Trên các diễn đàn mạng, trước sự hoài nghi của nhiều người đối với
khả năng ứng phó của Việt Nam về vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào
khu vực thuộc đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, các dư luận
viên của Hà Nội đều đưa ra luận điệu giống nhau: Đừng coi thường Việt
Nam! Việt Nam đã có sẵn kế sách đối phó với Trung Quốc. Việt Nam sẽ ra
tay ở một thời điểm thích hợp nào đó. Và chắc chắn họ sẽ thắng.
Thật ra, một chiến thắng về quân sự trên mặt trận trên biển của Việt
Nam đối với Trung Quốc, với giới quan sát quốc tế, là một không tưởng.
Nhiều người lập luận: Về quân sự, Việt Nam đứng vào hàng thứ mười mấy
trên thế giới. Thì đành vậy. Có điều, khi nói như thế, người ta quên
nhìn vào Trung Quốc: Bây giờ họ chỉ thua Mỹ. Khoảng cách giữa Việt Nam
và Trung Quốc, do đó, vẫn còn rất xa.
Hơn nữa, ở khía cạnh này, sức mạnh chủ yếu của Việt Nam là ở con
người, một yếu tố chỉ phát huy hết tiềm lực của nó trong cái gọi là
chiến tranh nhân dân. Nhưng không ai có thể sử dụng chiến tranh nhân dân
trên biển được. Đưa cả hàng chục ngàn chiếc tàu đánh cá ra khơi để tham
gia vào trận chiến chỉ là một cách tự tử tập thể. Trên biển, chỉ có một
yếu tố quan trọng: vũ khí; trong vũ khí, chỉ có hai đặc điểm đáng kể:
số lượng và trình độ kỹ thuật. Ở cả hai, Việt Nam đều thua Trung Quốc
rất xa. Sự thua kém này có thể bù đắp được với một điều kiện: Việt Nam
có thêm nhiều đồng minh giúp đỡ. Nhưng chuyện đồng minh, những nước có
thể tham gia chia lửa với Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung Quốc
hiện nay, gần như là một con số không to tướng.
Trước mắt, trong hơn hai tuần hục hặc, chủ yếu chỉ lấy vòi rồng xịt
nước vào nhau, chứ chưa có tiếng súng nào nhắm vào nhau nổ cả, người ta
có thể đánh giá: Trung Quốc đã thắng. Thắng đến cả mấy bàn.
Tuy nhiên, trước khi nói đến chuyện thắng hay thua, chúng ta cần phải
căn cứ vào mục tiêu của Trung Quốc trong việc gây hấn ấy. Thắng, khi
người ta đạt được mục tiêu; và thua, khi người ta không đạt được tất cả
hoặc phần lớn các mục tiêu ấy.
Vậy, mục tiêu của Trung Quốc trong việc đưa giàn khoan đến khu vực Biển Đông là gì?
Hầu như mọi người đều đồng ý với nhau, có hai mục tiêu chính: kinh tế
và chính trị. Kinh tế chỉ là phụ: Một là, đây chỉ là giai đoạn thăm dò
chứ không phải khai thác; hai là, theo sự đánh giá của các chuyên gia
quốc tế, triển vọng khai thác được dầu khí ở khu vực này (lô 143) khá
thấp. Chính trị mới là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Tầm quan trọng ấy
nằm ở hai điểm: Một, nó là một bước mới trong cả tiến trình cưỡng đoạt
Biển Đông từ Việt Nam; và hai, nó nhằm trắc nghiệm phản ứng của ba đối
tượng chính: Việt Nam, khối ASEAN và Mỹ.
Có thể nói, một cách tóm tắt và rõ ràng, ở cả ba cuộc trắc nghiệm ấy, Trung Quốc đều thành công.
Thứ nhất, về phía Việt Nam, cho đến nay, họ vẫn sử dụng một sách lược
mà Trung Quốc cũng như cả thế giới đã biết rõ từ lâu: cứng rắn nhưng tự
kiềm chế đến tối đa. Dù Trung Quốc ngang ngược đến mấy, Việt Nam cũng
vẫn muốn giải quyết tranh chấp bằng hoà bình, nghĩa là luôn luôn cố gắng
tránh việc sử dụng bạo lực để có thể làm bùng nổ một cuộc chiến tranh
mà họ nắm chắc phần thua. Sự tránh né ấy khiến cái gọi là “cứng rắn” chỉ
còn là một động thái mang tính chất tu từ học. Nói cách khác, người ta
tin là Việt Nam sẽ tiếp tục kéo dài cuộc chiến tranh tu từ (rhetoric
war) ấy cho đến khi Trung Quốc chấm dứt cuộc thăm dò vào tháng tám tới.
Khi Trung Quốc rút giàn khoan HD-981 về sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ, họ
sẽ tuyên bố với nhân dân trong nước: Họ đã “chiến thắng”!
Thứ hai, về phía ASEAN, chiến thắng của Trung Quốc càng dễ thấy.
Trong cuộc Hội nghị cao cấp của khối vào ngày 11 tháng 5 tại Miến Điện,
Nguyễn Tấn Dũng đã đọc một bài diễn văn khá mạnh mẽ, trong đó, lần đầu
tiên ông gọi đích danh Trung Quốc, kẻ đang hung hăng đe doạ hoà bình
trong khu vực và ông cũng kêu gọi các nước trong Khối cùng nhau bày tỏ
sự phản đối đối với Trung Quốc.
