Home » Archives for tháng 5 2014
Bài 2: TẠI SAO PHẢI RƯỚC LỄ TRONG MÙA PHỤC SINH?
20:00 |
TẠI SAO PHẢI RƯỚC LỄ TRONG MÙA PHỤC SINH?
Giuse Phan Tấn Thành, OP.
ĐTC Phanxicô đích thân trao Mình Thánh Chúa cho các em rước lễ lần đầu |
Điều 920 của bộ giáo luật hiện hành buộc các tín hữu phải
rước lễ một năm ít là một lần, vào mùa Phục sinh. Tại sao có điều luật
đó?
Khoản giáo luật vừa trưng dẫn còn được lặp lại trong sách Giáo lý Hội
thánh Công giáo số 1389. Tuy nhiên nguồn gốc của nó đã có từ xa xưa,
nghĩa là từ công đồng Latêranô IV năm 1215.
Tại sao phải ra luật đó?
Có rất nhiều lý do đôi khi tương phản nhau: có người nguội lạnh,
chẳng mấy khi đi nhà thờ, vì thế cần phải ra luật thúc đẩy họ tối thiểu
một năm hãy liệu xưng tội rước lễ một lần. Ngược lại, có người quá đạo
đức, đi lễ thường xuyên nhưng không dám lên rước lễ vì cảm thấy mình bất
xứng. Do đó, cần phải thúc đẩy họ lên rước lễ ít là một năm một lần. Để
hiểu rõ vấn đề này hơn, chúng ta nên đi ngược lại dòng lịch sử từ những
thế kỷ đầu tiên của Hội thánh.
Các tín hữu tiên khởi rước lễ bao nhiêu lần một năm?
Thực khó nói cách chính xác. Tuy nhiên có thể suy đoán dựa theo vài
dữ kiện. Chúng ta biết rằng ngay từ đầu tiên, các Kitô hữu đã có thói
quen họp nhau cử hành Thánh Thể hằng tuần vào ngày Chúa nhật, (ngày của
Chúa, ngày mừng Chúa Kitô Phục sinh). Chúng ta thấy chứng tích nơi sách
Tông đồ công vụ, chương 20 câu 7, kể lại việc thánh Phaolô chủ sự lễ
nghi bẻ bánh tại Troa. Sách Điđakhê chương 14 diễn tả việc tham dự lễ bẻ
bánh ngày Chúa nhật thành một quy luật. Từ đó ta cũng có thể kết luận
được rằng họ cũng rước lễ ít là mỗi tuần một lần. Lý do dễ hiểu, bởi vì
việc tham dự Thánh lễ đương nhiên bao hàm việc rước lễ. Thánh lễ được
gọi là "việc bẻ bánh", hàm ngụ ý tưởng một bữa tiệc thánh. Do đó không
ai đi dự tiệc mà ra về với bụng trống rỗng.
Từ khi Giáo hội cử hành phụng vụ vào các ngày trong tuần lễ, thì các tín hữu cũng tăng mức độ rước lễ nữa hay sao?
Lịch sử không tiến triển theo đường thẳng, nhưng thường là theo đường
ngoằn ngoèo. Xét về kỷ luật chung của Giáo hội thì quả là có sự tiến
triển trong việc cử hành Thánh lễ. Vào thời đầu, có lẽ mỗi tuần Giáo hội
chỉ cử hành Thánh lễ một lần vào ngày Chúa nhật. Nhưng con số đó tăng
lên dần dần, tuỳ theo địa phương. Hồi đầu thế kỷ V, thánh Augustinô
(Epistola 54, ad Ianuarium, c.2) viết như sau: "việc dâng lễ thay đổi
tùy theo địa phương. Có nơi thì hiệp lễ hàng ngày, có nơi thì chỉ hiệp
lễ vào một vài bữa. Có nơi thì không ngày nào bỏ việc dâng Hy lễ; có nơi
thì chỉ dâng Thánh lễ vào thứ bảy và Chúa nhật; thậm chí có nơi chỉ
dâng lễ vào ngày Chúa nhật". Như vậy, cho đến thời thánh Augustinô,
không phải đâu đâu cũng có Thánh lễ hàng ngày, và thậm chí có nơi chỉ có
Thánh lễ ngày Chúa nhật mà thôi.
Điều này không chỉ tuỳ thuộc vào số linh mục nhiều hay ít, nhưng còn
bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nữa. Chẳng hạn như bên các Giáo hội
Đông phương, các buổi cử hành Thánh lễ rất long trọng, vì thế không lạ
gì mà thường chỉ giới hạn vào ngày Chúa nhật, với sự tham gia đông đảo
của cộng đoàn và ca đoàn. Đang khi đó, bên Tây phương, do việc các đan
sĩ thụ phong linh mục, cho nên việc cử hành Thánh lễ cũng gia tăng tại
các đan viện, không những là Thánh lễ cử hành cho cộng đoàn mỗi ngày, mà
mỗi linh mục còn cử hành Thánh lễ kể cả khi không có cộng đoàn tham dự.
Hơn thế nữa, việc tăng gia các buổi cử hành Thánh lễ không nhất thiết
kèm theo sự tăng gia việc rước lễ.
Tại sao vậy?
Lúc nãy tôi đã nói rằng lịch sử không tiến theo đường thẳng nhưng
theo đường ngoằn ngoèo. Một cách tổng quát, ta thấy rằng ở những thế kỷ
đầu tiên, việc hiệp lễ gắn liền với việc tham dự Thánh lễ (gọi là lễ bẻ
bánh), nhưng dần dần thì hai hành vi được tách rời. Có người rước lễ tuy
không tham dự Thánh lễ: điều này xảy ra cho những người đau ốm không
thể đi nhà thờ được, hoặc những người bị giam tù trong kỳ bắt đạo. Ngược
lại, có người thì tham dự Thánh lễ mà không rước lễ. Điều này xảy ra vì
nhiều lý do. Một lý do vừa mới nhắc đến là trường hợp các đan sĩ cử
hành Thánh lễ mà không ai tham dự (và do đó không có ai rước lễ); như
thế việc rước lễ không còn phải là thành phần của Thánh lễ nữa. Đang khi
đó, tại các giáo xứ, thì tuy các tín hữu buộc phải tham dự Thánh lễ
hàng tuần, nhưng không hẳn là ai cũng dám lên rước lễ, xét vì cảm thấy
lương tâm không ổn.
Như vậy, họ không lên rước lễ vì thấy mình mắc tội trọng, phải không?
Đúng vậy. Dựa theo lời của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi tín
hữu Côrintô, chương 11 câu 28-29: "Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn
Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được
Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình", Giáo hội đòi hỏi các tín hữu
phải sạch tội trọng thì mới được phép rước Mình Thánh Chúa. Thế nhưng,
trong lịch sử không thiếu những khuynh hướng giải thích chặt chẽ hơn nữa
về sự chuẩn bị tâm hồn. Họ đòi hỏi không những chỉ sạch tội trọng, mà
cả tội nhẹ cũng như các mối quyến luyến với thế trần. Thậm chí, họ buộc
các đôi vợ chồng phải kiêng cữ ái ân thì mới được lên rước lễ.
Nói thế thì chỉ có các tu sĩ mới được xứng đáng rước lễ hay sao?
Các tu sĩ cũng chẳng xứng đáng rước lễ nữa. Mãi cho đến đầu thế kỷ
XX, nhiều hiến pháp Dòng tu chỉ cho phép các tu sĩ rước lễ một tháng một
lần, nghĩa là 12 lần một năm. Ai muốn rước lễ hàng ngày thì phải có
phép của cha giải tội. Vị này có bổn phận trắc nghiệm trình độ đạo đức
của linh hồn, rồi mới dám cho phép tu sĩ rước lễ thường xuyên. Thực ra,
cha linh hồn không chỉ xét xem linh hồn có mắc tội trọng hay tội nhẹ hay
không, nhưng còn muốn biết hiệu quả của việc rước lễ như thế nào: đương
sự có tiến triển trên đường nhân đức hay không? Việc rước lễ có phát
sinh hoa trái như lòng mong ước hay không?
Nếu việc rước lễ không phát sinh hoa trái, thì tu sĩ chỉ được rước lễ mỗi tháng một lần thôi phải không?
