SUY NIỆM LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
1. Cái chết
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh Hồn,
để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là những người đã có một mối
liên hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà cha mẹ. Chính
vì thế mà tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy cái chết là
gì và nó đem lại cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai người
bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc
hành trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải để lại sau
lưng tất cả những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến
tiền bạc và địa vị được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất
cả những gì chúng ta đã đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường
làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải nhìn cái chết dưới ánh sáng
đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái chết không phải là một
chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về
nhà Cha, không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật thiết với
Thiên Chúa. Từ đó chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Ý
nghĩa đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta sống ở đời để làm
gì? Thưa, ta sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa
Trời và thương yêu mọi người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc
đời đời. Câu trả lời này thật ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải
quyết những vấn đề đã từng làm cho chúng ta băn khoăn và thắc mắc. Không
hiểu được chân lý này, hay cố tình quên lãng chân lý này, chúng ta sẽ
trở nên những kẻ lầm đường lạc lối, không còn thấy được phương hướng cho
cuộc sống, liều mình mất đi cả chì lẫn chài, cả đời này lẫn đời sau.
Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đã khắc trên tường phòng mình hàng chữ
như sau: Hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm quen với cái chết
bằng tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn
cảnh, hãy chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời.
Đừng bao giờ quên rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu
đối với Thiên Chúa và đối với anh em, chứ không phải là được xét xử
theo dáng bộ bề ngoài và những việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi
vậy trong nhịp sống thường ngày, chúng ta có lo thực thi bác ái hay
không, có biết thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm đến chúng ta hay không?
Có biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đã gây nên xích mích, có
biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh? Có biết làm
chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay không?
Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã thực sự yêu thương anh em
thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa, Đấng có một trái
tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng những người
thiện chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa, thì bấy giờ
cái chết không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn nói
như Laffirgue: Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại
chúng ta sẽ bảo: Đối với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất
trong cuộc sống là cái chết, bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ
phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
2. Bốn bà vợ
(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của Frère Trần An Phong)
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông liền
mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng
trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột
xoàn, trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng
trứng, hứng bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh
diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với
đồng nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm sự
với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho
ông, một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật
là người bạn đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết, thương
ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo
cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy
sinh nào cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm
thầm nhắc nhở, khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại
chẳng mấy khi để ý đến nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến thời
cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu,
ông bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc cho
em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung
sống, để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của anh.
Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang
chói sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh. Không
có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc
vui cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng cùng
lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất
lạnh, rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều,
nhưng theo anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh. Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát xuất
ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở.
Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một
người vợ yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu. Ngày
hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình
nhớ đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác mình. Cho dù mình có mặc cho
nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng
chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai - nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thư ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa trang,
sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư - mà mình đã vì qúa chăm lo
thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít
khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.
* * *
"Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,
Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ
Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ." (Thánh Vịnh 145: 1-5)
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn
(Suy niệm của Lm. Gioan B. Nguyễn Đình Lưu)
“Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ”. Lời thánh Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng chúng ta là con cháu của các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có phát
đi chương trình: “Những đứa con hiếu thảo”. Một trong những khuôn mặt
được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng ngày
đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với nhau ba mặt con. Thiếu sự
yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời.
Bài học đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu
đá để dành quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những
ngày đen tối trong chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt
vọng cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót qua
các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao,
những lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương của người mẹ
không hề xói mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình mẹ
đã chiến thắng. Năm 2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại
cuộc đời. Ổn định cuộc sống, anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để
có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh
hứa với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì, anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn
tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống với mẹ, là được ở bên
mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm lòng của các bà
mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời
tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày
tháng hạnh phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn nhớ
và lo lắng cho cha mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội
đã dành ngày 2 tháng 11 này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo
nơi những người Kitô hữu, cũng là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng được ấp ủ
trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc nôi của tình yêu, ngôi trường
của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy, chúng ta đã được bú
mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu thương của tình
cha, và tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ
đã phải đổ bao mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn
biết bao trăn trở lo lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm
nay, chúng ta thành người, có địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình
ổn định, lại chính là lúc mà các ngài nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các
ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân của chúng ta, đâu chỉ là công
sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có khi còn cả mạng sống
mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình ảnh rất quen thuộc để diễn tả sự hy
sinh ấy:
“Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng...”
hay:
“Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng,
con thương cha mẹ tính tháng tính ngày”.
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà cha
mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ
thương. Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái gì đó cho
các ngài, giúp đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người thân yêu
chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau thương của chốn hỏa hòa rên
xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hãy thực hiện điều mà
các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi
chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công
việc này, tự sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng
ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hãy gửi đến cho các đẳng
linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những
thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong
thánh lễ an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là
một điều hết sức cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là
tái hiện hy tế Thập giá của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ
cho các đẳng linh hồn, là mở ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của
chúng ta, là đưa các ngài từ chốn đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh
phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón nhận
vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa
cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải từng ngày chiến đấu
vật lộn với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng
ngày không cân sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với
niềm tin còn quá mỏng dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly đầy nước
mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao xuyến... thì các đẳng linh hồn
cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã chết để đền thay tội lỗi của chúng ta.
- Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta.
- Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là Đấng từ bi và giàu lòng thương xót.
- Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh và cầu
nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh
hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi hoang, không màng đến sự hy sinh
vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đã làm cho người mẹ mình
thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian còn
lại để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim Sơn, chúng
ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu của
mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ lòng thảo kính đối với các bậc
tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng
những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm
nay, xin vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội
lỗi và đưa các ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều cảnh ngộ của cái chết:
Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe nói tang lễ
cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi. Kể
ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN, sau năm 75, Ông
đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê người, ai
cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến tuổi
hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm
niềm vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không
người thân bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện
cho các con cụ. Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho
khoa thí nghiệm của bệnh viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất
bình thường, nếu như không có cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương
của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và phục vụ cộng đồng của cụ, muốn
đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng ở đây con cái cụ quá
ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả, mọi việc là
bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha thiết
của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ
để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ
sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt,
nhưng chẳng bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế
nào không biết, nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo
cảnh sát, người ta mới khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến hạm
Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống Đốc Missouri
sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta quăng xác 2 cảnh
sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn tự hào
về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng
ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho con người
không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu hình, kể cả cái chết. Con
người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ
thôi. Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, thì tôi thiết nghĩ những cái
chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những cái chết chỉ vì cho một
hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang phủ nhận cách thật
phũ phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự
chết, nhưng bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại khẳng
định họ tin vào thế giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai
nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái chết của mình, Ngài khẳng định
bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan hòa yêu
thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA.
Đức Giêsu đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi
hiện tại của cõi nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con
cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng yêu
thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình. Tình yêu phải phủ
trùm mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
5. Thân xác và linh hồn – John W. Martens
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết” (Ga 6,40).
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy ra? Đây là vấn nạn chúng ta thường
đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người đều hướng vọng về
sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục sinh trong
ngày sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy ra. Khi chúng
ta giã từ trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ
nhận, nếu chúng ta không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ
tôi vẫn nghĩ tưởng về sự phục sinh mai sau, và cho rằng khi tôi chết,
tôi sẽ được sống lại ngay lập tức trên quê trời, cùng với tất cả những
ai đã được quyền năng của Chúa cho sống lại. Đây không phải là cái nhìn
theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên nhiều Kitô hữu vẫn ngộ nhận rằng sau
khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê trời, tuy không mang hình hài thân
xác, nhưng linh hồn chúng ta được giải thoát khỏi những ràng buộc của
thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc
sống mai hậu, khi thân xác chết đi, là một điều rất khó giải thích, bởi
vì những bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới cách rời rạc, và không nhất quán
đưa ra một cắt nghĩa tổng thể. Về cuộc sống chúng ta sau khi chết đi,
Kinh Thánh chỉ mặc khải một cách tiệm tiến và dần dần.
Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai sau,
nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc
lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay,
được đông con nhiều cháu, được dư dật của cải, cụ thể có đầy tràn hoa
màu ruộng đất và đàn gia súc dư giả. Theo quan niệm cổ xưa, người chết
sẽ xuống âm phủ, là nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng
tối của sự chết bao trùm khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Cựu ước rất ít nói về sự phục sinh. Mãi về sau này, trong các bản văn
thuộc thế hệ sau lưu đầy, khi dân Israel trở về kiến thiết lại
Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước
công nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan điểm về số phận muôn
đời của người đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng,
tuy không hệ thống hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng
ta, cả xác lẫn hồn, sẽ được chỗi dậy trong ngày sau hết.
Trong khi khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau cái chết
để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan, bộ sách đã được
viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên tại Alexandria,
thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến “linh hồn những người công
chính” đã chết. Tác giả viết “Linh hồn những người công chính ở trong
tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như
đã chết rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ
xa rời chúng ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ
đang hưởng bình an (Kn 3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng
thay vào đó, là tình trạng con người thoát khỏi cực hình và được an
bình. Toàn bộ trình thuật đưa ra một tiến trình phán xét sau khi chết,
và nói về sự hiện diện tiếp mãi của Thiên Chúa. Nhưng bản văn cũng tiên
báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi đó linh hồn người
công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc, và Đức
Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).
Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương lai này sẽ được khai mở khi
Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ
được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. “Vì chúng
ta đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người đã chết, thì chúng ta
cũng sẽ nên một với người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm
6,5). Đức Giêsu đã nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội
lỗi và sự chết “ Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, những ai thấy Chúa
Con và tin vào Người Con, sẽ có sự sống đời đời, và ta sẽ cho họ chỗi
dậy trong ngày sau hết”.
Tất cả những ai còn sống trong thân xác trần thế, chúng ta đợi chờ cái
chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương quốc mai sau trong sự hiện
diện của Thiên Chúa. Họ cũng ngóng đợi sự viên thành của Vương quốc
nước trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời. Sách Giáo
lý Công giáo, điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô,
với một viễn cảnh tràn trề hy vọng: “Để được chỗi dậy với Đức Kitô,
chúng ta phải chết với Đức Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để
được cư ngụ với Chúa”. Sự chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi
thân xác tách rời khỏi linh hồn. Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân
xác trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế, cùng với những linh hồn công
chính đã ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ đợi Vương quốc của
Thiên Chúa, nơi đó tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa sẽ là tất cả
trong mọi sự.
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền Lâm
I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh thông
công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm
Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày
hôm qua, trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia
sẻ niềm vui và cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì hôm
nay, chúng ta cùng hiệp thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là
các đẳng linh hồn trong luyện ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp chúng ta
sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta khi
dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là đến
trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại
trừ một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là vâng
theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào
cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau
cũng được phục sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những người như chúng ta, đã cùng
được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn thần linh là Thánh
Thể, và đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu
hứa hôm nay rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn để
mất một ai, mà sẽ ban sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong
ngày sau hết. Tuy nhiên, trong thời gian còn sống, các linh hồn còn
vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được hoàn toàn xứng đáng diện kiến
Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công, chúng ta tin tưởng cầu
xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi người
chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó
họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong
ngày sau hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và sống niềm
tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua Đức
Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng hết
những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành
thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội “bằng lửa”).
Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì
dù chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức
Kitô toàn thể (rửa tội “bằng máu”). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu
mang tính vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà trong
bài đọc I, ông Gióp đã nói: “Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống,
và ngày sau hết khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người”
(G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II, thánh
Phaolo dạy: “Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là tội nhân…” (Rm 5,8).
Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng, chúng
ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng
sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc Thiên
Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn
sống nơi trần thế là: “…Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn
tang, xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc… Chính
Người là Đức Chúa ta hằng đợi trông…” (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là con cái
Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia
nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ
đời này sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm
8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng ta, là dù
quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn ngủi
trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và
nhận chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người “trộm lành” kia, theo Chúa
trong “giờ thứ 11”, nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn cần ít nhất hai
thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng “trộm lành” có tên là Dismat này là
một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh đã nên
thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và
tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được vào Nước
Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia
là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo
chúng ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin
vào Chúa Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng
nỗ lực bản thân mà là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong
sự kết hợp với ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin
là đủ, mà phải hành động cụ thể là sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng ta cùng
biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin
tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh
hồn đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những
người như chúng ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống
niềm tin đó còn thiếu sót, hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ,
nên bây giờ còn phải thanh luyện nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ lại vào
giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên
cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về việc
Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn
Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.
- “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”
Phải, “được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch tay”. Lời nói
của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm nên Lazarô
em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là:
linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.
- “Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho Thầy”
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên Chúa
vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần
chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào
lòng thì Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn
vàn ơn phúc.
- “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài
người ngày sau sống lại”. Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận rằng,
những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan
Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc
trường cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I,
sách Macabê đã ghi lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho
các chiến sĩ đã tử trận. Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự
hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện, dâng việc lành và xin lễ đền tội
cho các linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.
- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống lại từ
cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái
chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- “Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được sống”
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các linh
hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn
sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội.
Vì thế, lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu
Sự Sống của Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống
vĩnh cửu.
- “Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”
Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên trần
gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái
chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì
để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm
nhân biết kính sợ Người”. (Gv 3, 14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai nạn
đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng
anh đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một túp lều nhỏ để
trú ẩn và cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn về
chân trời cầu mong được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn
trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã
ngập trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đã xảy đến.
Mọi thứ đều tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng:
"Sao mọi việc lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!".
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của một
chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến để cứu anh. "Làm sao
các anh biết được tôi ở đây?" - Anh hỏi những người cứu mình. Họ trả
lời: "Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh".
Những người đã chết cũng đang sống trong hoài bão chờ mong. Họ chờ mong
có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm
dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt vào một bến bờ xa
lắc. Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn trông mong nơi
những người còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình đốt lều tạo thành khói lửa báo
hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về
với lửa, với nóng, với lời cầu xin “xin cứu giúp họ”.
Những ánh lửa vẫn là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã
khuất. Họ đang chịu sự hình phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh
luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng, họ bất lực vì không thể làm gì khác
hơn để cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
“Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường như ở dưới
lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị chìm ngập trong lửa
này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng
đen đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc thì bị
tung lên không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình họ cùng
với những đám khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp
nơi như những tia lửa của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất
thanh và rên xiết đớn đau tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và
rùng mình sợ hãi. Có thể nhận ra đám ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn
và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp chưa từng thấy. đen ngòm và
thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát. Chúng con làm sao có
thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đình nhân ái của chúng
con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa soạn trước cho chúng con
bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ rằng
chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu của
chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể
là bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đã gây nên
không biết bao nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không còn
cơ hội sửa lỗi hay lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để
được xứng đáng vào dự yến tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: "Tất cả những
người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn,
mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi
chết, nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên
Đàng. Hội Thánh gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn
là luyện ngục. Điều này khác hẳn với hình phạt đời đời" (các số
1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nhìn nhận phần
thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ý nghĩa lành
thánh; do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn
người chết để họ được tha thứ tội lỗi”.
Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đã ly trần. Họ chỉ
mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ.
Họ đang nói với chúng ta “Xin đừng quên tôi”. Xin cho chúng ta biết dùng
tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đã yêu thương
chúng ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen
Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
“Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được bao nhiều buồng?”
“Chỉ một buồng duy nhất.” – Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong cuộc
đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.
“Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết đi.” – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín
ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn
xuống như sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu
quả. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn,
cây chuối mẹ sẽ gục hẳn xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những phần
tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn
cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon
ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn nhìn thấy
một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình
ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ tiếp tục
dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của
cây chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài
học quý báu của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu
gương của sự hy sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những bậc làm
cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng ta sự
sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến
thân mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và
chấp nhận gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh mà các
ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao ca từ của
lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần
thơ ca tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều
thì ít, ai cũng cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào
cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con
của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa xứng đáng:
"Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn".
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình thương ấy thật bao la, bát
ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần gì nơi
chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành
giụm để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa
chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu
của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn
sống. Niềm mơ ước đó đã thể hiện qua những lời mẹ ru con:
"Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi".
Trong đạo hiếu đôi khi những người con còn dám chấp nhận hy sinh hạnh
phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng
mẹ cha:
"Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con".
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà chồng
hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng một
cuộc đời già nua của cha mẹ:
"Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy tinh thần thảo hiếu của người
Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng tháng 11 như là tháng ân
hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo hiếu luôn
nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ. Xin cho chúng ta
luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết kính trọng vâng lời.
Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối, kinh sáng
và trong thánh lễ hằng ngày. Amen
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
(Trích từ vietcatholic.net - LM. Nguyễn Phước).
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến khích chúng ta cầu nguyện
cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh Augustine viết, "Nếu chúng
ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen
cầu nguyện cho họ." Tuy nhiên, các nghi thức cầu cho người chết có tính
cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi mãi cho
đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu nguyện cho
các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho người
chết mới được thiết lập.
Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện Trưởng dòng Cluny, ra lệnh
rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt và hát kinh Nhật
Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ Các
Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp
nhận đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.
Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ này là sự thừa nhận bản tính
yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một đời sống trọn hảo, mà
hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có thời gian thanh
tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công Đồng
Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của
người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.
Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ này. Thời trung cổ người ta tin
rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất hiện vào ngày lễ này dưới
hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và họ đem thức ăn ra
ngoài mộ để yên ủi người chết.
Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn giáo vẫn trổi vượt. Người
ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi thăm mộ người thân
yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.
***
Có nên cầu nguyện cho người chết hay không là một tranh luận lớn khiến
chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo Hội thời ấy nên
Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với chúng ta, cầu
cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa với người
chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu,
dù còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên
Chúa.
***
"Chúng ta không thể coi luyện tội là một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa
ngục - hoặc ngay cả "một thời gian ngắn của hỏa ngục." Thật phạm thượng
khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng
chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa, vị huyền nhiệm của thế kỷ 15,
viết rằng "lửa" luyện tội là tình yêu Thiên Chúa "nung nấu" trong linh
hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau
khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng với Đấng được coi là đáng yêu
quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp đã cầm chắc trong
tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn" (Leonard Foley, O.F.M.,
Tin Chúa Giêsu).
***
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý,
nhưng như một hành trình trở về nguồn cội yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống Vĩnh Hằng.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết cách sống.
Amen!
