượng của Bắc Kinh mới có chuyện chủ quyền đối
với vùng biển nơi họ đặt giàn khoan của mình là điều không thể chối cãi.
Do một quan chức Đài Loan quá rảnh rỗi tưởng tượng ra hồi thập niên
1940, đường 11 đoạn, nay là đường chín đoạn mà Bắc Kinh dùng để tuyên bố
chủ quyền với tám mươi phần trăm Biển Đông Nam Á hoàn toàn không có cơ
sở pháp lý hay lịch sử nào.
Những hành động xâm lấn phi pháp kiểu như chúng ta đang thấy hiện nay
chẳng phải là điều mới mẻ. Những lần Bắc Kinh chiếm đoạt đẫm máu và phi
pháp các đảo trong Quần đảo Hoàng Sa năm 1974 và Quần đảo Trường Sa năm
1988 đã khiến hàng chục người Việt thiệt mạng và vẫn chưa phai nhòa
trong tâm trí người Việt Nam. Bản thân những biến cố này, vốn đã tiếp
theo một lịch sử lâu đời của những quan hệ căng thẳng giữa hai nước, lại
được tiếp theo bằng hai thập niên Trung Quốc liên tục quấy nhiễu và
ngược đãi vô số ngư dân Việt Nam.
Tuy sự cực đoan chính trị hay cực đoan quốc gia chủ nghĩa không bao
giờ hữu ích, có gì đáng ngạc nhiên khi người Việt trên khắp thế giới
nhìn Bắc Kinh bằng con mắt nghi ngờ và bất tín?
Trên khắp đất nước Việt Nam, những hành động giàn khoan của Bắc Kinh
đang được xem là sự vi phạm trắng trợn và thách thức trực tiếp đối với
chủ quyền của Việt Nam, mà quả là đúng như vậy. Hà Nội sẽ phản ứng ra
sao? Ở Philippines, hành vi gây hấn tương tự đã khiến Manila tái thiết
lập hợp tác quân sự với Mỹ và các nước khác. Về phần mình, Hà Nội đã
phát tín hiệu cho thấy họ sẽ tiếp tục với các nỗ lực giải quyết tranh
chấp này bằng các biện pháp ngoại giao và các biện pháp hòa bình khác,
có lẽ thông qua các cuộc đàm phán bí mật giống như những cuộc đàm phán
đã tổ chức ở Thành Đô năm 1985.
Nếu ngoại giao không mang lại kết quả và Bắc Kinh vẫn gây hấn, thì
chẳng ai tiên đoán được tình hình sẽ ra sao.Tuy người Việt không muốn
xung đột, họ nổi tiếng là quyết tâm khi đối mặt với các mối đe dọa từ
bên ngoài. Nếu các cuộc đàm phán chẳng đi đến đâu thì sao? Tuy Việt Nam
có các tài sản quân sự đáng nể, Hà Nội đã nói rằng chúng chỉ được dùng
để phòng vệ. Thế nhưng vẫn có rủi ro rất cao xảy ra một biến cố dẫn đến
những hành động phòng vệ.
Trong những tháng và năm sắp đến, tính hiệu quả của Hà Nội trong việc
quản lý mối quan hệ của mình với nước láng giềng thích gây hấn có thể
phụ thuộc vào tính hiệu quả của Hà Nội trong việc kết hợp sự ngăn ngừa
với sức mạnh mềm. Về sức mạnh mềm, sự đoàn kết của người Việt trên toàn
thế giới và việc tăng cường các liên minh chiến lược sẽ là điều thiết
yếu. Tiến hành các cải cách thể chế đã mong đợi từ lâu và cải thiện nhân
quyền cũng sẽ hữu ích về những phương diện này. Nếu có thể, những đàm
phán với Bắc Kinh phải tiếp tục.
Những mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam đã và sẽ luôn luôn phức
tạp. Lịch sử và số phận của hai nước này đan quyện lẫn nhau và chẳng
sớm thì muộn cũng sẽ đạt được giải pháp nào đó cho những căng thẳng hiện
tại. Vẫn chưa rõ liệu có thể đạt được trạng thái cân bằng tương lai đó
một cách hợp lý hay không. Nếu không thì sẽ là một phát triển thật xấu
cho toàn khư vực và sự phát triển toàn diện của không chỉ Việt Nam và
Trung Quốc mà toàn khu vực.
Suy đoán về việc những căng thẳng hiện tại có thể lún sâu đến mức nào
có thể làm nản lòng đến mức khiến ta nhớ đến sự điên rồ của chuyện này.
Về kinh tế, các mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc có tiềm năng
đáng kể. Quan hệ giữa hai nước này nên toàn diện và hai bên cùng có lợi.
Thách thức hiện nay – với Hà Nội và khu vực – là đối phó với một nước
láng giềng mà hành vi của nước đó đe dọa toàn cộng đồng. Bản thân tôi hy
vọng rằng Bắc Kinh sẽ sớm hiểu rằng làm láng giềng tốt sẽ có lợi cho
chính họ.
JL
Bài nguyên đã được viết bằng tiếng Anh mang title:
“No one loves a bully.”
“No one loves a bully.”
0 Nhận xét