Có lẽ còn ít hơn nữa là đàng khác. Nói như thế chúng ta mới hiểu được
ý nghĩa của sắc lệnh công đồng Latêranô IV năm 1215. Có thể giải thích
tầm mức áp dụng sắc lệnh vừa cho các tín hữu biếng nhác (chẳng mấy khi
đi nhà thờ) vừa cho những tu sĩ nữa! Theo các sử gia, nghĩa vụ buộc rước
lễ mỗi năm ít là một lần bắt nguồn từ các đan sĩ sống trong sa mạc (như
thánh Ambrôsiô giải thích: De sacramentis, 5,25). Dù sao thì về sau này
giáo luật nhắm tới các người nguội lạnh nhiều hơn.
Từ thế kỷ IX, nhiều công đồng điạ phương buộc các tín hữu phải rước
lễ ba lần một năm vào dịp lễ Giáng sinh, Phục sinh và Hiện xuống. Công
đồng Latêranô IV thì chỉ buộc rước lễ mỗi năm một lần, ít là vào lễ Phục
sinh. Dần dần nghĩa vụ này được kéo dài ra suốt mùa Phục sinh. Bộ giáo
luật hiện hành thì giữ lại luật buộc phải rước lễ mỗi năm một lần; nhưng
không nhất thiết là trong mùa Phục sinh. Bộ giáo luật hiện hành cũng bỏ
những chế tài của công đồng Latêranô, theo đó ai không rước lễ trong
tuần lễ Phục sinh thì sẽ bị trục xuất khỏi Giáo hội, và không được an
táng theo nghi thức phụng vụ.
Tại sao phải rước lễ mỗi năm một lần?
Như đã nói ở đầu, ta có thể đọc nghĩa vụ này theo hai chiều hướng đối
nghịch. Với người thờ ơ lãnh đạm thì luật này thúc đẩy họ hãy nuôi
dưỡng lòng đạo, nhờ việc lãnh bí tích Thánh Thể: thân xác cần được nuôi
dưỡng thì mới sống được. Ai mà không ăn thì dù chưa chết cũng thấy kiệt
lực. Linh hồn cũng cần được bồi dưỡng nhờ bí tích để có sức mạnh chống
lại tội lỗi và tăng cường nhân đức. Vì thế mà việc rước lễ mỗi năm một
lần là mức tối thiểu. Xuống dưới mức tối thiểu thì có nguy cơ hấp hối.
Mặt khác, nghĩa vụ này cũng nhắc nhớ những người quá bối rối sợ hãi
rằng: Chúa Giêsu đã thiết lập bí tích này không chỉ để cho ta thờ lạy
tôn kính, nhưng còn để trở thành lương thực cho ta nữa. Ngài muốn trở
nên bánh cho ta ăn, ngõ hầu ta được sống và sống dồi dào. Đành rằng Ngài
là Đấng cực thánh, còn ta là kẻ tội lỗi, không xứng đáng cho Ngài ngự
vào linh hồn ta, nhưng chúng ta đừng quên phần thứ hai của lời nguyện
trước khi rước lễ: "Lạy Chúa, con chẳng đáng rước Chúa ngự vào nhà linh
hồn con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh". Tuy
dù chúng ta bất xứng, nhưng chính vì thế mà chúng ta cần Chúa đến thăm,
như bệnh nhân cần đến lương y đến chữa lành. Vì thế chúng ta đừng ngại
ngùng lên rước lễ khi thấy mình còn nhiều thiếu sót.
Dù sao, có lẽ ngày nay ít người ngại lên rước lễ vì cảm thấy mình bất
xứng. Chúng ta chỉ sợ rơi vào tình trạng trái ngược. Cho đến đầu thế kỷ
XX, trung bình các tu sĩ được rước lễ mỗi tháng một lần. Bộ giáo luật
hiện hành ở số 917 dự liệu những trường hợp được phép rước lễ nhiều lần
trong một ngày. Nguy cơ có thể xảy ra là sự thiếu chuẩn bị xứng đáng,
không chỉ theo nghĩa là chưa thanh tẩy linh hồn đúng mức, nhưng còn theo
nghĩa là chúng ta không lưu ý đến việc để cho Mình Thánh phát sinh
những hoa trái mong muốn, đặc biệt là lòng mến Chúa yêu người.
CÂU CHUYỆN GÁNH NƯỚC
07:47 |
CÂU CHUYỆN GÁNH NƯỚC
Có hai vị Hoà thượng ở hai ngôi chùa trên
hai ngọn núi gần nhau. Giữa hai ngọn núi có một con sông, mỗi ngày họ
đều cùng một lúc xuống núi ra bờ sông gánh nước, lâu ngày họ trở thành
bạn bè.
Thấm thoát năm năm trôi qua, bỗng một hôm vị Hoà thượng ở
ngọn núi bên trái không xuống gánh nước, vị Hoà thượng ở ngọn núi bên
phải nghĩ bụng: "Có lẽ ông ta ngủ quá giờ”, nên trong lòng cũng chẳng để
ý lắm.
Nhưng không ngờ qua ngày hôm sau vị Hòa thượng ở núi bên trái vẫn không xuống núi gánh nước.
Một tuần trôi qua, vị Hoà thượng bên ngọn núi phải nghĩ bụng: “Bạn ta có lẽ bị bệnh rồi, ta nên đến thăm, xem có thể giúp được gì không.”
Nhưng khi đến thăm người bạn già, ông ta thật kinh ngạc. Người bạn già của ông đang tập thái cực quyền trước chùa, chẳng giống dáng vẻ của một người cả tuần chưa uống nước chút nào. Ông ta thấy làm lạ hỏi: “Đã một tuần rồi ông không xuống núi gánh nước, lẽ nào ông không cần uống nước?”
Người bạn dẫn ông ta đi ra sân sau của chùa, chỉ một giếng nước nói: “Năm năm lại đây, mỗi ngày sau khi làm xong thời khoá, tôi đều đào cái giếng này, mặc dù nhiều lúc rất bận, nhưng có thể đào được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Nay đào đã đến nước, tôi không cần phải xuống núi gánh nước nữa”.
-------
Ngày hôm nay chính là thành quả từ những nỗ lực của hôm qua. Còn sự nỗ lực của hôm nay lại là niềm hy vọng cho ngày mai. Năm tháng trôi qua, tuổi già lại đến. Hãy suy nghĩ về lúc không còn gánh nước nổi, bạn vẫn có nước để uống chứ? Vì vậy dù đã thành công, hãy cố gắng thêm một chút nữa.
(st)
Một tuần trôi qua, vị Hoà thượng bên ngọn núi phải nghĩ bụng: “Bạn ta có lẽ bị bệnh rồi, ta nên đến thăm, xem có thể giúp được gì không.”
Nhưng khi đến thăm người bạn già, ông ta thật kinh ngạc. Người bạn già của ông đang tập thái cực quyền trước chùa, chẳng giống dáng vẻ của một người cả tuần chưa uống nước chút nào. Ông ta thấy làm lạ hỏi: “Đã một tuần rồi ông không xuống núi gánh nước, lẽ nào ông không cần uống nước?”
Người bạn dẫn ông ta đi ra sân sau của chùa, chỉ một giếng nước nói: “Năm năm lại đây, mỗi ngày sau khi làm xong thời khoá, tôi đều đào cái giếng này, mặc dù nhiều lúc rất bận, nhưng có thể đào được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Nay đào đã đến nước, tôi không cần phải xuống núi gánh nước nữa”.
-------
Ngày hôm nay chính là thành quả từ những nỗ lực của hôm qua. Còn sự nỗ lực của hôm nay lại là niềm hy vọng cho ngày mai. Năm tháng trôi qua, tuổi già lại đến. Hãy suy nghĩ về lúc không còn gánh nước nổi, bạn vẫn có nước để uống chứ? Vì vậy dù đã thành công, hãy cố gắng thêm một chút nữa.
(st)
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên – năm A
07:06 |
Các bài chú giải và suy niệm Tin Mừng
Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên – năm A
Lời Chúa: Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mt 28,16-20
***************
Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên – năm A
Lời Chúa: Cv 1,1-11; Ep 1,17-23; Mt 28,16-20
***************
CÁC BÀI CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM
Bài 1. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: SỨ MẠNG PHỔ QUÁT
Các
môn đệ của Đức Giêsu phải ra đi để làm cho muôn dân “trở thành môn đệ”
Người, chứ không phải trở thành môn đệ của chính mình.