(theo Maranatha 89)
9. Tưởng nhớ người đã ra đi.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm tình này cũng dẫn đưa chúng
ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống của con người. Nhưng
mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng mẹ đi ra. Và ai
cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo quan chôn
vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần gian về thế giới bên kia và
những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về nhau. Tất cả đã cùng
chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc sống niềm tin,
cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện trong trái tim tình yêu mến
của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình biết ơn của chúng ta,
cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ đến người qúa cố, chúng ta
muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này. Nhưng tất cả mọi
người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ đến thân
nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa
vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô
không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả những người đã qúa cố
cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh cùng thông công.
Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin
hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người
khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa,
bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã hy sinh suốt cả
cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó, nuôi dạy
uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những chặng đường đời sống vui
buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ phút thành công
cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời sống của
ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này luôn hằng khắc ghi trong tâm
khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn thánh hợp cùng hy lễ Chúa
Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những người được Thiên Chúa và
Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức cho các tín hữu
trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao giảng, làm nhân chứng cho niềm
tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục là ân đức của Chúa ban
tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm thấy an ủi vì có linh mục, vị
hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với trong cuộc sống niềm
tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có Thiên Chúa ở cùng ông trong
mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây dựng phát triển đời
sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng đất mẹ. Nhưng những người
tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ đạo không quên ơn
các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng thánh lễ, ngày
nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến cầu
nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng đã chọn đời sống
thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được Thiên Chúa
gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe tiếng Gọi của Chúa từ trời
cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng, chọn nhận sống đời
khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước Chúa và cho
con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm thầm cầu nguyện của các
Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình yêu Thiên Chúa
giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân, các vị ân nhân ngày
xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ niệm êm đẹp.
Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta đã trao cho nhau và xin dâng
các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống và ơn cứu chuộc của con
người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì thiên tai bão lụt,
hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ côi bơ vơ
không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy chúng ta: Họ cũng được Thiên
Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có chỗ ngồi đồng hàng với
tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên đới dâng lên bàn thờ Thiên Chúa
nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh hồn họ đã về nơi chín
suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng ta, và do chúng ta cùng
chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua. Những hy sinh
đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây dựng nên
ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng chung vai sát cánh xây dựng
nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa trước chúng ta, Cộng
đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời hay bị phá hủy sự sống
ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển thành hình nơi
cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài sự sống là những Thiên Thần
bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống
và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về các Thiên Thần vô tội. Các
Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho chúng ta trước ngai tòa
Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất, hay đã bị thiêu hủy thành
tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên Chúa, Đấng sinh thành
ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng tôi vẫn hằng hy vọng trông
mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi sống lại được hưởng
đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây kín bằng xi-măng cát đá.
Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi. Vì Ngài là Cha
đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra, giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây giờ tôi nhận lãnh trở lại.
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần nhắc
lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng,
tức giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau.
Nhưng có một góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta
sẽ cùng nhau chia sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày 11.9, mà
còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở Nhật
Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những
người đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những người
chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý thế gian, công lý của
con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin,
chúng ta sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa
muốn chúng ta hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong
những biến cố thảm thương như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải suy
nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút
nào với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng
như thế là chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất
vọng. Thế nhưng Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính
khi chết đi, họ sẽ được đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái
chết của họ hay sự đau khổ của họ xảy đến cũng giống như vàng phải được
trui luyện trong lửa, để chắt ra chất vàng tinh ròng và loại bỏ những
thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc. chính là
vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết bao
nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và
cho vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người
được tạo dựng ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần
linh, tất cả đều ở trong vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước
Trời với một tấm áo đầy bụi bặm, nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh
luyện đó không phải bởi sức lực của chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc
chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối của mình, thì đây, thánh
Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về sự chết, khi cầu
nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt trên nền
tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ
chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải
quyết, được soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi Canvariô
(dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời
thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói
ngời của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới
sa đọa tội lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu
và đưa Ngài đến cái chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn
có những con người thiện tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù
rằng trước mắt thế gian con người đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã
bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu nói: Quả thật, ngày hôm nay
ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống lại?
Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà
Ngài không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của
Ngài cũng vô ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của tất cả
mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác
đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những
người được Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành
tâm, thiện chí, nhưng vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo
lương tâm, Ngài vẫn đón nhận trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của
Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm "lành", vì nhờ có anh, như một dấu chứng nếu
chúng ta tin vào Ngài "Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng xin nhớ đến
con". Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập Thể? Biết
gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh
đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về
một sự linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt
lành. Những người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và
cho vào Nước Trời. 6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có
một số đông được tình yêu và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc
họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn định cho Thiên Chúa những người được vào
Nước Trời, mà không đặt niềm tin của chúng ta nơi lượng khoan hồng từ
bi và nơi công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ mình chịu chết trên thập giá,
nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi loài dưới quyền của
Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với Chúa Cha là
hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này hay
lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ
không bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và
yêu thương chỉ tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng trước các
biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn
đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá
trị, vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được
sống lại với Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy không
được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng
phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu
của Thiên Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh
luyện để trở nên tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự
tiệc cưới, vào Nước Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất
niềm hy vọng vào đời sống vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa, vì
thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng
cũng giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy
công phúc, là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có
thì giờ, chúng ta hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân
thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục
sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện, qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ
giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu nguyện của
chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng ta
sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu,
Ngài tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm
được rất nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ
còn sống, chúng ta chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì
giờ đây chúng ta có một cơ hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ cầu
cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho
những người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu
thương và biểu lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày
hôm nay, trong tháng này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức
yêu thương, nhớ đến các linh hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm mục
đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện
ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng ta, đã
được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên
chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên
Chúa, các ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương,
cầu nguyện, hy sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài
cho chúng ta sẽ có uy tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc
thì chia trí, lúc thì không xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử
Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy rằng: các thánh thông công là sự sống
rất sinh động, không phải là một chân lý chết ngắt, nhưng là sự sống
được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng ta vẫn liên kết với
các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để cầu nguyện
và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có thấy
chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình
yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ nhiều
hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý
nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và
phần rỗi cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời
chuyển cầu của các thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta
tin rằng) chúng ta vẫn tiếp tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc
biệt mỗi lần chúng ta cử hành thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ
tế đền tội cho chúng ta.
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ tiên
(CHẾT CHÓC VÀ THƯƠNG NHỚ)
(Bài giảng của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, bầu không khí của những ngày cuối năm dường như
làm cho con người vội vã tất bật hơn, ai cũng vội vàng và tranh thủ thời
gian để hoàn tất kế hoạch của một năm. Có lẽ cũng vì mải chạy theo dòng
thời gian và công việc, khiến cho nhiều người đã quên cả sự hiện diện
của người bên cạnh, quên cả người thân đang ở trong cùng một mái nhà.
Trong không khí vội vàng ấy, thì Giáo Hội đã dành cả một tháng cuối năm
để nhắc cho người tin hữu nhớ rằng: dù mỗi người có vất vả bon chen đến
đâu thì cũng phải nhớ đến chung cuộc đời mình, và cái chết là điểm hẹn
chung của mỗi người. Cũng trong tâm tình ấy, Giáo hội nhắc cho mọi người
nhớ đến và cầu nguyện cho các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, người thân,
những người đã ra đi trước chúng ta và đã đang an nghỉ trên mảnh đất
này, đồng thời biết quý trọng, biết ơn và thảo hiếu với những bậc sinh
thành những người đang còn sống.
Tất cả chúng ta sẽ phải chết, đó là sự thật không thể thay đổi, thế
nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ chết như thế nào và sau cánh cửa sư
chết, điều gì sẽ đến với chúng ta, niềm vui sướng hạnh phúc, hay đau
khổ hối hận đời đời, điều đó sẽ tùy thuộc ở nơi mỗi người biết sống hôm
nay như thế nào. Tất cả sẽ phải chết, vì đó là thân phận của con người
có sinh thì có tử, không ai có thể trốn tránh được. Cái chết nó vốn là
tiến trình tự nhiên, nhưng từ khi con người phạm tội, cái chết nó còn
mang một ý nghĩa khác, nó trở thành hình phạt cho con người, chính vì
thế, cái chết nó trở nên kinh khủng cho con người. Vì sợ hãi, nên con
người tìm cách tránh né nó, không dám đương đầu đối diện với nó, và vì
thế nhiều người còn tìm cách lẩn trốn nó bằng một cuộc sống ồn ào náo
nhiệt, một cuộc sống bận rộn với công việc và quay cuồng với tiền bạc
của cải, và khi cái chết đến khiến họ tiếc nuối và sợ hãi.
Mọi người đều phải chết, nhưng điều quan trọng là mỗi người sẽ chết như
thế nào và điều gì sẽ đến với chúng ta sau cái chết? Cứ nhìn vào những
nấm mồ của những người an nghỉ, chúng ta có thể thấy, nhiều người khi
sinh thời họ đã từng là những con người nổi tiếng, ngang dọc khắp nơi,
và bây giờ cũng chỉ có một nấm mồ, điều đó chẳng còn ý nghĩa gì, điều
quan trọng là tình trạng hiện nay của họ ra sao, họ đang ở nơi nào? Nhìn
như thế để mỗi người có dịp kịp thời điều chỉnh lại nếp sống của bản
thân, chúng ta chỉ có thể bước vào nhà của Chúa nếu từ bây giờ chúng ta
yêu mến Chúa và chọn Chúa. Chúng ta sẽ phải để lại tất cả ở trần gian và
ra đi với hai bàn tay trắng, vì chúng ta không mang gì vào trần gian,
thì chúng ta cũng sẽ không thể đem theo bất cứ thứ gì ra khỏi thế gian.
