"Điều
đáng trách của họ nằm ở chỗ khác: Dường như, với họ, chịu đựng nhẫn
nhục là một chiến lược chứ không phải là chiến thuật, nghĩa là có tính
lâu dài chứ không phải chỉ tạm thời, trong một vài ngày hay một vài
tuần, vài tháng."
Nhìn hình ảnh những chiếc tàu Việt Nam bị tàu Trung Quốc uy hiếp,
nhiều người thấy nóng mặt; càng nóng mặt hơn nữa khi thấy những phản ứng
đầy tức giận nhưng đồng thời cũng đầy sự kiềm chế đến nhẫn nhục của
thủy thủ đoàn Việt Nam.
Thật ra, theo tôi, sự kiềm chế
tội nghiệp ấy không có gì đáng trách. Việt Nam không còn chọn lựa nào
khác. Đánh nhau trên biển, Việt Nam không thể có kết quả nào khác ngoài
sự bại trận. Ai cũng biết Việt Nam không phải là đối thủ của Trung Quốc.
Trên bộ, còn chơi trò du kích. Ngoài biển khơi, vũ khí và khoa học kỹ
thuật quyết định tất cả.
Hơn nữa, sự nhịn nhục còn là
một chiến thuật cần thiết về phía Việt Nam: Họ cần có thật nhiều hình
ảnh để chứng minh với thế giới họ chỉ là nạn nhân chứ không phải là
những kẻ khiêu khích như Trung Quốc tuyên truyền. Tính chất nạn nhân ấy
cần một thời gian để tạo ấn tượng mạnh và sâu đủ để thu hút sự đồng
cảm, và từ đó, sự ủng hộ của quốc tế.
Không nên trách móc nhà cầm quyền Việt Nam trong chiến thuật chịu đựng nhẫn nhục ấy.
Điều
đáng trách của họ nằm ở chỗ khác: Dường như, với họ, chịu đựng nhẫn
nhục là một chiến lược chứ không phải là chiến thuật, nghĩa là có tính
lâu dài chứ không phải chỉ tạm thời, trong một vài ngày hay một vài
tuần, vài tháng. Bởi, nếu đặt câu hỏi, sau khi đóng vai trò nạn nhân ấy
rồi, Việt Nam sẽ làm gì? Nổ súng ư? – Thì chắc chắn cũng sẽ bị đánh giập
đầu ngay tức khắc. Chờ đợi quốc tế nhảy vào giúp đỡ để đương đầu với
Trung Quốc ư? Câu trả lời đã hiển nhiên: Sẽ không có ai cả.
Nhìn
lại, người ta dễ dàng nhận ra ngay một sai lầm chiến lược cực kỳ nghiêm
trọng của chính quyền Việt Nam: Lâu nay, hầu như mọi người đều biết âm
mưu thâm độc của Trung Quốc trên Biển Đông nhưng chính quyền Việt Nam
hoàn toàn không có một kế hoạch nào để chuẩn bị và đối phó cả. Thì đành
là họ có mua một số tàu ngầm, tàu thủy và vũ khí của Nga. Nhưng số lượng
những chiến cụ và vũ khí ấy so với Trung Quốc chẳng khác nào kiến chọi
với voi. Điều ai cũng thấy nhưng Việt Nam không hề làm, hoặc nếu làm,
chỉ là giả bộ làm: tìm kiếm đồng minh thực sự có đủ sức để giúp đỡ Việt
Nam trong trận đấu nhau với Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng
lăng xăng đi đây đi đó, cũng ký hiệp ước này hiệp ước nọ, nhưng thứ
nhất, chủ yếu với các nước thuộc loại trung, trong đó, không có nước nào
có thể là địch thủ của Trung Quốc cả; thứ hai, quan hệ giữa Việt Nam
với các nước ấy vẫn rất hời hợt, không có nước nào tin cậy và thương yêu
Việt Nam đủ để có thể nhảy ra chia lửa với Việt Nam trong trận chiến
với Trung Quốc cả.
Nhưng dại dột nhất là Việt Nam đã
không có đủ thiện chí để xây dựng một quan hệ tin cậy với Mỹ, nước duy
nhất có khả năng giúp Việt Nam đương đầu với Trung Quốc. Chơi với Mỹ, họ
chỉ tính toán những trò lặt vặt, kiểu bắt dân làm con tin, khi nào Mỹ
yêu sách thì thả vài người rồi lại bắt vài người khác. Trên các phương
tiện truyền thông, thậm chí, trên các diễn đàn chính thức của đảng,
thỉnh thoảng vẫn chửi Mỹ, xem Mỹ như kẻ thù, người đứng đằng sau xúi
giục cho âm mưu “diễn tiến hòa bình”.
Có thể nói, chưa
bao giờ Việt Nam cô đơn như hiện nay. Thời kháng chiến chống Pháp, họ
được Trung Quốc giúp đỡ; thời chiến tranh Nam Bắc, cả Trung Quốc lẫn
Liên Xô giúp đỡ; thời chiến tranh biên giới với Trung Quốc, họ được Liên
Xô giúp đỡ. Bây giờ: hoàn toàn không.
Đó không phải là
một thất bại về ngoại giao mà còn là một thất bại về chiến lược. Hình
như không ai thấy, hoặc nếu thấy, họ cũng mặc kệ không thèm làm.
Chính
quyền Việt Nam không những cô đơn trong quan hệ quốc tế. Họ còn cô đơn
trong quan hệ với dân chúng. Suốt bao nhiêu năm vừa qua, họ thẳng tay
trấn áp một cách phũ phàng và tàn bạo tất cả những người yêu nước lên
tiếng cảnh báo nguy cơ xâm lược của Trung Quốc. Không phải ngẫu nhiên mà
dư luận trong nước lâu nay vẫn xem chính quyền chỉ là một bọn nhu nhược
hoặc, gay gắt hơn, bán nước.
Khi, vì sợ Trung Quốc hay
vì muốn bênh vực cho Trung Quốc, họ giang chân đạp thẳng vào mặt những
kẻ đi biểu tình chống Trung Quốc, họ hoàn toàn tự cô lập với nhân dân.
Bây
giờ, ở cái thế vừa cô lập với dân chúng trong nước vừa cô lập với thế
giới bên ngoài như vậy, có lẽ chính quyền Việt Nam không có chọn lựa nào
khác ngoài việc giả vờ cứng rắn một hồi, lại tiếp tục nhẫn nhục chịu
đựng để Trung Quốc muốn làm gì trên Biển Đông thì làm. Mặc kệ. Quyền
chức và tài sản của họ vẫn nguyên vẹn.
Kẻ thua trận, cuối cùng, là đất nước và nhân dân.
Nguyễn Hưng Quốc
0 Nhận xét