1- Ngữ cảnh
Ở đây, chúng ta chỉ đề cập đến ngữ cảnh trực tiếp, đó là mộ trống với hai sứ điệp, một tích cực, một tiêu cực:
a) Sứ điệp tích cực
Sứ điệp tích cực được gửi đến trong hai thì:
-
bởi sứ thần khi ngài giao phó cho các phụ nữ hai sứ mạng là làm chứng
về sự Phục Sinh của Đức Giêsu và loan báo cho các môn đệ lệnh triệu tập
của Đức Giêsu (28,1-8). Đây là kinh nghiệm tiêu cực về sự Phục Sinh.
-
bởi chính Đức Giêsu Phục Sinh (28,9-10): Người cho các phụ nữ sống một
kinh nghiệm thực hữu về sự Phục Sinh của Người và giao cho họ cùng một
sứ mạng, là triệu tập các môn đệ về Galilê.
Đoạn văn Mt
28,16-20 cho hiểu rằng các phụ nữ đã chu toàn hai sứ mạng được giao:
khi quy tụ về quả núi đã được chỉ định tại Galilê, các môn đệ chứng tỏ
các ông đã tin vào chứng tá của các phụ nữ liên hệ đến cuộc Phục Sinh để
cũng có thể tin vào lệnh triệu tập được các bà chuyển cho.
b) Sứ điệp tiêu cực
Sứ điệp tiêu cực là truyện sai lạc về Đức Giêsu, được toán lính tung ra theo trò bịp bợm của các thủ lãnh Do Thái.
Đoạn văn này nêu bật sự tương phản (c. 16: de)
giữa các thủ lãnh Do Thái và toán lính một bên, và bên kia, là Đức
Giêsu và các môn đệ Người, giữa sứ điệp do người Do Thái tung ra và thực
tế; vậy đoạn văn này chính là một lời phi bác tin đồn thất thiệt đã
được phổ biến. Đối với người Do Thái, Đức Giêsu là một xác chết, còn các
môn đệ Người là những tên trộm cắp và dối trá; trong thực tế, Đức Giêsu
đã chiến thắng cái chết, đã sống lại, được ban cho toàn quyền của Thiên
Chúa và đảm bảo bằng sự hiện diện đầy uy lực của Người; các môn đệ
Người không tìm cách đánh cắp thi hài, nhưng đã đi về Galilê, đi xa ngôi
mộ, để gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Mừng sẽ đi đến với “mọi dân tộc”,
chứ không như tin đồn thất thiệt kia, chỉ được loan truyền “giữa người
Do Thái” mà thôi. Giáo huấn phổ quát (didaskontes) mà các môn đệ của Đức Giêsu, vị Tôn Sư tuyệt đối (didaskalos,
23,8), sẽ cống hiến cho mọi dân tộc sẽ hoàn toàn vượt xa những gì toán
lính phổ biến, vì họ đã làm theo lời “các thượng tế dạy” (edidachthêsan,
28,15). Các môn đệ sẽ được che chở và nâng đỡ “cho đến tận thế”, không
phải bởi một quyền bính nhân loại như quyền bính của các thượng tế,
nhưng bởi uy quyền của Đấng Phục Sinh, Chúa tể vũ hoàn.
2- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (28,16-17);
2) Các lời nói của Đức Giêsu (28,18-20):
a) Mạc khải về quyền năng (18),
b) Lệnh truyền giáo (19-20a),
c) Hứa hiện diện hỗ trợ (20b).
3- Vài điểm chú giải
- Về phần mười một môn đệ (16): Ở đầu c. 16 này, có tiêu từ de
(“và”, “rồi”; “nhưng”; “về phần”) hẳn là để nêu lên sự tương phản giữa
báo cáo sai lạc của toán lính với sự thật về cuộc hiện ra của Đức Giêsu
với mười một môn đệ.
- Mười một môn đệ (16): Trong Mt, Đức Giêsu có một nhóm các “môn đệ” (mathêtês: từ này được dùng trong Mt 73 lần, Mc 46 lần, Lc 37 lần, Ga 78 lần. Có 65 trong Mt ở số phức) luôn luôn được xác định bằng quán từ (article) hoi (x.
5,1; 8,21; 9,10; 12,1; 13,10; 14,15; 15,2; 16,5; 28,7). Điều này khẳng
định rằng họ được biết rõ trong tư cách đó và họ không phải là nhóm “bảy
mươi hai” của Lc (vả lại, Lc không gán cho nhóm “bảy mươi hai” cái tên “môn đệ”, mà là “bảy mươi hai người khác”, x. Lc 10,1). Các ông là những người sống hiệp thông với Thầy mình (“einai meta”
[“ở với”]), tháp tùng Thầy trong sứ vụ của Người (9,19), cùng làm việc
với Người để phục vụ các đám đông (9,36-37), được nêu ra làm gương cho
các đám đông và được giới thiệu như là gia đình đích thực của Đức Giêsu
(12,46-50). Mt xác định rằng các ông là “mười hai môn đệ” (
10,1; 11,1; hay là “Nhóm Mười Hai”: 20,17; 26,20; ở c. 10,2, các ông
cũng được gọi là “mười hai tông đồ” cùng với tên của các ông).
Con
số “mười một” nhắc đến sự vắng mặt thê thảm của Giuđa, “một trong Nhóm
Mười Hai” (26,14.47; x. 10,2.4): sự hư hỏng đã xảy ra ngay trong nhóm,
tức là đây không phải là một nhóm toàn vẹn; với lại, tất cả các ông khác
đều đã té ngã (x. hoi mathêtai: 26,56b; Phêrô: 26,69-75).
Nhưng sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã
là một dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh
em của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với
Đức Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một
dấu chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải.
- ngọn núi (16): To oros
(danh từ với quán từ xác định) cho hiểu rằng chính là trên một quả núi
mà Đức Giêsu và các môn đệ đã biết, nhưng không cung cấp một xác định
nào khác.
- Bái lạy (17): Mt chỉ dùng động từ proskyneô (Mt 13 lần; Mc 2 lần; Lc
2 lần) cho những ai đã nhìn nhận phẩm giá của Đức Giêsu và diễn tả sự
nhìn nhận đó ra bằng hành vi này (x. các hiền sĩ: 2,2.8.11; người phong
cùi: 8,2; ông trưởng hội đường: 9,18; các môn đệ trên thuyền: 14,33; bà
Canaan: 15,25; mẹ các con ông Dêbêđê: 20,20; các phụ nữ tại mồ: 28,9).
- Nhưng có mấy ông lại hoài nghi (17): Trong Tân Ước, động từ distazein chỉ xuất hiện ở 14,31 (Phêrô đi trên mặt nước) và ở đây. Động từ này nhắc đến những gì Tin Mừng đã nói biết bao lần về phẩm chất của đức tin của các môn đệ: ở 6,30; 8,26-27; 14,31; 16,8; 17,20 (x. câu 17). Mt là tác giả duy nhất ghi nhận “đức tin lớn (megalê hê pistis)” của bà Canaan (15,28). Cùng với đề tài đức tin, Mt trình bày đề tài sự hiểu biết (synienai) và không hiểu biết: ở 15,16; x. 16,12; 17,13.
- Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất (18): Động từ edothê
ở thì aorist thái bị động trần thuật (passive indicative): Thì aorist
nhắm đến một sự kiện đã hoàn tất, chứ không phải là một lời hứa hay một
niềm hy vọng; hẳn là ta có thể nghĩ đến một quan hệ mặc nhiên với sự
phục sinh. Thái bị động đây là một thái bị động thay tên minh nhiên của
Thiên Chúa. Hơn nữa, cách thức khẳng định cách tuyệt đối như thế gợi ý
rằng Thiên Chúa là tác giả (so sánh c. 18b với 11,25).