Chỉ một thứ tài sản duy nhất chúng ta có thể mang theo đó là tình yêu
đối với Chúa và tình thương của chúng ta đối với anh em, và chỉ có một
thứ hành lý duy nhất là các việc lành việc tốt, việc bác ái và hy sinh.
Mỗi lần ra đất thánh này không chỉ nhắc cho chúng ta về cái chết, mà
còn dịp nhắc cho chúng ta biết cách sống, phải sống thế nào cho trọn đạo
làm người và đạo làm con đối với ông bà tổ tiên. Đứng bên nấm mồ của
người thân, sẽ không chỉ có những giọt nước mắt thương nhớ, mà còn có
những giọt nước mắt của sự hối hận muộn màng vì đã sống vô tình hay phũ
phàng với người đã khuất.
Ngày hôm nay trong xã hội mọi sự đều tăng giá, chỉ có đạo đức làm người
là giảm giá và mất giá trầm trọng, con người đối xử với nhau càng ngày
càng như dã thú, tình cảm gia đình anh em ruột thịt cũng bị coi như hàng
hóa, đạo làm con đối với cha mẹ cũng bị tính toán, bao nhiêu cảnh đối
xử tệ bạc với mẹ cha đang diễn ra từng ngày xung quanh chúng ta. Có
nhưng người đã không tiếc lời chửi mắng cha mẹ, coi cha mẹ không bằng
một đứa ôsin trong gia đình, không chỉ chửi bới, nhiều kẻ còn đánh đập
nhục mạ những đấng đã dày công sinh thành dưỡng dục mình, người ta có
thể bỏ ra bạc triệu cho những bữa nhậu với bạn bè, nhưng cha mẹ lại
không được một lời hỏi thăm, một tấm bánh. Đám tang tổ chức cho lớn, xây
mộ cho to cho đắt tiền, việc làm đó không phài là báo hiếu, không phải
là lòng biết ơn, mà nó chỉ còn là giả hình, là phô trương che mắt thiên
hạ.
Thảo hiếu biết ơn tổ tiên và các bậc sinh thành không chỉ là bổn phận
của đạo làm con, mà còn là một đòi buộc của Đạo Chúa: Thứ bốn thảo kính
cha mẹ. Giới răn này đòi buộc chúng ta phải hết lòng yêu mên, kính
trọng, và biết ơn đối với cha mẹ của mình và cả cha mẹ vợ cha mẹ chồng
của mình, khi các ngài còn sống và cả khi các ngài đã qua đời; Vì chính
cha mẹ là những đấng đã cộng tác với Thiên Chúa để sinh ra chúng ta,
nuôi cho chúng ta khôn lớn với biết bao vất vả gian nan, bao hy sinh,
bao mồ hôi nước mắt. Cha mẹ chính là những người đã hy sinh cả cuộc đời
để nuôi chúng ta khôn lớn và dạy chúng ta nên người, vì thế chúng ta mắc
nợ các ngài món nợ sư sống và món nợ của tình yêu thương. Hãy kính
trọng các Ngài, thông cảm an ủi khi các ngài tuổi cao sức yếu, đừng nặng
lời, đừng khiến các ngài tủi thân, hãy chịu đựng và chăm sóc các ngài,
như ngày xưa các ngài cũng đã từng phải chịu đựng và chăm sóc cho chúng
ta. Hãy lo lắng cho phần thiêng liêng của cha mẹ bằng việc giúp các ngài
được lãnh nhận các bí tích và ơn Chúa để nâng đỡ cho tuổi già của các
ngài, hãy làm tất cả những gì tốt nhất cho cha mẹ khi các ngài còn sống,
vì khi cha mẹ mất đi, sẽ mãi mãi không bao giờ tìm lại được.
Không chỉ biết ơn khi cha mẹ còn sống, mà còn phải biết ơn cha mẹ khi
các ngài đã qua đời, bằng việc đọc kinh cầu nguyện, bằng việc hy sinh
hãm mình, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài, nhắc nhở cho con cháu biết ơn
các bậc tổ tiên. Hãy nhớ đến cha mẹ chồng cha mẹ vợ bằng việc chu toàn
việc hiếu thảo hương khói, giỗ chạp trong gia đình, đừng để mang tiếng,
những người có đạo là những người vô ơn bất hiếu với tổ tiên.
Hãy biết ơn và thảo hiếu với tổ tiên bằng việc giữ lấy nề nếp gia phong
của gia đình, thực hiện và làm phát triển tài sản tinh thần mà cha ông
đã để lại cho con cháu qua việc giáo dục con cái nên người, qua việc giữ
gìn đạo đức gia phong của gia tộc, bảo vệ danh dự của tổ tiên, đừng để
cho đồng tiền cho sự nghèo đói làm cho chúng ta trở nên bần tiện nhỏ
nhen. Đừng quên giáo dục con cái biết sống hiếu thảo đối với ông bà cha
mẹ, bằng chính gường sáng của mình qua việc tôn kính thào hiếu với ông
bà, vì sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đấy; chúng ta gieo giống nào thì
sẽ gặt quả ấy, chúng ta vạch mực đến đâu, thì con cái chúng ta sẽ đi đến
đó. Vì thế không có bài học nào sâu đâm và lay động cho bằng bài học
bằng gương sáng của cha mẹ.
Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa đồng thời cũng đòi buộc bổn phận của
cha mẹ đối với con cái, trước hết là bổ phận giáo dục, nuôi dưỡng. Hãy
giáo dục dạy dổ cho con cái sống đúng với đạo làm người làm con Chúa,
sống đúng với phẩm giá con người. Đừng quá chú trong đến việc học hành
văn hóa mà bỏ qua hoặc coi nhẹ việc giáo dục đức tin cho con cái, và xây
dựng nếp sống đạo đức cho cả gia đình. Cha mẹ hãy tạo nên một bầu khí
đạo đức và cầu nguyện cho gia đình, và trở thành gương sánh cho con cái
trong việc cầu nguyện và các việc đạo đức. Hãy tập cho con cái yêu mến
và hăng say làm việc tông đồ trong giáo xứ theo lứa tuổi của mình, vì
khi còn nhỏ, các em có thói quen và tinh thần tông đồ, thì sau này các
em sẽ trở thành người tín hữu nhiệt thành. Hãy làm cho gia đình mình mỗi
ngày trở nên ấm cúng thuận hòa qua các giờ kinh sáng tối mỗi ngày, qua
các bữa cơm chung đầm ấm. hãy cố gắng làm cho bữa cơm gia đình thật sư
là lúc mọi người được tràn ngập niềm vui và sự chia sẻ, đừng biến bữa
cơm trở thành tòa án để kết tội nhau.
Nhưng người cha, hãy thực sự là cột trụ trong đời sống của gia đình, là
điểm tựa cho vợ con và cả nhà. Các người mẹ hãy dùng đời sống đạo đức
và sự đảm đang của một phụ nữ làm cho gia đình thêm ấm cúng, hãy cùng
nhau làm cho căn nhà cùa mình rộn rã tiếng cười, đừng biến gia đình mình
trở thành căn nhà trọ sáng đi tối về. Các người làm con hãy góp phần
mình làm vơi đi sự nhọc nhằn của cha mẹ bằng việc sống ngoan ngoãn vâng
lời và chịu khó học tập và làm việc. Mỗi người hãy sống thế nào để khi
ngườui tân có mất đi, mình sẽ không phải hối hận vì đã chưa làm được gì
cho họ. Amen
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
(Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến Tế.
Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài
bài học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn
đệ về con đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người
đến với Thiên Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài.
Ngài chính là vinh quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha.
Ngài còn hứa ban Thánh Thần cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh
lệnh của Ngài. Chúa Giêsu còn nói đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn
đệ qua hình ảnh của cành nho gắn liền với thân nho. Cành nào kết hợp với
cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa trái. Cành nào lìa cây sẽ
bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền với cuộc sống của Thầy, nên cũng
được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu thế gian có
ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi vì các
ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: “Thầy nói
với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.Trong thế
gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã thắng
thế gian” (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, giờ đã
đến! Xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã
ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời,
đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết
Đấng Cha đã sai đến, là Giêsu Kitô».
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho những ai đến với Người. Và
sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận biết Thiên Chúa
Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ đấng nào khác. Và
nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng
Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là
Đức Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy
cho chúng ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: «Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì
những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng
vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yeu
thương con trước khi thế gian được tạo thành».
Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống của Thầy, sự vâng phục trong
sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự chiêm ngưỡng vinh quang
của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu liên kết Chúa Cha và
Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự hiện hữu con
người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở thành môn đệ của Ngài, hiện diện
trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự sống của Thiên Cha:
đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu thì người tin
vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi
chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa
Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn
đệ và vẫn liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ,
các môn đệ không thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông
trong sự vắng mặt. Bằng chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các
môn đệ và Ngài biết rõ những điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời
ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ
trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu
cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ vẫn luôn cảm nhận được sự
hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các ngài sống trong điều
kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn luôn gắn bó
với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là “Bánh Hằng Sống từ
trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ ban,
chính là thịt TA, để cho thế gian được sống”. Ngài còn nhấn mạnh: “Ai ăn
thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống
lại trong ngày sau hết”.
