Phương thuốc gì cho ngành Y tế Việt Nam?
Ngành Y tế của Việt Nam đang rơi vào một cuộc tranh cãi lớn trong
lúc cả người dân lẫn chính phủ của đang đối phó một sự bùng nổ trong số
lượng ca bệnh sởi ở một số vùng, trong đó có TPHCM và Hà Nội.
Từ đầu năm, sự bùng nổ này đã trực tiếp hay gían tiếp gây ra cái chết
của hơn 111 trẻ em, trong đó ít nhất 25 ca tử vong trực tiếp do bệnh
sởi. Đến ngày ngày 8 tháng 4, số ca bệnh sởi được công bố là 2,492 ca.
Đến ngày 18 riêng Hà Nội đã có 1,062 ca và đến ngày 16/4/2014, cả nước
đã ghi nhận có 3.126 trường hợp mắc sởi trên 8.441 người bị phát ban
nghi mắc sởi tại 61/63 tỉnh, thành phố, theo Bộ y tế. Và có khả năng sự
bung nổ này sẽ sớm được tuyên bố là dịch bệnh.
Theo tôi hiểu, tính đến thời điểm hiện tại, quy mô của sự bùng nổ
bệnh sởi năm nay, dù lớn nhưng đến bay giờ vẫn chưa bằng một số năm gần
đây, ví dụ như 2009-2010. Và chúng ta cũng được biết, nói chung, mức độ
nguy hiểm của virus bệnh sởi về cơ bản là không thay đổi từ năm này qua
năm khác. Tuy nhiên, vấn đề đáng lo lần này chính là tỷ/lệ tử vong và sự
xuất hiện của những ca nghiêm trọng là cao hơn bình thường. Và nếu Việt
Nam đang đối phó một dịch bệnh thực sự thì tình hình có khả năng xấu
đi.
Về những vấn đề kỹ thuật tôi không có nhiều để nói vì tôi không phải
là cán bộ y tế chuyên nghiệp. Nói nhiều mà thiếu cơ sở không giúp gì và
cũng có thể gây sự hoảng sợ. Mới lên trang web của Bộ Y tế thấy họ có
đang trả lời câu hỏi qua mạng, và đang áp dụng những giải pháp khác. Hy
vọng những giải pháp này sẽ hiệu quả. Hiện nay có vẻ ngành y tế đã lên
báo động cấp cao.
Chắc chắn những thảo luận về sự thực hiện của ngành y tế nên và sẽ
tiếp tục trong thời gian tới. Trong khi đó, những có hỏi như “vì sao?”
“làm gì?” và “làm thế nào” đang được hỏi một cách rộng rãi. Ở đây chỉ
xin chia sẻ một số ý tưởng ban đầu về tình trạng bệnh sởi và tình trạng
chung của ngành y tế. Trong khi đó không quên một lúc nào vấn đề chính
trước mặt là phòng chống đê dọa sức khỏe công cộng này một cách toàn
diện và hiệu quả.
Tranh cãi về sự bung nổ bênh sởi
Cũng như các tranh cãi có quy mô lớn khác, tranh cãi về bệnh sởi lần
này đến từ nhiều yếu tố. Từ một góc nhìn khách quan, có hai tranh cãi
chính. Một là cách kiểm soát và tiếp cận xử lý bệnh dịch sởi của ngành y
tế. Thứ hai là cách quản lý và công bố thông tin.
Khi phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng dịch sởi ở Việt Nam,
chúng ta có thể thấy rõ rang có nhiều hiện tượng có vấn đề. Hệ thống các
bệnh viện nhi ở Việt Nam, đặc biệt là ở Hà Nội đã trong tình trạng quá
tải từ lâu và cách quản lý số lượng bệnh nhân không những không có hiệu
quả mà còn trực tiếp gây ra tình trạng lây lan virus. Khi trẻ em đến
bệnh viện, mỗi dường bệnh phải cho 2, 3, 4 tới 5 trẻ nằm chung, lại có
cả thành viên trong gia đình của trẻ mắc bệnh cũng ở lại bệnh viện thì
sẽ không bất ngờ khi con số ca tử vong và nghiêm trọng đang tăng.
Tất nhiên, với những người (như tôi) không được đào tạo trong ngành
y, sẽ không thể khẳng định một cách chắc chắn những gì mình không biết
rõ, tuy nhiên Nhưng sẽ không cần phải đoạt giải Nobel về Y học để có thể
hiểu được rằng những điều kiện quá tải và sự quản lý thiếu hiệu quả
phải được xử lý ngay lập tức. Từ góc độ này, việc khuyến khích các gia
đình có con mắc bệnh không nên tập trung vào những bệnh viện tuyến TW là
hợp lý, dù có thể muộn đi mấy tháng.