Đề tài exousia cũng là một đề tài quan trọng của Mt
(9 lần: 7,29; 8,9; 9,6; 9,8; 10,1; 21,23; 21,24; 21,27; 28,18). Từ ngữ
có nghĩa là “quyền hành”, “uy quyền”, “quyền lợi”, “khả năng”, là những
đặc tính của giáo huấn và cách hành động của Đức Giêsu: phân đoạn
5,1–7,29 (Bài Giảng trên núi) giới thiệu Đức Giêsu như là “Đấng Mêsia có
uy quyền trong lời nói” (x. 7,28), còn phân đoạn 8,1–9,38 giới thiệu
Người như là “Đấng Mêsia có uy quyền trong hành động” (x. 11,2) (Đức
Giêsu khẳng định rằng Người có exousia này: 9,6; dân chúng:
7,29; viên sĩ quan: 8,9; khi thấy người bại liệt được chữa lành, dân
chúng tôn vinh Thiên Chúa: 9,8; Đức Giêsu nói về quyền của Người và từ
chối cho biết nguồn gốc của quyền ấy: 21,24.27). Câu 28,18 là như tổng
hợp về đề tài này và là một câu trả lời cho nhà chức trách tôn giáo: Đức
Giêsu không phải là một người mất trí hay một kẻ tiếm quyền; Người đã
nhận được quyền bính này trọn vẹn, trên toàn vũ trụ, từ Thiên Chúa (chứ
không phải từ tay ma quỷ, x. 9,34). Ở đây, điều được khẳng định là quyền (exousia) đã được Thiên Chúa ban.
- hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ (19): Trong các Tin Mừng, động từ mathêteuein chỉ được sử dụng ở Mt
(13,52; 27,57; 28,19) với hai nghĩa: 1) nghĩa nội động (intransitive):
trở thành môn đệ (13,52; 27,57); 2) nghĩa ngoại động (transitive): làm
thành môn đệ; làm cho ai thành môn đệ (28,19; x. Cv 14,21). Đây không
phải là chỉ trình bày, cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng, nhưng là
kiến tạo một quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Kiểu mẫu của quan hệ này
chính là quan hệ của Đức Giêsu lịch sử với các môn đệ đã được Người kêu
gọi (môn đệ đi theo [akolouthein, x. 4,20.22; 8,23; 19,27.28], Thầy đi trước [proagein, x. 26,32; 28,7]).
- nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần (19): Công thức “nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” một công thức phép rửa. Qua công thức này, ta găp thực tại chúng ta có trong các Tin Mừng Nhất Lãm: đó là quan hệ chặt chẽ giữa đời sống và công trình của Đức Giêsu với Cha Người trong Chúa Thánh Thần. Cựu Ước
biết đến vị Thiên Chúa tạo thành trời đất, đây là vị Thiên Chúa mà họ
đến trình diện trong tư cách là các thọ tạo hoàn toàn khác với Ngài và
không có quyền đi vào đối thoại với Ngài. Đức Giêsu loan báo vị Thiên
Chúa có một người đối thoại trong bình diện thần linh. Chúa Con ở trước
mặt Chúa Cha, và hai Đấng được liên kết với nhau, biết nhau, hiểu nhau
và yêu thương nhau trọn vẹn và hoàn hảo nhờ Chúa Thánh Thần. Bí tích Rửa
tội nhận chìm chúng ta vào trong vùng quyền lực của vị Thiên Chúa này.
- Này đây Thầy (20): Mt chuộng thức mệnh lệnh idou này. Nên ghi nhận là công thức long trọng idou egô luôn luôn có quan hệ với ý tưởng sứ mạng: 10,16; 23,34 et 28,20.
- Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20): Khi nói minh nhiên pasas tas hêmeras (tất cả các ngày), Đức Giêsu khẳng định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ. Heôs tês synteleias tou aiônos (cho đến tận thế) có nghĩa mục tiêu, nơi đến: nhắm đến tận thế. Từ ngữ synteleia (hoàn tất; kết cục) luôn được sử dụng với aiôn có nghĩa là “thời gian hiện tại”, “tình trạng hiện nay của tạo thành” (x. 13,22; 12,31). Synteleia tou aiônos
có nghĩa là “khi kết thúc thời gian của thế giới này”. Người ta chờ đợi
một kết thúc thời gian này với việc Đức Giêsu ngự đến (x. 24,3).
4- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc diện kiến của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu (16-17)
Phần thứ nhất kể lại các hành vi của các môn đệ trong quá khứ (aorist) (đi tới, c. 16; bái lạy, c. 17; hoài nghi, c. 17). Bản văn cũng ghi nhận một hành vi của Đức Giêsu, “đã truyền” (etaxato,
c. 16), nhưng chắc chắn đây là một hành vi Đức Giêsu đã làm trước các
hoạt động của các môn đệ được kể lại trong đoạn văn này; hành vi này lại
chỉ là một mệnh lệnh, một hành vi nói. Ngược lại, trong các bản văn
khác về hiện ra, Đức Giêsu hành động cùng nhịp với những người có mặt,
chẳng hạn, ở Mt 28,9, Đức Giêsu đến gặp (hypêntêsen) các bà. Phải chờ đến c. 18 để gặp được một hành vi của Đức Giêsu, nhưng cả hành vi này cũng chỉ là một hành vi nói (elalêsen).
Các nhân vật chính của phần thứ nhất là hoi hendêka mathêtai,
“mười một môn đệ”. Con số này nhắc đến sự phản bội của cả nhóm. Nhưng
sứ điệp mà Đức Giêsu ban cho các ông nhờ trung gian các phụ nữ đã là một
dấu cho thấy Người tha thứ và hòa giải; Người gọi các ông là “anh em
của Thầy” (28,10). Bây giờ, cuộc hành trình của các ông tiến về với Đức
Giêsu và sự hiện diện của các ông tại nơi Người đã chỉ định là một dấu
chứng tỏ các ông đón nhận sự tha thứ và hòa giải. Các môn đệ tiến về một
nơi đã được Đức Giêsu xác định trước và theo thông tin của các phụ nữ
(lệnh của sứ thần (28,7) và lệnh của Đức Giêsu ban cho các phụ nữ).
Trong Mt,
ta không thấy có một lệnh minh nhiên của Đức Giêsu là đi đến một ngọn
núi được xác định, nhưng có những chi tiết liên hệ đến Galilê. Tất cả
các chi tiết này, khi được đặt vào trong bối cảnh là cuộc Thương Khó và
Phục Sinh, thì giống như những tia chớp hy vọng được ban cho các môn đệ
(tại núi Ô-liu, Đức Giêsu đã nói đến Galilê: 26,32; tại mộ, vị thiên
thần đã nhắc đến Galilê: 28,7; Đức Giêsu xác nhận sứ điệp: 28,10).
Chuyến đi đưa các ông về nơi Đức Giêsu đã chỉ định cho thấy rằng họ vừa
thi hành lệnh Đức Giêsu truyền, họ vừa ý thức rằng họ đang được trở vào
trong tình bằng hữu với Người, tình bằng hữu mà Người đã mời họ đến khi
gọi họ là “anh em của Thầy” (28,10).
Như
thế, câu truyện sẽ kết thúc ngay tại nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu đã bắt
đầu: tại “Galilê, miền đất của dân ngoại”, đã xuất hiện ánh sáng có sức
thắng vượt bóng tối của tử thần (4,15-16) và giúp cho có thể bắt đầu
việc rao giảng cho muôn dân (28,19). Ở đây tầm quan trọng của Galilê đặc
biệt có tính thần học: Đấng Phục Sinh gặp lại các môn đệ Người tại nơi
chính của hoạt động trần thế Người (nhất là theo Mc và Mt);
điều này giả thiết có một sự tiếp nối giữa Đức Giêsu trần thế và Đức
Kitô Phục Sinh, một sự tiếp nối mà c. 20a sẽ nêu bật minh nhiên (“[bằng cách] dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”).
Do chính sự kiện này, Người xác nhận việc loan báo đầu tiên của Người,
hoặc đơn giản hơn, xác nhận trọn vẹn sứ mạng của Người và giới thiệu sứ
mạng ấy như mẫu mực cho các môn đệ.
Lời
Đức Giêsu nói với các phụ nữ (28,10), “họ phải đi đến Galilê”, là một
mệnh lệnh, còn “họ sẽ được thấy Thầy ở đó” là một lời hứa. Vậy bản văn
của chúng ta là sự hoàn tất mệnh lệnh ấy và sự thực hiện lời hứa ấy.
“Ngọn
núi” không phải là một nơi mà người ta hẳn là có thể xác định theo địa
lý; đây là nơi tiêu biểu cho mạc khải (5,1: “Bài Giảng trên núi”; 15,29:
mạc khải của Đấng cứu thế, Đấng nuôi dưỡng dân Người như Môsê xưa kia
trong hoang địa; 28,16: “ngọn núi” xuất hiện lần thứ ba, để cũng nêu bật
tầm quan trọng của mạc khải như thế).