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân trong sa
mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được sự
sống đời đời. Câu hỏi “làm thế nào có được sự sống đời đời”, là thao
thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ
Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được
Thiên Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lý trí, nhưng còn
phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn Tin
Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc “ăn thịt và uống máu Người”
“Ăn thịt và uống máu Người” nói lên sự hiệp thông giữa người môn đệ và
Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành nho gắn liền với thân nho. Những ai
ăn và uống máu Người thì có sự sống của Người thông truyền ngay khi còn ở
đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa cho
sống lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống
lại trong ngày sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng
người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; “Như ông Môi-sê đã giương
cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương cao như
vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, đã cố gắng cả cuộc
đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đã nổ lực
không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để
bươc theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình. Chỉ có Chúa mới
biết sự thiện chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa
đánh giá đúng mức những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đã từng sống trong đức
tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng, chắc
chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là
Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế
giới khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang
thông hiệp với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu
nguyện để họ được luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ
ngày sống lại cùng với Chúa Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện cho
chúng ta có dịp thông công với những người đã khuất. Vì thé từ trưa ngày
lễ Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, nếu ai
viếng nhà thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai
viếng nghĩa địa, cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những
ơn đại xá này sẽ được nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.
13. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đình Thái
(Ga 19, 1.23-27a ; Rm 5, 5-11; Ga 6, 37- 40)
Chúng ta vừa bước vào tháng 11, tháng dành riêng cầu nguyện cho các kẻ
đã qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà Giáo Hội, qua các Thánh Lễ, lại
chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo Hội muốn chúng ta sống ý
thức hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này. Như vậy, hôm nay quả
là dịp tốt để dâng lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã khuất; trong đó có
ông bà, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu và các bậc thầy của chúng ta nơi
Chủng Viện này. Nhờ Ơn cứu chuộc của Đức Kitô, xin cho mọi người đã
“vắng bóng”được tha thứ mọi tội lỗi và hưởng phúc lộc Thiên đàng”.
Để xứng đáng dâng lễ và cầu ơn, chúng ta xin Chúa thanh luyện chúng ta trước.
Giảng lễ:
I. Tôi tin có đời sau.Tôi tin sự sống lại và sự sống vĩnh cửu.
Chẳng phải là tín hữu ngày nay chúng ta mới hùng hồn tuyên tín như thế
(Credo). Nhưng từ xa xưa, Gióp đã tuyên bố: “Sau khi da tôi đây bị tiêu
hủy, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. Chính tôi
sẽ được ngắm nhìn Ngài, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải là người xa lạ”
(G 19, 26-27a). Ông tin có đời sau. Ông tin rằng Đấng hằng bênh vực ông
vẫn sống và sau cùng, Ngài sẽ đứng lên trên cõi đất để cứu ông. Niềm
tin của ông bền vững, chắc chắn đến độ ông ước ao lời ấy của ông được
tạc vào đá cho đến muôn đời.
Là tín hữu, chúng ta xác tín mạnh mẽ vào lời của Đức Giêsu, Con Thiên
Chúa, là Đấng Cứu chuộc chúng ta, khi Người nói: “Ý của Đấng sai tôi là
tất cả những kẻ Ngài đã ban cho tôi, tôi không để mất một ai, nhưng sẽ
cho họ sống lại trong ngày sau hết” (Ga 6, 39). “Ai tin vào Người Con,
thì được sống muôn đời” (Ga 6, 40).
Không để mất một ai nghĩa là thế nào? Thánh Phaolô, qua thư Rôma, giải
thích rõ ràng rằng “ngay khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô đã chết
vì chúng ta. Người chết cho chúng ta được cứu, khi chúng ta không có sức
làm được gì để cứu lấy mình”. Không để mất một ai là “bằng chứng Thiên
Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Ngay khi chúng ta còn thù nghịch với
Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn cứu chúng ta khỏi cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa, bằng cách cho chúng ta được nên công chính nhờ
máu Đức Kitô đổ ra. Làm như vậy là để chúng ta được hoà giải với Thiên
Chúa. Giải pháp ấy là kế hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 5, 6-11).
Chúng ta nhắc lại Lời Chúa như vậy để củng cố thêm niềm tin của chúng
ta vào đời sau, vào sự sống lại và cuộc sống trường sinh hạnh phúc với
Chúa. Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện cho những người đã chết được,
nếu tiên vàn chúng ta còn hiểu nhạt nhoà mơ hồ về Tình yêu Cứu độ của
Thiên Chúa được thực hiện trong Đức Kitô như thế.
II. Phải cầu nguyện cho những vong nhân.
Cầu nguyện cho những người đã khuất là một bổn phận không thể xao lãng của chúng ta.
Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa không để mất một ai là một chuyện. Nhưng
Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng tinh thần hiệp thông luôn cầu
nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời, chứ không được ỷ lại vào Chúa.
Công đồng Vatican II nhắc lại mầu nhiệm Giáo Hội cùng thông công như
sau: “Trong số những môn đệ Chúa, có những kẻ tiếp tục cuộc hành trình
nơi dương thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này nhưng đang được
tinh luyện và có những người đang được chiêm ngưỡng rõ ràng Thiên Chúa
Ba Ngôi vinh hiển. Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức
mến và truyền thông cho nhau những của cải thiêng liêng. Nhận biết đúng
đắn sự hiệp thông này trong toàn Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ buổi đầu,
Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, cầu nguyện cho những người đã chết”.
Hơn nữa, người tín hữu đã chết trong Ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa sạch hết
mọi tội, và chưa đền tội bằng những hình phạt tạm thời đời này, thì
không thể vào thẳng Thiên đàng được, vì chưa xứng đáng hưởng Thánh Nhan
Chúa. Thánh Gioan cảnh báo rõ trong sách Khải huyền: “Tất cả những gì ô
uế, cũng như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không được vào
thành…” (Kh 21, 27). Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện xong mới vào được
Thiên đàng. Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công đồng
Florence (1439) mới định tín có luyện ngục để tinh luyện các linh hồn.
Purgatorium, chỉ luyện ngục, có nghĩa là tinh luyện.
Bởi thế, hằng ngày Giáo Hội dâng lễ nài xin Ơn tha thứ cứu độ của Chúa
Giêsu cho các linh hồn; suốt tháng 11 này và đặc biệt hôm nay ngày 2.11
còn tăng lên gấp 3 (mỗi Linh mục được làm 3 lễ trong ngày). Giáo Hội kêu
gọi chúng ta luôn nhớ về và sốt sắng cầu nguyện cho những người đã
khuất. Cầu nguyện là góp phần mình vào mở kho Ân xá, nhường cho các linh
hồn nơi luyện ngục, khi họ không thể làm được việc lành cứu mình. Giáo
Hội còn khuyến khích đi viếng nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện
cho các linh hồn, vì: “Mồ thật chôn các người chết là trái tim của người
sống” (Tục ngữ).
Thế nên, người sống có nhớ đến, có cầu…thì người chết mới mát mẻ thanh
nhàn. Thật ra, không phải cầu cho người “chết”. Nếu chết là chấm tận,
hết chuyện thì cầu làm gì và ích lợi gì? Nhưng là cầu cho nguời vượt qua
cõi chết, đi vào cõi sống muôn đời.
14. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ hình
ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ.
Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và cũng để
tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã
nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: “Đau khổ của tình
yêu”.
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn biệt
người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần
bàn tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ hơn lại
là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu, trong
số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: “Có một ông nhà giàu nọ,
mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người
nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu
đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho
đỡ đói. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục, đang khi
chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng xa,
và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ
Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào
nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần phước
của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ
Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa
chúng ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn
qua bên con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng
không được” (Lc 16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng phải
chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự
con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung
sướng, an nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì
là làm hại ai. Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống
thiếu thương cảm, thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái
lại, người ăn mày kia đã được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh
khổ, anh đã sống nêu gương về đức khiêm nhường, hiền lành và chân thật.
Không được người dư dật chia sẻ, anh phải sống đói khổ, nhưng anh vẫn
chia sẻ với mấy con chó đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra một
cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó
đã thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ đã trở
về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho
họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời họ. Chúa
an ủi họ rằng: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau ốm mới
cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu
cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi
người tội lỗi” (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng kín,
khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn
vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối. Họ cảm
thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an
lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó
thác tuyệt đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là
những dòng nước mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng nước
mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính mình khóc,
tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi
người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình
tôi, với những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra
chính mình trong sự thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình. Nhìn ảo về
những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh, tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại trong
tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: “Hãy ở lại trong Cha, như
Cha ở lại trong các con” (Ga 15,4).
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ trong
trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã
qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ
nữ trẻ, họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình
cơ thể của cô có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu
nguyện, cơ thể nghiêng về phía trước, và có một vật gì đó được hai tay
của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình qua
khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy
đã hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh
và cứng của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp đổ
khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút
kéo trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh
quỳ xuống, và lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ
thể đã chết. Rồi đột nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: "Một đứa bé!!!!