Về vấn đề quản lý thông tin thì chúng ta sẽ có cảm giác như đang phải
đối mặt với một hộp đen. Vì nhiều lý do (cả đơn giản lẫn phức tạp sẽ
được đề cập ở dưới đây), sự uy tín của ngành y tế ở Việt Nam đã giảm sút
một cách nghiêm trọng trong những năm gần đây. Có thể nói những chính
sách y tế của Việt Nam vẫn có nhiều yếu tố rất tốt. Tuy nhiên, cũng như ở
nhiều nước trên thế giới, sự minh bạch của ngành y tế Việt Nam là một
vấn đề cực lớn.
Là một người đã và đang nghiên cứu về ngành y tế của Việt Nam tôi
cũng được biết những người làm trong ngành cũng rất lo cho danh tiếng
của ngành mình. Cái cách mà ngành Y ‘quản lý’ thông tin là rất, thậm chí
có thể nói là quá chặt chễ. Vì vậy, hiện tượng không ít người phải đặt
ra câu hỏi liệu có phải ngành y tế đã giấu quy mô của dịch bệnh là không
bất ngờ cũng như việc có những người trong ngành lên án vai trò của báo
chí.
Đại đa số người cả trong lẫn ngoài ngành y tế hiểu rõ vấn đề bệnh sởi
này cũng như những vấn đề trước đây là hậu quả của những điểm yếu có
tính hệ thống trong ngành y tế. Dù nhiều người đang đòi Bộ trưởng Bộ Y
tế Nguyễn Thị Kim Tiến từ chức, và dù trách nghiệm giải trình luôn luôn
là quan trọng, những vấn đề Việt Nam đang đối phó cũng phải có một giải
pháp có tính hệ thống.
Vậy, có hai vấn đề phải tách bạch. Về ngắn hạn, phải làm gì một cách
cụ thể để ổn định hóa tình trạng trong việc khám chữa bệnh đối với bệnh
sởi và quản lý thông tin một cách minh bạch, chính xác, và rõ rằng. Về
trung hạn (không tể dài hạn được), phải nỗ lực để tăng tốc độ cải cách
ngành y tế.
Tất nhiên, vấn đề cải cách ngành y tế chẳng đơn giản đâu vì những vấn
đề trong ngành y tế chỉ phản ánh những điểm yếu trong những thể chế của
Việt Nam. Bình thường, khi dân gặp khó khăn trong lĩnh vực chăm sóc sức
khỏe, họ sẽ tự có trách nhiệm cho bản thân. Tuy nhiên trường hợp một
cơn đại dịch xảy ra thì lại là một chuyện khác; qua dịch sởi lần này,
người dân đã có thể thấy rõ những hạn chế của những thể chế Việt Nam có
tính chất sống còn.
Sức khỏe của ngành y tế Việt Nam
Nhìn chung, ở nước nào ngành y tế cũng có khả năng thành một lĩnh vực
đầy tranh cãi, chính vì hành động của ngành có ảnh hưởng trực tiếp và
gián tiếp đến sức khỏe và mực sống của mọi người trong xã hội đó. Đôi
với y tế, các nước không đều như nhau và sự thực hiện của ngành cũng có
thể thay đổi qua nhiều năm. Khi nhiều người không hài lòng với ngành y
tế hay ngành mất ủy tín thì là một vấn đề rất lớn.
Trong quá trình đổi mới ở Việt Nam thì ai cũng đều biết ngành y tế đã
và đang là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Những bất cập trong ngành
xuất phát từ cách phát triển của ngành và lộ trình cụ thể của nó trong
ba thập kỷ qua.
Đã trong nhiều năm, ngân sách mà nhà nước Việt Nam dành cho ngành y
tế đã là quá thấp. Chẳng hạn trong những năm 90 (vâng tôi biết Việt Nam
vẫn khổ trong thời điểm đó) số tiền chi ra cho y tế chỉ là trên dưới 1%
tổng GDP của đất nước (so với 3% như hiện nay). Và, nói chung, trách
nhiệm về vấn đề chi trả dịch vụ y tế đã được chuyển từ phía nhà nước đến
hộ gia đình; hậu quả là vào cuối những năm 1990, 80% số tiền được chi
cho dịch vụ y tế là tiền người dân bỏ ra từ túi của họ; chuyện đó đã có
hậu quả là dịch vụ y tế đã bị ‘thương mại hóa’ một cách quá mạnh, dẫn
đến nhiều điểm bất công.