Sự kiện các môn đệ “thấy” Đức Giêsu được kín đáo giới thiệu bằng một vị tính từ (participle), lệ thuộc động từ chính: “các ông bái lạy”.
Việc “thấy Đức Giêsu” chỉ được nhắc đến ngắn ngủi ở đây, khác với các
bài tường thuật khác về hiện ra, nhưng nó chẳng còn giá trị gì khi nói
về niềm tin Phục Sinh. Sự kiện quan trọng đối với Mt là “các ông bái lạy” (prosekynêsan),
đây là cách tôn kính mang tính tôn giáo và thậm chí phụng vụ. Thái độ
này diễn tả trước những gì sẽ được lời tuyên bố ở c. 18b loan báo về
quyền của Đức Giêsu. “Nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (c. 17). Ở đây,
nỗi ngờ vực đã xảy đến idontes, “khi thấy Người” như là Đấng Phục Sinh. Chúng ta phải ngạc nhiên khi thấy phát sinh nỗi ngờ vực,
nghĩa là một tình trạng ngần ngại, lưỡng lự, trong bối cảnh lại quá đậm
đặc và tiêu biểu này. Phản ứng này xuất hiện nhiều lần trong các bài
tường thuật khác về hiện ra. Nỗi hoài nghi được thắng vượt mỗi lần một
cách: Đấng Phục Sinh xin các ông cho ăn (Lc 24,41tt); Đức Giêsu hiện ra một lần nữa với các môn đệ lúc đầu không tin (Mc 16,14tt); Tôma có thể chạm tới các vết thương của Đức Giêsu (Ga
20,24-29). Ta không thấy có gì tương tự ở đây cả. Có lẽ sự hoài nghi
này liên hệ đến một thời đại muộn màng hơn: cộng đoàn hôm nay không còn
thấy Đức Giêsu bằng mắt thịt nữa, họ có thể rơi vào hoài nghi; họ phải
thắng vượt khó khăn này nhờ dựa vào lời của Đấng Phục Sinh. Các lời nói
của Đức Kitô Phục Sinh và sự vâng phục của các môn đệ với lời Người là
cách thế duy nhất giúp vượt qua nỗi hoài nghi.
* Các lời nói của Đức Giêsu (18-20)
Đứng
trước đức tin xen lẫn hoài nghi của các môn đệ, lời Đức Giêsu nói cung
cấp câu trả lời. Đấng Phục Sinh không trách các ông về sự bất trung hoặc
về nỗi hoài nghi; thậm chí Người cũng không xua tan nỗi hoài nghi bằng
một cử chỉ hoặc một chứng từ bổ sung. Người đến gần các ông và nói.
Người từ xa đến với những người là các môn đệ Người, vâng phục Người và
đang cung kính bái lạy Người. Chỉ mình Người có thể vượt qua khoảng
cách bằng cách đi đến với các ông. Proserchomai là một động từ được Mt ưa chuộng (Mt 52x; Mc 5x; Lc 10x; Ga 1x), nhưng chỉ có hai lần ông diễn tả một hành vi chủ động của Đức Giêsu (ở đây và ở 17,6-7: hai đoạn riêng của Mt): trong trường hợp này, Đức Giêsu đến gần là để nâng đỡ những người đang hoài nghi hoặc đang sợ.
Vấn đề ở đây là một lời nói, vấn đề ở đây là nghe
chứ không phải là thấy. Chính lời nói của Đức Giêsu tạo được sự trấn an
diễn tả ra bằng hành vi đến gần: Người tự tỏ mình ra trong lời Người
nói như là Đấng được đặt để trong quyền bính và nói với uy quyền. Trong
tư cách đó, Người hiện diện trong thời gian của thế giới, trong Giáo Hội
cho đến tận thế.
Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất
(18b). Được đặt ở đầu bài diễn từ, mạc khải này đỡ nâng các khẳng định
tiếp sau: lệnh truyền và lời hứa. Đức Giêsu khẳng định quan hệ của Người
với Thiên Chúa và vị trí hiện nay của Người: chính Thiên Chúa, Cha của
Đức Giêsu (so sánh với 9,6.8; 11,27 và Đn 7,14), đã ban cho Người tất cả
các quyền hành trên trời dưới đất.
Theo lời rao giảng tiên khởi (kêrygma) của các tông đồ, do Phục Sinh, Người đã được đặt làm Đức Chúa (Kyrios)
trên vũ trụ và làm Thẩm phán vào lúc tận thế. Trong thực tế, bản văn
không nói cho biết là Người đã được Chúa Cha đặt để như thế khi nào,
nhưng nhấn mạnh rằng quyền lực tối thượng này của Đấng Phục Sinh là vô
biên (pasa) tự nó trong sự viên mãn và trong cường độ của nó:
trong không gian, Đấng Phục Sinh hiển trị trên vũ hoàn (trời và đất),
như trong Cựu Ước, Thiên Chúa được nhìn nhận là Chúa tể trời đất, nghĩa
là Đấng Tạo hóa và Bảo toàn tất cả vũ trụ; và trong thời gian, Người
hiển trị bây giờ và cho đến tận thế.
Bây
giờ, trong tư cách là Đấng đại diện toàn quyền của Thiên Chúa, Đức
Giêsu là Đấng mạc khải cánh chung cho biết ý muốn của Thiên Chúa và là
Đấng thực hiện dự phóng cứu độ của Ngài. Các môn đệ có thể hoàn toàn
chắc chắn rằng họ được ban cho quyền này.
Từ oun,
“vậy”, gợi ý là lệnh truyền này là hậu quả của tuyên bố về quyền vũ
hoàn của Đức Giêsu, là sứ mạng của Nhóm Mười Một phát xuất từ quyền bính
của Đức Kitô. Tuy nhiên, lệnh truyền được ban cho toàn nhóm, điều này
cho thấy rằng bổn phận truyền giáo là một nhiệm vụ của toàn thể cộng
đoàn chứ không của một vài cá nhân. Uy quyền (c. 18) và sự hiện diện của
Đức Giêsu (c. 20) sẽ cho các ông đủ tư cách và uy tín mà chu toàn bổn
phận này.
Khi đi rao giảng, các môn đệ không chỉ trình bày, chỉ cống hiến sứ điệp, loan báo Tin Mừng (keryssein),
nhưng là kiến tạo mộtcộng đoàn có quan hệ chặt chẽ và riêng tư. Tương
quan của các môn đệ với Đức Giêsu là kiểu mẫu cho sự hiệp thông với
Người mà mọi dân tộc đang được đưa dẫn tới. Kể từ nay, kiểu mẫu này là
chuẩn mực cho mọi Kitô hữu: “môn đệ” có thể nói là định nghĩa ngắn nhất
của Kitô hữu. Được giao sứ mạng “làm ra các môn đệ”, Nhóm Mười Một đang
hiện diện ở đây sẽ có thể rút ra từ đó biết bao hệ luận: một đàng, kinh
nghiệm sống với Đức Giêsu phải luôn luôn là điểm qui chiếu cho họ trong
hoạt động; đàng khác, tư cách môn đệ không phải là của riêng thuộc về
những bạn đồng hành lịch sử của Đức Giêsu trần thế, trái lại đây là tư
cách mà kể từ nay mỗi người được mời gọi đi vào. Tất cả đều được mời gọi
trở thành”môn đệ Đức Giêsu”, vị Thầy duy nhất (x. 23,8.10).
Chiều
hướng phổ quát đã được báo trước trong lời nhắc đến Abraham (1,1),
trong truyện các đạo sĩ (2,1-12), vị sĩ quan Caphácnaum (8,5-13), bà
Canaan (15,21-28), viên sĩ quan canh giữ Đức Giêsu trên đồi Sọ (27,54).
Đi đến với các dân tộc đã là chọn lựa của Đức Giêsu, cho dù trong diễn
từ truyền giáo (ch. 10), Người đã truyền các môn đệ là chỉ đi đến với
các chiên lạc Israel thôi. Tính phổ quát truyền giáo này còn được báo
trước ở 24,4 và 26,13, và bây giờ được khẳng định như là ý muốn chính
xác của Đức Giêsu. Điều bị cấm trước đây ở 10,5 (anh em đừng đi tới vùng các dân ngoại) bây giờ được khuyến cáo thi hành (hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ): như đại đa số các lần xuất hiện, từ ethnç trong Mt
có nghĩa chữ là Dân ngoại, lệnh này chỉ liên hệ đến Dân ngoại. Nhưng
nếu Israel không còn là đối tượng của một sứ mạng đặc biệt, điều này
không có nghĩa là Israel bị loại ra khỏi chân trời Phục Sinh. Rất có thể
vào thời của cộng đoàn Mt, đã có một sự đoạn tuyệt giữa Giáo Hội và Hội đường; nhưng người Do Thái tiếp tục là một thực tại của cộng đoàn Mt.