Có một đứa bé!".
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung
quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một
tấm chăn hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực
hiện một hành động hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà
của cô rơi xuống, cô đã dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con
trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ
nhấc bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở tấm
chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin
nhắn văn bản trên màn hình, nói rằng, "Nếu con có thể sống sót, con phải
nhớ rằng mẹ rất yêu con"...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và qua
bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. "Nếu con có
thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...".
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân tình cha,
tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi chết, thờ thế nào
cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần nuôi con
của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa xứng
đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói
tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha
mẹ có thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ
đại nhưng cha mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành
cho con. Vì thế mà có ai đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình yêu
vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là
một tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của cha
mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó
đếm hơn những vì sao:
"Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu từ".
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc gánh
chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:
"Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình".
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la, bát ngát,
nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì nơi chúng
ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm để
trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi
gìa chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình
yêu của chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài
còn sống. Và khi các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của
chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho con
chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"... Đó chính là thông điệp
của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời
đang nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong
tình cha tình mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó
mãi mãi theo chúng ta trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn
phận mà chúng ta phải báo hiếu qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể
hiện của lòng thảo kính vâng phục các ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ
hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Yêu thương thể hiện qua lời
cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của cha mẹ
thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích
luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái,
hy sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà
phán xét của Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân
thành của chúng ta là lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính
tổ tiên. Amen.
16. Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là có những sự gì xảy ra cho các
linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà thôi cũng đã đủ cho chúng
ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào ngày phán xét,
chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn định. Mặc
dù linh hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu
những sau lỗi, biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy Chúa, con không thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm thấy: Chưa bao giờ tôi đã
lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa mãn với chính bản
thân mình?
Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong cuộc
sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì đây, luyện ngục sẽ là nơi để
chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa thanh luyện càng
bừng cháy để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bã, thì
hình ảnh Chúa càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi hình ảnh ấy
đã trở nên chói lòa, rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và
chúng ta sẽ được bước vào niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hợt khi cho
rằng: Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng với lòng nhân từ và
thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không,
mà chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận được
quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh thiện và công thẳng
tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo: Thiên Chúa thật công bằng và phán quyết của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác quyết: Ngươi sẽ không ra khỏi đó cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như tương
phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với nhau qua tín điều về luyện
ngục.
Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi phải đền bù và thanh luyện, thì
lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những cách thức giúp đỡ để
được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta thấy được hai khía
cạnh của luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình phạt ở luyện
ngục cũng giống như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là
ở luyện ngục thì chỉ tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và hình
phạt đau khổ nhất chính là phải xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta
nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không
phải chỉ có thế.
Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không phải
là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay ma quỉ,
nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đã được bảo đảm và
họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện
ngục.
Vậy luyện ngục là gì?
Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng ở đó có niềm vui.
Hay nói một các khác: Luyện ngục là thiên đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì hiện tại còn đang phải tạm thời xa cách Chúa. Nhưng đồng
thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được nhìn ngắm tôn nhan Chúa, mặt
đối mặt.
Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một sự an ủi và khích lệ, khiến
chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín điều này còn là
một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong cuộc sống
này: Đừng bình thản trong tội lỗi.
Đồng thời cũng là một thôi thúc: Đừng thất vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy thêm lời cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết:
Cầu nguyện cho những người đã chết để họ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị cứu rỗi.
17. Nghĩ về sự chết – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý hết sức rõ ràng và chắc
chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay trong con người của
tôi.
Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi người. Nó là một vấn đề
chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi vì nó đặt ra câu
hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự chết có gì
không?
Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được trong nhiều sách, nhất là
sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường chỉ hiện lên một
cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc chính ta đã
có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là một kết luận lạnh lùng của
triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh thiêng thăm thẳm chứa
trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi hiện tượng sự
chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường nơi người sắp chết rất đa dạng. Có thể là
những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những nắm bắt bâng khuâng,
những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có thể là những
bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi tiếc
nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy
bình an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin
tưởng đến từ cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh những trực cảm nội tâm: Đã tới
lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải bỏ lại tất cả. Đã tới
lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách nhiệm: Trách
nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.
Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã lẩn trốn lương tâm. Nhưng
lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở về trình diện rất
nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó sẽ nhận ra: Sự sống của mình
là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa càng là một ân huệ
quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn làm con Chúa,
để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những chặng
đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ
thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có những phát triển đạo đức, và trái lại cũng có
những phát triển tội lỗi. Với những phát triển tốt, người sắp chết cảm
thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những phát triển của mình là xấu, nhiệm vụ được trao
đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi. Bởi lẽ hậu quả sẽ vô
cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai ngả: thiên
dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta về cái chết sẽ không phải là
sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không được lên thiên đàng,
nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ có một đường phải chọn, đó
là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là sự sống (Ga 14,6).
Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước Người. Người
là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa. Điều
quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn
gọi, là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình,
dấn thân sống theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu
căng cần phải bị loại tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được
thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của mình như người được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo và chết như người truyền giáo. Truyền giáo
một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm này. Nghĩa là một địa
phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải tỉnh thức lắng
nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người truyền giáo
vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên đới.
Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi
có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn
trong tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của mình như người khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời Chúa: "Thầy ban cho chúng con
một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương
các con" (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
"Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì
chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương, thì ở lại trong sự
chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không
kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều này,
chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng
ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em.
Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà
chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong
người ấy được? Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu
thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và
bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó, chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng
về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa" (1Ga
3,14-19).
"Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương
chúng ta trước. Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em
mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ
trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây
là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa,
thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga 4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có được hoàn thành hay không, đó
là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa sẽ phán xét công minh
điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi đã lỗi phạm
nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần chết mới lo, mà phải lo ngay
bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi mới mình nên tốt hơn.
Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn lại và những phương tiện
trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một cách tốt đẹp nhất.
Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân mình bằng sám
hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi chúng ta làm hết sức mình, thì
những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và hân hoan. Với hân hoan và
tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta bình tĩnh đi về
sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng tốt đẹp hơn
trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
18. Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây, người ta đều có truyền thống
thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính cẩn. Ngày xưa, người
ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an táng trọng thể,
một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình, tiếng khóc
biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi thương
nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở
về nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh
luyện nữa.
Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện ngục. Anh ta thấy mọi
người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá đầu gối. Có
người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người đều cười
nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như
vậy, thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một người trong bọn trông giống
như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố: Hết giờ nghỉ xả hơi
rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên trời.
Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì ra đó chỉ là một giấc mơ.
Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn hầm hay một vũng bùn như
trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện ngục chính là nơi
các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng được hưởng
kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đã được cứu độ, nhưng chưa phải
là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục thực sự là một dấu chứng
của lòng Chúa xót thương.
Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng ngày đọc kinh sớm tối kẻo
mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả lời: Không cần đọc
nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng cả giường
lẫn chiếu.
Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, thì chúng mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm rồi.
Thực trạng bất toàn của con người khiến chúng ta cảm thấy không xứng
đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa, bởi vì Ngài là
đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là hai cái gì đối kháng nhau,
như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó, tội lỗi làm cho
chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống lại Ngài
và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy,
Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa
nào trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng thương còn mang dấu ấn của tội lỗi, thì luyện
ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền đường của thiên đàng.
Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề nhất không phải
là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan Thiên
Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc
trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ không rời xa luyện ngục,
cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn mang lầy một chút dấu
vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau cho các ngài,
khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài
những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi
vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng
là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách
sâu xa và có ý nghĩa nhất.
19. Bóng câu cửa sổ
Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong,
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 103, 15-16)
Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung tín được loan ra: chuyến
bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên phi-hành-đoàn,
cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đã rớt xuống
Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng 10
xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong lòng biển cả.
Trong số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn tháng. Vì
thân-mẫu là người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để được
rửa tội.
Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã lao xuống biển cả. Đêm 16
tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai duy-nhất của
cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ là
Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương.
Một tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài.
Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được tìm thấy.
Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa khủng-khiếp đã làm
chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã cướp giựt bốn máy
bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc trời
của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh
của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba
ngàn người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về
kinh-tế, tài-chánh, ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự...
Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào sáng thứ tư (ngày
12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đã mô tả đại-họa đó là
"một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc phạm ghê-gớm
cho phẩm-giá con người."
Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm
sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã gục dưới họng súng
tấn-công của một địch-thủ.
Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang nối tiếp nhau lìa đời bằng sự
chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được
nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ cho chúng ta hiểu rằng
tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một lời báo trước.
Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt theo đuổi danh-vọng, thú vui
hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ hết sức ngạc-nhiên với ý-nghĩ là
họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời. Con người trong
thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lý-tưởng quá ư
trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: "Chúng ta đừng quan-tâm đến sự
chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm kiếm không
phải là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những
khát vọng của chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về
cõi đời đời, và thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi
phong-phú về tiền bạc và đủ các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả
thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ đến sự chết." Tuy-nhiên, sách
Giảng-Viên đã nói rõ ràng: "Có thời để sinh ra, có thời để lìa đời." (Gv
3, 2).
Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống đến chín trăm tuổi rồi mới qua
đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi rồi từ trần. Ông Hê-nóc
sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cõi đời. Hơn sáu tỷ
người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong vòng một
trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai.
Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: "Thân phận con
người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét." (Dt 9, 27).
Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi vượt qua giới-hạn của không-gian
địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng trên cương-vị con người,
chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt đất. Có rất ít
bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên, chân-lý
bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự chết
và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời
Thánh-Kinh: "Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét,
thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội."
Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: "Ở đời nầy, chỉ có hai việc
chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp thuế." Chúng ta thường
lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề quan-hệ hơn là sự chết.
Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần mỗi người chúng ta
một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: "Thế thì của Xê-da, trả về
Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa." (Mt 22, 21).
Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa đổi hình phạt đang chờ đợi
mình thành một án treo; người nghèo cũng không thể nói với sự chết cho
mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con người từ lúc mới lọt
lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người đông-đảo
họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và "còn lại một mình tôi" trong nơi
hoang vắng...!
Thánh Giacôbê đã viết: "Anh em không biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra
sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất hiện trong giây lát, rồi lại
tan biến đi." (Gc 4, 14). Như đám sương mù buổi sáng, rất mong manh, bốc
thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất giữa ban ngày, đời
người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại tan ngay.
Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái thoi dệt cửi: "Ngày đời tôi thấm
thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một tia hy-vọng." (Gióp 7, 6).
Một văn-sĩ đã viết: "Chỉ khi nào thời gian, với một bàn tay không biết
chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời mình để nung đốt lò
dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những trang còn lại của
đời sống mình không còn bao nhiêu nữa". Tiên-tri I-Sai-A đã suy ngắm:
"Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng nhiên bị
tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ." (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử quyển I
cũng viết: "Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa sổ,
không để lại dấu vết." (1 Sb 29, 15).
Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đã lấy đồng hồ trong túi áo ra
rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: "Xin ông làm ơn giữ hộ cái
đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp bước vào cõi
đời đời."
Thánh Gióp cũng đã từng than-thở: "Vì tuổi con người đã được Ngài
ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở Ngài. Ngài định giới-hạn
rồi, sao có thể vượt qua." (G 14, 5). Tác-giả Thánh-Vịnh cũng đã nói:
"Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, một
cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết mình." (Tv 103:
15,16).
Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với một tốc-độ tăng dần mãi dường
như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già. Những ngày của chúng ta
trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: "Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi
vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi thần khí Đức Chúa
thổi qua." (Is 40, 6-7).
Trong những giờ phút cuối cùng đời mình, Cesar Bergia đã nói: "Trong
suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu mọi sự, trừ sự chết, và bây giờ,
ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không chuẩn-bị được gì
trước cho sự chết của tôi."
Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh, suốt đời mạnh khỏe, nhưng
bất thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ-giả cõi đời, anh đã
rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời gào thét
sau đây: "Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đã làm
khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu
trước mặt Ngài?" Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã
cảnh-cáo: "Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng,
thì làm sao chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ
cao-quý như thế?" (Dt 2, 3).
Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết những câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':
"Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi tiền chồng chất.
Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh và nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận
Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi thanh-thản, bình-an.
Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười nhạo tôi.
Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ, không có thời-giờ, nhiều
chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc rỗi linh-hồn,
nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
Tôi trình-diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự sống.
Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: 'Cha không tìm thấy tên con, vì có
lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc nào có thời-giờ.' "
Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống của chúng ta ở trên mặt đất
nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn tiếp-tục sống động trong
cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói: "Tôi cảm biết có
sự sống tương-lai trong tôi." Cyrus cũng đồng ý-kiến: "Tôi không thể
nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một thân-thể hay chết."
Chính Emerson cũng nói: "Bằng chứng hiển-nhiên về sự bất-diệt của
linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi kết-luận trái
ngược." Mark Twain đã viết: "Tôi không bao giờ tìm thấy mảy-may sự thật
có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có khuynh-hướng
chờ-đợi nó."
Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua Hezekiah: "Hãy lo thu xếp việc nhà, vì
ngươi chết, chứ không sống nổi đâu." (2 V 20, 1). Do môi miệng của
tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi người: "Ngươi hãy
chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi." (Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn "Thiên-lộ lịch-trình", đã nói lúc ông gần qua
đời: "Các bạn đừng than khóc cho tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các
bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô:
Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân bởi công-lao cứu chuộc của
con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau trên nước
sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng trong cõi đời
đời."
Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút chóng qua của đời người để
chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: "Thiên-Chúa yêu thương thế-gian đến nỗi
đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời." (Ga 3,16).
"Sinh ký tử qui" (sống gởi thác về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác
trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong cuộc sống cũng như giờ phút
lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: "Vì đối với tôi, sống là Đức
Kitô và chết là một mối lợi." (Pl. 1,21).
Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội
và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh "Dâng Mình" của Cha Charles de
Foucauld như sau:
"Lạy Cha, con phó-thác mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi con mọi sự
đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng luôn
luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được trọn-vẹn trong con, trong
tất cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là
Chúa Trời con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con dâng
linh-hồn con cho Cha. Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con
mến Cha và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình
con trong tay Cha, không do-dự đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì Cha là
Cha của con. Amen."
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức, Ngài
kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: “Thiên Chúa sẽ
nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã sống cuộc đời rất
tốt lành?” Không do dự, chú bé đáp: “Hãy lên trời sống với Ta”. Rồi linh
mục hõi một em bé gái: “Còn những người sống cuộc đời rất xấu xa thì
sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?”. Cô bé đáp: “Các người không được lên
trời. Các người phải đi nơi khác”. Linh mục nói tiếp: “Vậy Thiên Chúa
sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu
đến nỗi phải vào hỏa ngục?” Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời
theo kiểu mới bằng những lời rất đúng: “Thiên Chúa sẽ nói: “Ta sẽ nhìn
các con”.
Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lý mà chúng ta cần nhắc
lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này
được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong luyện hgục. Chân lý
thứ nhất là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu
đến nỗi phải vào hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời? Chỉ
Giáo hội công giáo có câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác
được em bé gái diễn tả là: đau khổ lớn nhất của luyện ngục là các linh
hồn ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa, vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ
sau này, cho nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa về sau.
Bạn không tìm thấy từ “luyện ngục” trong Thánh Kinh, nhưng bạn có thể
tìm được ý tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một số tội
được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ vì từ
chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào đó vì
một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối
cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này
không hoàn thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện
(ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo Do
thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết: “Cầu nguyện cho người đã
chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi”
(Amac 12,46).
Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa vì họ cũng không
thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ
đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn xem Thiên
Chúa. Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ vì lửa.
Nhưng họ vẫn vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng ta.
Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt
nhờ thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: “Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân
thuộc chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại,
xin cho tất cả được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa”.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
21. Bên kia sự chết
Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là Augustino
như sau: "Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn tiệc
thánh".
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van xin
tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước
khi từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta
lãng quên những lời van xin thống thiết ấy. Cần được thương, cần được
nhớ: đó là khát vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang
đảo cô đơn. Dưới cái nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho,
còn chứng tỏ một lòng khiêm tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng
manh bất lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi vào thế
giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp "các thánh thông công",
Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ cầu
nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11
hằng năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho
các linh hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng
với những kinh nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong
Giáo Hội. Công đồng Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã
viết như sau: "Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho
những người đã chết, vì cầu nguyện cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi
là một việc lành thánh...".Nói về sự bầu cử của các đẳng linh hồn, Công
Đồng viết như sau: "Khi được về quê Trời và hiện diện trước nhan Chúa,
nhờ Người, với Người và trong Người, các thánh lại không ngừng cầu bàu
cho chúng ta bên Chúa Cha...". Sự trao đi nhận lại đó vừa là một việc
bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã thực sự củng cố Giáo
Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.
Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một ngọn
bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy
bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng
ta đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách
vô cùng huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với
chúng ta bằng một sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết
không còn là một chấm hết cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh
hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã làm cho những người đã chết được sống và
cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư với những người chết. Vâng, chỉ có
Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử. Chỉ có Tình Yêu mới làm cho
con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có Tình Yêu mới mặc cho
những nghĩa cử của con người sự bất diệt.
Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta săn sóc
một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế,
hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta
đang tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông
dự vào sự sung mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong
ngày hôm nay khi chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin
Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy
vọng cho chúng ta.
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
(Lc 23,33-34.39-43)
Câu hỏi gợi ý:
1) Thiên Chúa không muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt linh
hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?
2) Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo này là
gì? Là tình yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay
sự gì khác?
3) Người gian phi đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại được
Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên
đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay tình
yêu? lòng vị tha?
CHIA SẺ
1- Niềm tin của người Công giáo về luyện ngục
Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công giáo chúng ta đặc biệt quan
tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải
chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó
được Giáo Hội định tín: «Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được
thanh luyện sau khi chết với những hình phạt được gọi là "Thanh Luyện"»
(DS 856/464).
Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn hảo,
hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ,
độc ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế
thật là hợp lý, vì đó là một «nơi» hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh
thiện, là «nơi» chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là
«nơi» thì chỉ là tạm gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa
ngục không phải là nơi chốn, là không gian vật lý cho bằng là những tình
trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn: Thiên Đàng là tình trạng tâm
linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau khổ, của những tâm hồn
hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm linh hết sức đau
khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ...)