Tăng trưởng kinh tế về sau này đã cho phép Việt Nam và ngành y tế
giải quyết một số vấn đề trong ngành y tế, như mở rộng hệ thống, hiện
đại hóa trang thiết bị và một sự thật rất đáng mừng là Nhà Nước Việt Nam
trong những năm gần đây đã đầu tư nhiều hơn cho ngành Y Tế. Việc bảo
hiểm Y tế đang phát triển (dù có nhiều bất cập) cũng là việc tốt.
Nhưng khác với trước đây, vấn đề ở Việt Nam hiện nay không chỉ còn là
số tiền chi trả cho y tế (cả từ phía nhà nước lẫn túi người dân) là đủ.
Vấn đề là số tiền đó được dùng để mua gì. Vấn đề là hiệu quả kinh tế
của ngành đối với sức khỏe công cộng. Điều này làm cho tôi nhớ đến nước
Mỹ, nơi vấn đề chủ yếu là số tiền chi trả khổng lổ ; cả lãng phí lẫn
không hiệu quả.
Thứ hai là bộ máy quản lý ngành còn nhiều vấn đề từ cấp trung ương
đến địa phương. Tôi không có âm mưu tấn công ai cả mà chỉ khẳng định
nhiều vấn đề trong ngành có liên quan đến tình hình quản lý trong ngành.
Tôi đoán kể cả những cán bộ cao cấp trong ngành sẽ chấp nhận quan điểm
này. Lấy một ví dụ cụ thể: tinh trạng ở nhiều bệnh viện của Việt Nam còn
quá tải. Ở những bệnh viện TW cũng có thể là hậu quả của việc dân muốn
lên tuyên. Ở những người khác, vấn đề chưa chắc xuất phát từ việc số
giường bệnh còn thiếu. Vấn đề là những khuyên khích kinh tế. Việc xây
thêm những bệnh viện mới chưa giải quyết vấn đề nếu không đề cập nguyên
nhân cơ bản.
Có lẽ Bộ Y tế vẫn quá thiên về các bác sĩ mà quá xem nhẹ những người
có kỹ quản lý. Vâng, ở nhiều bệnh viện trong phạm vi cả nước những
khuyến khích kinh tế được quan tâm hơn cả sức khỏe của bệnh nhân (vấn đề
này là vấn đề quốc tế chứ). Và vâng, tình hình Y đức ở Việt Nam phải
được cải thiện nếu muốn nâng cao chất lượng của dịch vụ trong ngành. Tôi
cũng như các bạn đã nghe những chuyện sợ lắm về ngành y tế (‘muốn cái
chích đau hay không đau,’ ‘muốn sống hay về nhà?’).
Chắc chắn có nhiều cái về ngành Y tế là duy nhất. Thế nhưng, nhiều
vấn đề trong ngành rất có liên quan đến những vấn đề trong các ngành
khác. Thiếu minh bạch, thiếu trách nhiệm giải trình, những vấn đề đối
với những khuyên khích tài chính ở các đơn vị dịch vụ, và sự quản lý của
ngành chưa thực sự phù hợp với nhu cầu của một ngành y tế hiệu quả.
Trong một bối cảnh như thế này, khi có những vụ án như bác sĩ làm
chết bệnh nhân và bỏ xác thì nhiều người muốn ai chịu trách nhiệm. Điều
đó dễ hiểu thôi. Tôi chỉ xin nhắc lại cho bạn là dù mọi người đều có
trách nhiệm của họ, đại đa số vấn đề trong ngành là thuộc thể chế và
quản lý. Trách nhiệm giải trình của bộ Y tế đối với dân nên là ở chỗ cải
cách ngành. Những điều xấu một số người trong ngành thực sự là bi kịch
nhưng chưa chắc một bộ trưởng có thể xóa bỏ ngay được vì những vấn đề
trong ngành đã có từ lâu. Những vấn đề của ngành có tính hệ thống.
Kết luận
Ở phía sau cuộc khủng hoảng bệnh sởi hôm nay là những vấn đề trong
ngành y tế mà đã và đang kéo dài từ lâu. Tôi hy vọng khưng hoảng của hôm
nay sẽ giúp cả nước tập đề cập những vấn đề nay. Trong việc quản lý
thông tin, quản lý bệnh viện, và quản lý ngành y tế nói chung, kinh
nghiệm quốc tế cho thấy sự minh bạch và trách nghiệm giải trình là hai
trong những cách điều trị có hứa hẹn nhất. Tôi chỉ lo để điều trị ngành y
tế phải điều trị cả bộ mấy.
0 Nhận xét