Nếu Israel bị kết án, mỗi người Do Thái vẫn có thể đến với cộng đoàn
các môn đệ. Sẽ xuất hiện mộtcộng đoàn phổ quát trong đó mỗi người có một
quan hệ trực tiếp và thân tình vừa với Đức Giêsu vừa với những người
khác. Hoạt động của các môn đệ là một sự tiếp nối hoạt động của Đức
Giêsu (4,23; 9,35; 11,1).
Để
làm cho muôn dân thành môn đệ, hai việc các môn đệ phải làm là “làm
phép rửa” nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi và “giảng dạy”. Căn tính mới của
Thiên Chúa là căn tính Cha, Con và Thánh Thần, mà người môn đệ bắt đầu
quan hệ với qua bí tích thánh tẩy. Lệnh truyền giảng dạy đã được đặt vào cuối Tin Mừng, có thể là vì Mt
coi nhiệm vụ giảng dạy như là nhiệm vụ cao nhất trong Hội Thánh. Nhóm
Mười Một không được phép mở trường, nhưng tiếp tục học ở “trường” Đức
Giêsu: các ông phải giảng dạy, như chính Đức Giêsu đã giảng dạy. Cho dù
các ông đã nhận lãnh bổn phận giảng dạy, các ông sẽ phải mãi mãi duy trì
chân tính môn đệ, bằng cách nhìn nhận và chấp nhận uy quyền của Đức
Giêsu, bằng cách bây giờ tin vào Đức Giêsu như tin vào chính Thiên Chúa.
Đề tài giảng dạy đã có sẵn: các lệnh truyền của Đức Giêsu. TM Mt
chứa biết bao lời giảng dạy của Đức Giêsu (trong năm diễn từ), nhưng
nhất là giáo huấn của Bài giảng trên núi đáng được xét đến. Trong lệnh
truyền giáo, Đấng Phục Sinh đã nói với các môn đệ là “dạy bảo họ mọi
điều Thầy đã truyền cho anh em” (c. 20). Câu này chắc chắn quy về tất cả
mọi lời nhắn nhủ, tất cả giáo huấn của Đức Giêsu trong TM Mt,
nhưng đặc biệt qui về các lời nhắn nhủ trong Bài Giảng trên núi bởi vì
Bài Giảng này chứa phần lớn những gì Đức Giêsu đã dạy các môn đệ và có
một giọng thôi thúc người ta thực hiện các lời nhắn nhủ này (x.
7,13-27).
Tuy
nhiên, Đấng nói đây không còn là vị Thầy trần thế nữa, nhưng là Đức
Chúa Phục Sinh, “Đấng đã được ban cho toàn quyền trên trời dưới đất”.
Bây giờ, với uy quyền của Đấng là “Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta” trong mức
viên mãn của sự Phục Sinh, Đức-Giêsu-đang-sống lấy lại giáo huấn của
Bài Giảng trên núi và nhắc lại cho các thế hệ tương lai.
Mục
tiêu không còn phải là chu toàn Lề Luật hoặc các Ngôn sứ, nhưng tuân
giữ “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”. Như thế, chính Đức
Giêsu đặt mình vào vị trí của “Lề Luật hoặc các Ngôn sứ” (x. ngay ở
5,21-48 với các công thức “Anh em đã nghe [Luật] dạy người xưa / Còn
Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”), Người là Đấng lập pháp tối cao, diễn
tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa. Thái độ này khi đó và lệnh truyền
hiện nay gửi trở lại với các công thức khác nhau của Cựu Ước trong đó
chính Đức Chúa (Yhwh) truyền lệnh cho dân Ngài là tuân giữ điều răn của
Ngài (x. 2 Sb 33,8; Xh 34,32; Đnl 4,2;
12,14). Bây giờ Đức Giêsu thay thế Yhwh khi khẳng định ý muốn của Người.
Và chắc chắn ý muốn thần linh này được tập trung nơi điều răn yêu
thương, đỉnh cao và sự hoàn tất của Kinh Thánh (“Lề Luật hoặc các Ngôn
sứ”: x. 22,40).
Tuy
nhiên, hẳn là ta có thể nới rộng ý nghĩa của “tất cả những gì Thầy đã
truyền cho anh em” cho cả bốn bài diễn từ khác, bởi vì tác giả đã xác
định rằng chúng cũng là những “chỉ thị/dụ ngôn/những điều” của Đức Giêsu
(x. công thức kết luận mỗi bài diễn từ: 11,1; 13,53; 19,1; 26,1; x.
7,28-29). Vấn đề ở đây là các giáo huấn của Thầy về các điều kiện và bản
chất của đời sống đích thực của người môn đệ và về nẻo đường thánh ý
chân thực của Thiên Chúa, “nẻo đường công chính” (21,32).
Khi nói “tất cả những gì Thầy đã truyền cho anh em”, Đức Giêsu xác định giáo huấn của Người là như một lệnh truyền, như một đòi hỏi cấp bách (trong một ngữ cảnh tương tự, Mc nói đến “tin mừng”: 13,10; 14,9; Lc
thì nói đến “hoán cải và tha thứ tội lỗi”: 24,47). Đấng Phục Sinh biến
lời của Đức Giêsu trần thế thành chuẩn mực cho Hội Thánh mọi thời và
“cho đến tận thế”. Sứ điệp của Đấng Phục Sinh được coi là đồng nhất với
sứ điệp của Đức Giêsu trần thế.
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (20b). Egô meth’ hymôn eimi. Giới từ meta +
thuộc cách có nghĩa là “với” nhằm diễn tả sự hiệp thông, sự hiệp nhất
(cơ bản là riêng tư cá nhân), sự cộng tác, khi đó là tương quan của Đức
Giêsu với những người khác: Đặc biệt 28,20 đáp lại khởi đầu Tin Mừng,
khi mà Đức Giêsu được giới thiệu lúc chào đời như là Đấng mà “người ta
sẽ gọi tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta”
(1,23). Ở đây chúng ta có một thể đóng khung rất lớn bung mở ra chiều
kích vũ hoàn của bản thân Đức Giêsu trên toàn thể lịch sử nhân loại,
đồng thời vẫn nêu bật sự bám rễ của Người về phương diện xác thịt trong
thời gian và không gian. Thực tại Emmanuel này được diễn tả
xuyên qua toàn thể Tin Mừng: Vào lúc chào đời của Đức Giêsu (1,23);
trong khi hoạt động, Người hiện diện giữa nhóm môn đệ (9,15;
26,18.20.36.38.40; x. “Đức Giêsu dẹp yên biển động”, 8,23-27; egô eimi, 14,27); những lần Người tiếp xúc với người tội lỗi (9,11) và qua cái chết ban ơn cứu chuộc (26,28; x. 1,21; 17,17 so với Mc 9,19). Mt 28,20 hẳn là câu trả lời chung cuộc cho câu hỏi ấy. Bây giờ Người hứa ở với họ mãi mãi.
Trong Cựu Ước, bằng những thuật ngữ tương tự Ta sẽ ở với các ngươi mãi mãi,
Yhwh thường đảm bảo với một tín hữu, một ngôn sứ, một thủ lãnh, toàn
dân, nhất là trong bối cảnh một cuộc sai phái, là Người sẽ hiện diện,
nghĩa làgiúp đỡ tận tình, với lòng từ bi thương xót, để cứu độ. Đấng Kyrios ban cho các môn đệ cũng một đảm bảo như Yhwh đã ban cho dân Ngài trong Cựu Ước.
Người không thế chỗ cho các môn đệ, nhưng sẽ hiện diện với họ để nâng
đỡ họ bằng sức mạnh, không do các đức tính hay các thành tích của các
môn đệ, nhưng do sự trung tín hữu hiệu của Đấng đã đưa các lời hứa trong
Kinh Thánh đến chỗ hoàn tất. Khi nói “tất cả các ngày”, Đức Giêsu khẳng
định Người sẽ ở thường trực và trọn vẹn với các môn đệ, và nhắm đến tận
thế, “lúc kết thúc thời gian của thế giới này”.