2- Thiên đàng đòi hỏi người trong đó phải thật hoàn thiện
Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta cũng đòi
hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi,
khi trở về «nơi» lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn
hạnh phúc khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết
xấu như họ đang có bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích kỷ,
còn ác ý, còn lãnh đạm, còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù
chỉ một chút xíu, thì chính bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây
nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng
thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền của Thiên Đàng, và biến
Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng nữa. Do đó,
Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch, tốt
lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh luyện cho hết. Tình trạng
thanh luyện ấy được gọi là «luyện ngục».
3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối gây đau khổ
Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ. Việc
Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân
loại chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi
đau khổ, mà chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau
khổ là tội lỗi. Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: «Người đã yêu
mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta» (Kh 1,5). Đau
khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh
tội lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn, khổ vẫn có thể tiếp tục phát
sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng con người vì còn u mê
nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau khổ là tội
lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì thế,
dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết
khổ này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh
hồn được thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau
khổ, chứ không nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ.
Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới đau khổ
và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh
phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là
tính ích kỷ.
4- Tình yêu hóa giải đau khổ và đem lại hạnh phúc
Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, thì ngược lại, tính vị tha
hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có
thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và không còn chút
tính ích kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa
câu nói Đức Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật –
hỏi Ngài về cách đạt được sự sống đời đời: «Anh chỉ thiếu có một điều,
là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho
tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi» (Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là
phải biết yêu thương và thật sự thể hiện tình yêu ấy thì mới được sự
sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở trên trời mà mọi
người muốn lên đó phải sắm cho mình chính là kho tàng tình yêu.
Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh thần
vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới
đau khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giêsu, thương
cho Ngài bị hàm oan: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng
với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!». Chính vì thế,
anh đã được Đức Giêsu nói: «Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với
tôi trên Thiên Đàng». Người trộm lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng
anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu đã biến anh thành người tốt
lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như câu nói của thánh
Phaolô: «Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8).
5- Chấp nhận đau khổ vì tình yêu là bí quyết của hạnh phúc
Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu chuyện của
Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đã phạm một trọng tội
khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị
đau khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn quại với
những cực hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình
thương ấy khiến ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay
cho mọi người trong địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải
chịu, để họ thoát khỏi những cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế
xong thì lập tức ngài tự nhiên thoát khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những
người kia thì vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau khổ.
Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực, nhưng nó
nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi
chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang phải chịu, thì tôi thấy
đau khổ ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan
tâm tới những đau khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm
giảm bớt đau khổ cho họ, khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay
chịu khổ nhiều hơn nữa để họ bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập
tức tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang
chịu – tuy dù một cách khách quan không hề thay đổi, mà có thể còn tăng
lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc của chúng đối với
tôi. Chúng không còn làm tôi đau khổ được như trước.
Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đình, tôi nhận thấy: khi tôi
sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những
người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, thì điều lạ lùng tôi
cảm nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi
hạnh phúc hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi
yêu thương được hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi
yêu thương họ, hết mình với họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi
phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu
đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đình tôi – trong đó có tôi – đều
cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương. Thế là chỉ vì tôi
sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho những người
thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một gia đình hạnh phúc. So với
nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét
cả mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không phải khi mình sẵn
sàng chịu đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ phải chịu
đau khổ nhiều hơn đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại
hạnh phúc cho cả tôi lẫn những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm
của tôi trong gia đình. Và tôi đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia
đình, trong xã hội… và tôi vẫn thấy nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người
kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích cho ai đó!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, thánh Gioan nói: «Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại,
tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và
ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo» (1Ga 4,18). Con cảm thấy
chính khi con thật sự có tình yêu thì con không sợ đau khổ, mà sẵn sàng
đón nhận đau khổ để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ đau
khổ, thì đau khổ không còn tác oai tác quái trên con nữa. Nó không còn
khả năng làm con mất bình an hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy bình an
và hạnh phúc do tình yêu đem lại chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà
con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần gian này.
23. Các tín hữu đã qua đời.
Trong thánh lễ cầu cho những người đã qua đời, chúng ta thường hát:
- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh hồn ấy
chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày
đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết luyện ngục là
nơi đau khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải thanh tẩy
tội lỗi trước khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực hình muôn kiếp, nhưng cũng
chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên Chúa là Đấng thánh
thiện và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ
tội lỗi, dù là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha thứ,
nhưng còn phải đền bù và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may
mắn, chúng ta có thể giúp đỡ bằng những lời kinh, những hy sinh và
những thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa, để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm
bớt hình phạt và mau giải phóng các linh hồn ấy.
Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một tiếng nói từ thế giới bên kia vọng
về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với Chúa cho mình được liên
hệ với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận:
- Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi bị đau
ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay tôi đã xây lấy hỏa
ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn
thống hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh. Bây giờ tôi
đang bị giam cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp tôi,
để mau mau chóng ra khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận bác ái.
Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ
lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang chới với giữa
dòng nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận công
bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự thiện cũng như
trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị đền bù,
rất có thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng ta mà
vấp ngã, rất có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều
nọ điều kia. Dù ít hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về
những hình phạt của các ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là việc làm có
lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì các ngài cũng sẽ bầu cử
cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng
nhớ đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn cảnh khổ đau
như thế, Chúa cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.
Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử tận tâm chăm sóc
đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới hơn hai
trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài.
Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ giáo lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc hẳn
cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu
nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ý kiến của một tờ báo Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng thường
xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn còn có
thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa. Trong ngày đó,
chỉ có hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh phúc muôn
đời. Vậy chúng ta chọn con đường nào đây?
24. Các linh hồn
Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một hãng bưu điện kỳ quặc với
cái tên giật gân “Liên minh thiên đàng”. Công việc của hãng này là
chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những người thân quen đã qua
đời. Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết thư trên một tờ giấy
mẫu in sẵn và nộp một khoản cước phí là xong. Còn làm thế nào để chuyển
lá thư ấy đến tay người chết là phận vụ của bưu điện. “Liên minh thiên
đàng”. Theo lời ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người
nhận do nhân viên đưa thưa của hãng là những người sắp chết tình nguyện
chuyển giùm. Những nhân viên tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung
bức thư và cam kết sẽ nhắn lại đầy đủ với người nhận. Hơn nữa “Liên minh
thiên đàng” tuyển chọn nhân viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là
người trong sạch, không có gì mờ ám trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này,
nên nhất định họ sẽ lên thiên đàng chứ không thể xuống hỏa ngục được.
Do uy tín của hãng bưu điện này ngày càng tăng mạnh mẽ nên ông Habốc đã
mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp nước Mỹ mà còn lan sang các
lục địa khác nữa.
Mới nghe qua, nhất là đối với những người vô tôn giáo hay không tin có
đời sau thì câu chuyện trên chẳng những kỳ quặc mà còn phi lý không thể
chấp nhận được. Nhưng còn đối với chúng ta không có gì đáng ngạc nhiên
cả, chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi. Bởi vì, giáo lý
công giáo đã trình rõ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa người còn
sống và kẻ đã chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải tin
và phải thực hành: đó là tín điều Các Thánh cùng thông công.
Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín điều của người công giáo và hãng
bưu điện “Liên minh thiên đàng” của Habốc là cách thức liên lạc với
chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật chất vừa dựa vào khả năng
giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong muốn. Còn các thức
liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào quyền năng,
lời bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc
hiện về của các linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với
người thân quen đã qua đời đối với chúng ta là một chuyện thường tình,
dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ còn lại một công đoạn cuối cùng là chúng
ta có muốn liên lạc hay không mà thôi.
Thật vậy, con người sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng
thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống mãi bên nhau, nhất là
đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa, khi biết sống tình
nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt hay xấu, ai
thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu cần
thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp,
chu toàn hết khả năng sẵn có.
Nếu thế thì chúng ta, những người còn sống tại dương thế, đang có tự do
hành động theo ý muốn của mình lại càng sống thật tình nghĩa với những
người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù nhân chỉ còn trông
mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa với những
người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình ảnh,
dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều
quan trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương
yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời.
Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo
hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hãy hướng lòng về những
người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra sức tìm kiếm những
tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã biết rõ
cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn.
Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay
không mà thôi.
Và nếu những người thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ
trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được
chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng
ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lãng
quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để
giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc
đức, ăn chay hãm mình, xin lễ cầu nguyện… Và nếu chúng ta cứu được các
Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.
Đó là chưa nói đến tình máu mủ mà chắc chắn không ai trong chúng ta nở
lòng nào quên tình nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu
chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời chờ sự cứu giúp của chúng ta. Còn
xét về mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm ơn cho chúng ta hoặc vì lỗi
lầm gương xấu của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn
và chuộc lỗi lầm cho họ.
Vậy ai còn sống mà không biết tưởng nhớ đến người chết thì kẻ đó không
phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ suông mà không biết làm
những việc lành phúc đức cụ thể thì cũng không thể xứng đáng lám con cái
của Chúa.
0 Nhận xét