Tuy nhiên, kết quả là gì? Trong thông báo chung cuối hội nghị, người
ta chỉ đồng ý với nhau ở lời kêu gọi chung chung và đầy khuôn sáo: “Hai
bên Trung Quốc và Việt Nam nên kiềm chế và tránh các hành động có thể
làm phương hại đến hòa bình và ổn định của khu vực; giải quyết tranh
chấp bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực.” Coi như huề. Họ không phê phán Trung Quốc. Họ cũng không hề bày
tỏ là sẽ đứng vào phe nào nếu cuộc xung đột nổ lớn.
Thái độ này, thật ra, cũng chả có gì khó hiểu. Có hai lý do chính.
Một là, giữa Việt Nam và một số nước khác trong khối cũng đang tranh
chấp với nhau về một số hòn đảo, và vì những tranh chấp ấy, cho đến nay,
hầu như họ vẫn từ chối hợp tác với nhau trong cuộc đương đầu với Trung
Quốc. Hai là, ngoài một số nước đã bị Trung Quốc mua chuộc (trong đó có
nước láng giềng và xưa nay vốn bị xem là đàn em thân tín của Việt Nam:
Campuchia), và tất cả các nước đều lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc, bởi
vậy không ai thấy có lợi gì trong việc liên kết với Việt Nam để chống
lại Trung Quốc cả. Nếu có một số nước muốn làm điều đó, thì các nước còn
lại sẽ tìm cách phá đám để cuối cùng không đi đến một thông báo chung,
như điều đã xảy ra trong cuộc hội nghị tại Campuchia năm ngoái.
Thứ ba, về phía Mỹ, cho đến nay, đó là nước lên án Trung Quốc một
cách mạnh mẽ nhất với việc cho hành động của Trung Quốc ở Biển Đông là
“khiêu khích”. Tuy nhiên, chắc chắn là Mỹ sẽ không đi xa hơn việc phê
phán gay gắt ấy. Có nhiều lý do. Một là, do những khủng hoảng kinh tế và
những khó khăn ở Afghanistan cũng như do tâm lý mệt mỏi của quần chúng
Mỹ, chính phủ Mỹ không hề sẵn sàng để dấn thân vào bất cứ một cuộc tranh
chấp nào khác nữa. Hai là, một trong những nguyên tắc căn bản làm nên
chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tổng thống Obama là “lãnh đạo từ
đằng sau” (lead from behind), mà điển hình là việc tham gia vào cuộc lật
đổ Muammar Gaddafi ở Libya vào năm 2011. Theo nguyên tắc này, có thể
nói Mỹ chỉ có thể giúp đỡ Việt Nam trong cuộc đối đầu với Trung Quốc
trên Biển Đông với hai điều kiện: Việt Nam phải quyết tâm chống lại
Trung Quốc trước và phải có một số đồng minh khác sẵn sàng nhảy vào góp
sức với Việt Nam. Ngoài ra, còn có thêm yếu tố này nữa: Mỹ chỉ có thể
tham dự nếu họ tin cậy Việt Nam. Không có sự tin cậy ấy, không thể có
quan hệ hợp tác chiến lược để tiến hành chiến tranh. Kinh nghiệm ở Syria
chứng minh điều đó: Mấy năm qua, các cuộc xung đột ở đó đã giết chết cả
trăm ngàn thường dân vô tội và làm cho cả triệu người phải chạy sang
các nước láng giềng để tị nạn, Mỹ vẫn án binh bất động. Lý do, ai cũng
biết: Mỹ, dù rất ghét nhà độc tài Bashar al-Assad, nhưng vẫn nghi ngờ
các thành phần đối kháng, trong đó, có những nhóm vốn bị xem là bài Mỹ
và khủng bố. Dưới mắt Mỹ, giới lãnh đạo Việt Nam không phải là khủng bố,
nhưng lại là những kẻ bài Mỹ. Không ai đem xương máu dân chúng nước họ
để hy sinh cho những kẻ cứ ra rả chửi mình!
Nếu cả ba cuộc trắc nghiệm trên của Trung Quốc đều thành công, chả có
gì quá đáng nếu chúng ta nói: cho đến nay, ở thời điểm này lúc chưa có
bên nào nổ súng cả, Trung Quốc đã thắng Việt Nam trong cả ba ván.
Với ba chiến thắng ấy, Trung Quốc không cần đánh Việt Nam, họ cũng
thắng ở trận cuối cùng: Làm cho mọi người mặc nhiên thừa nhận là Trung
Quốc có toàn quyền trên Biển Đông. Khi việc thăm dò chấm dứt, họ có thể
mang giàn khoan HD-981 về nước và sau đó, khi cần, họ có thể ung dung
trở lại. Chiến tranh, nếu có, cũng chỉ là những trận đánh võ mồm, chủ
yếu để lừa dân trong nước.
Chưa bao giờ tôi viết bài nào mà lại có tâm trạng đau đớn và tức tối
như lúc viết bài này. Nhưng chúng ta chỉ có thể hy vọng nếu chúng ta can
đảm nhìn vào sự thật. Cả việc bị lừa dối hay tự lừa dối đều chỉ làm
tăng thêm và/hoặc kéo dài thảm kịch.
0 Nhận xét