+ Kết luận
Trên
núi Galilê (28,16; x. 5,1), Đức Giêsu Phục Sinh, đại diện toàn quyền
của Thiên Chúa, tỏ mình ra như là Đấng mạc khải tối hậu của Thiên Chúa
và Đấng lập pháp vĩnh viễn, nay cử các môn đệ đi đến với mọi dân tộc.
Trong Cựu Ước, núi Sinai xuất hiện ra như là quả núi của mạc khải và của
Giao ước, trên đó Thiên Chúa tự tỏ mình ra và thông ban các điều răn
của Ngài (Xh 19,1–24,11). Từ Sinai, dân Israel bắt đầu cuộc
hành trình tiến về Đất hứa; trên núi Galilê, Đức Giêsu đích thân, trong
tư cách Đấng Phục Sinh, tức đã đi vào trong đời sống Thiên Chúa, cho
thấy đâu là mục tiêu của mỗi người trong “tất cả các dân tộc”.
Các lời kết thúc của Đức Giêsu đã đón nhận lấy các nội dung chính của TM Mt về
sứ vụ không biên giới của các môn đệ. Điều này còn cho thấy một lần nữa
chiều hướng tổng hợp hướng về sứ vụ phổ quát như là nét tiêu biểu của
Tin Mừng này.
5- Gợi ý suy niệm
1.
Nhóm môn đệ có mộtvết thương, gây ra do sự phản bội và sự biến mất của
Giuđa. Họ không còn là mười hai, là là mười một. Vết thương này nhắc nhớ
rằng tất cả đã bất trung với Đức Giêsu. Khi Người bắt đầu chuyến đi vào
Thương Khó, các ông đã cắt đứt việc đi theo Người hoặc bằng cách chạy
trốn (26,56) hoặc bằng cách giữ khoảng cách trong ba lần chối
(26,69-75). Tuy nhiên, Đức Giêsu đã chữa lành vết đứt này. Người không
gọi những môn đệ mới, nhưng gọi chính những người đã thất bại trong thử
thách Khổ Nạn. Khi các môn đệ đến nơi hẹn, Đức Giêsu không hề thốt ra
mộtlời trách móc, mà lại còn giao sứ vụ, là sứ vụ của chính Người.
2. Nhận biết và hoài nghi là hai thái độ có thể đi với nhau, như lời xin của cha đứa bé trong Tin Mừng Máccô: “Tôi tin! Nhưng xin Thầy giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc
9,24). Do đó, cần phải nhìn lại tất cả hoạt động công khai của Đức
Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục Sinh. Bây giờ Đức Giêsu mạc khải
cho các môn đệ biết Người có toàn quyền, Người là Chúa tể không giới
hạn, do quyền Chúa Cha ban cho Người. Người đã gọi các ông, các ông đã
đi theo Người, đã nghe lời Người giảng dạy; Người đã chết trên thập giá,
nhưng nay Người đang sống trước mắt các ông và là Chúa tể tuyệt đối,
các ông hãy tin trọn vẹn vào Người.
3.
Các môn đệ của Đức Giêsu phải ra đi để làm cho muôn dân “trở thành môn
đệ” Người, chứ không phải trở thành môn đệ của chính mình. Các môn đệ
mới sẽ cùng các ông bước theo Đức Giêsu, nghĩa là liên kết với Đức
Giêsu, hiệp thông cuộc sống với Người, chấp nhận Người chỉ cho mình lộ
trình phải theo, xác định hình thái và chiều hướng sống, ký thác trọn
vẹn nơi Người.
4.
Những người được nhận lời hứa hiện diện thường trực cho đến tận thế,
không chỉ là các môn đệ ở trên núi Galilê ấy mà thôi. Chân trời mở rất
rộng: Đấng Kyrios không hiện diện giữa dân Người như trong mầu
nhiệm nội tại và trong thực tại thần bí của Người, nhưng đúng ra, tại
mọi thời và trong mọi tình huống, Người ở bên cạnh dân để trợ giúp và an
ủi họ, để khích lệ và kêu gọi họ, và Người luôn luôn tháp tùng hoạt
động của các sứ giả Người. Mt không nhắc đến Thăng thiên để
không đưa Đức Giêsu đi xa cộng đoàn của Người: Người tháp tùng họ trong
cuộc hành hương trần thế “cho đến tận thế”.
Bài 2. Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm Inhaxiô Hồ Thông
Lễ
Thăng Thiên tưởng niệm vừa một biến cố hữu hình, mà các Tông Đồ là
những nhân chứng: cuộc lên trời của Đức Giê-su, và một biến cố vô hình:
việc tôn vinh Chúa Con trở về cùng Chúa Cha.
Cv 1: 1-11
Sách
Tông Đồ Công Vụ tường thuật biến cố lên trời hữu hình: sau khi đã ban
cho các môn đệ của Ngài những huấn lệnh sau cùng, Đức Giê-su biến mất
vào trong đám mây trước mắt các ông.
Ep 1: 17-23
Trong
thư gởi cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô, thánh Phao-lô ca ngợi biến cố lên trời
vô hình: việc tôn vinh Chúa Con bởi Chúa Cha, Đấng đặt Ngài trên muôn
loài muôn vật và thiết lập Ngài làm đầu Giáo Hội. Biến cố này thiết lập
niềm hy vọng lớn lao của Kitô hữu là được dự phần vào vinh quang nầy,
bởi vì Giáo Hội là “thân thể” của Đức Kitô.
Mt 28: 16-20
Trong
Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu tường thuật một cuộc gặp gỡ duy nhất
của Đức Kitô phục sinh với các Tông Đồ của Ngài trên núi Ga-li-lê ở đó
Đức Giê-su mặc khải cho họ rằng Ngài đã đón nhận mọi quyền năng và sai
họ ra đi loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
BÀI ĐỌC I (Cv 1: 1-11)
Sách
Tông Đồ Công Vụ mà Chúa Nhật hôm nay trích phần đầu được trình bày như
phần tiếp theo của sách Tin Mừng thứ ba, Tin Mừng của thánh Lu-ca: cũng
một tác giả và cũng một người nhận: ông Thê-ô-phi-lô nào đó mà chúng ta
không biết.
Thánh Lu-ca hoàn tất sách Tin Mừng của mình ở nơi biến cố Thăng Thiên: “Người rời bỏ các ông và được đem lên trời…” Lời tựa ngôn của sách Công Vụ Tông Đồ nêu lên hai lần cùng một sự kiện: “Cho đến ngày Ngài được rước lên trời” (1: 2) và “Nói
xong, Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện
lấy Người, khiến các ông không còn trông thấy Người nữa” (1: 9).
Như
vậy, bằng cách trình bày văn chương, ở cuối sách Tin Mừng và đầu sách
Công Vụ, biến cố Thăng Thiên xuất hiện chính xác như vừa hoàn tất vừa
khởi đầu: hoàn tất sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô ở giữa con người,
và khởi đầu sự hiện diện vô hình của Ngài; hoàn tất sứ mạng trần thế của
Đức Giê-su, và khởi đầu sứ mạng các Tông Đồ.
1. Hai biến cố Thăng Thiên:
Chúng ta có thể phân biệt một cách nào đó hai biến cố Thăng Thiên:
-
Biến cố Thăng Thiên thứ nhất không có nhân chứng là cuộc trở về cùng
Cha Ngài ngay sau biến cố Phục Sinh; đó là cuộc hội ngộ Ba Ngôi, biến cố
thần linh tuyệt mức; và đó là sự tôn vinh của Chúa Con, sự tôn vinh mà
Đức Giê-su xin trong lời nguyện của Ngài, trước lúc tử nạn: “Vậy,
lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: xin ban cho con vinh
quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian.” (Ga 17: 5).
-
Biến cố Thăng Thiên thứ hai là cuộc lên trời hữu hình của Đức Giê-su
trước mắt các Tông Đồ. Biến cố liên quan chủ yếu đến chúng ta : đó là
bản tính nhân loại, cùng với Đức Kitô, sẽ được dự phần vào vinh quang
Thiên Chúa. Vì thế, cuộc Thăng Thiên nầy loan báo cuộc Thăng Thiên của
chúng ta.
2. Lý do của biến cố Thăng Thiên hữu hình:
Tại
sao Đức Giê-su chọn cách thức ra đi xem ra ngoạn mục nầy, dù nhanh và
kín đáo? Trong cuộc gặp gỡ sau cùng của Ngài với các môn đệ, phải chăng
Đức Giê-su không thể loan báo cho họ rằng Ngài sẽ không tỏ mình ra nữa,
từ biệt họ rồi biến mất như Ngài đã làm trong suốt bốn mươi ngày kể từ
biến cố Phục Sinh?
Chúng
ta có thể gặp thấy câu trả lời: biến cố Thăng Thiên hữu hình là cách
thức Đức Giê-su đã giới thiệu cuộc sống tiền hữu và nhập thể của Ngài
trong suốt cuộc sống công khai của Ngài.
Ngài đã lên trời một cách hữu hình như vậy khi xưng mình dưới danh hiệu “Con Người”, nhân vật mà ngôn sứ Đa-ni-en thấy trong một thị kiến “đến trên mây trời”. Với ông Ni-cô-đê-mô Đức Giê-su xác định: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3: 13).
Đức Giê-su sử dụng cùng một hình ảnh khi tuyên bố mình là“bánh hằng sống từ trời xuống”. Trong bài diễn từ về bánh hằng sống, Ngài nêu lên sáu lần Ngài là “bánh từ trời xuống”. Cuối cùng Ngài chấm dứt bằng những lời như sau: “Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (Ga 6: 62). Qua những lời trên, Đức Giê-su không thể nào loan báo rõ ràng hơn biến cố lên trời tương lai của Ngài.
3. Những lần hiện ra hữu hình của Đấng Phục Sinh:
“Trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa”:
Nếu
con số bốn mươi ngày không chính xác thì cũng chẳng quan trọng gì, biết
bao ý nghĩa được chất chứa ở đây: nó hình thành nên một sự sóng đôi với
bốn mươi ngày Đức Giê-su đã trải qua trong hoang địa, giữa phép rửa của
Ngài bởi Gioan và khởi đầu cuộc đời công khai của Ngài, để chuẩn bị thi
hành sứ mạng của Ngài. Bốn mươi ngày là khoảng thời gian giữa biến cố
Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên, Đấng Phục Sinh chuẩn bị cho các môn đệ
Ngài thi hành sứ mạng.
Chúng
ta có thể thắc mắc Đấng Phục Sinh đã sống như thế nào trong suốt bốn
mươi ngày. Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một cách nào đó cách sống
nầy. Quả thật, khi đọc đoạn văn Công Vụ nầy làm thế nào không nghĩ đến
sách Tô-bi-a (12: 15-21). Sau khi đã hoàn thành sứ mạng trần thế của
mình, thiên sứ Ra-pha-en bày tỏ cho hai cha con ông Tô-bi-a căn tính
đích thật của mình: “Tôi đây là Ra-pha-en, một trong bảy thiên sứ
luôn luôn hầu cận và vào chầu trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa…Bình
an cho các ngươi! …Phần tôi, tôi đã ở với các ngươi … do ý muốn của
Thiên Chúa… Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thật ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy… Nầy tôi lên cùng Đấng đã sai tôi.” Và thiên sứ lên trời. Hai cha con đứng dậy, nhưng không thể thấy thiên sứ nữa…
4. Cần thiết phải có Chúa Thánh Thần:
Trước
khi từ biệt các Tông Đồ, Đức Giê-su dặn dò những chỉ bảo sau hết cho
các ông và loan báo cho họ trong ít ngày nữa họ sẽ chịu phép rửa trong
Thánh Thần: “Ông Gioan đã làm phép rửa bằng nước còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”.
Vào lúc đó một câu hỏi không thể nào tin được: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?”.
Vì thế, giấc mộng chính trị xưa kia của họ: khôi phục nền độc lập
Ít-ra-en, vẫn còn đó. Đức Giê-su không quở trách họ. Ngài mượn một hình
ảnh khác: vương quốc mà Ngài sắp giao phó cho họ sẽ vượt quá không gian
Giu-đê nhỏ bé, nó sẽ mang tầm mức thế giới…Nhưng vào lúc nầy, vì chưa có
sức mạnh của Chúa Thánh Thần, họ chưa thể nào hiểu được.
5. Đức Giê-su biến mất trong mây trời:
Không
cốt là một đám mây nào đó, nhưng là dấu chỉ cho thấy sự hiện diện của
Thiên Chúa như thường xảy ra trong Cựu Ước. Hơn nữa, thánh Lu-ca là tác
giả Tin Mừng về Truyền Tin: đám mây, dấu chỉ của Chúa Thánh Thần, phủ
bóng Đức Ma-ri-a vào lúc Mẹ thụ thai đồng trinh; cũng đám mây bao phủ
Đức Giê-su vào lúc Ngài từ giả cõi thế. Một thiên sứ hiện diện khi Đức
Trinh Nữ nói tiếng “Xin Vâng”. Cũng có các thiên sứ hiện diện vào lúc Đức Giê-su trở về với Cha Ngài.
6. Chiêm niệm và hành động:
Sức mạnh đến từ trên cao sẽ thúc đẩy các môn đệ dấn thân vào một cuộc mạo hiểm truyền giáo lớn lao “tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất”.
Chúng ta đừng ngạc nhiên khi Lu-ca trích dẫn Giê-ru-sa-lem trước tiên
vì Tin Mừng Lu-ca đặt Giê-ru-sa-lem làm trung tâm điểm của ơn Cứu độ.
Chính là lúc phải hành động chứ không là những lưu luyến vô bổ như lời nhắc nhở của thiên sứ: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời? …Đức Giê-su cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Người lên trời.”
Họ
phải bắt tay vào công việc lớn lao và Giáo Hội không ngừng theo đuổi.
Thật lý tưởng, vừa nuôi dưỡng tấm lòng của mình hướng về quê trời vừa
biết liên kết giữa hành động và chiêm niệm.
BÀI ĐỌC II (Ep 1: 17-23)
Đoạn
thư thánh Phao-lô gởi cho Giáo Đoàn Ê-phê-sô này được chọn là có chủ ý
để tưởng niệm biến cố Thăng Thiên của Đức Kitô. Mặc dầu không nêu đích
danh biến cố Thăng Thiên, nhưng thánh nhân cho biến cố nầy chiều kích
thần học: Đức Giêsu về cùng Cha đón nhận vinh quang và uy quyền, đồng
thời kêu mời mọi tín hữu hãy dự phần vào cùng một cuộc sống vinh quang
nầy.
Thánh
nhân viết từ Rô-ma trong cảnh giam cầm vào những năm 61-63. Trong những
thư viết trong tù này, thánh nhân cho chúng ta những suy niệm cao vời
của mình về mầu nhiệm cứu độ và mầu nhiệm Giáo Hội, “thân thể của Đức Kitô”.
Trong
đoạn trích thư này, chúng ta có thể phân biệt hai phần: phần thứ nhất:
lời cầu nguyện, và phần thứ hai: những mối liên hệ giữa Đức Kitô vinh
hiển và Giáo Hội.
1. Lời cầu nguyện:
Trong
những thư sau cùng của thánh Phao-lô, lời cầu nguyện càng lúc càng trở
nên quan trọng. Tất cả những thư mà thánh nhân viết trong cảnh bị giam
cầm đều đón nhận thể văn cầu nguyện. Thánh nhân nhắc đi nhắc lại: “Anh em hãy cầu nguyện không ngừng. Anh em hãy cầu nguyện trong mọi lúc”.
Chính ngài cũng cho họ mẫu gương. Lời cầu nguyện của ngài luôn luôn ngỏ
lời với Chúa Cha. Trong bản văn nầy, Chúa Cha đón nhận tước hiệu “Chúa Cha vinh hiển”.
Cách diễn tả nầy có thể là tước hiệu phụng vụ, do từ một viễn cảnh được
nêu lên: viễn cảnh vinh quang mà Chúa Cha cho Chúa Con Phục Sinh được
dự phần vào và, theo sau Chúa Con, mọi tín hữu.
Thánh Phao-lô cầu xin Chúa Cha ban cho các tín hữu thần khí khôn ngoan để họ càng ngày càng hiểu biết Thiên Chúa. “Hiểu biết Thiên Chúa” được hiểu theo Kinh Thánh là được sống với Ngài trong đức tin và đức mến, chứ không là một sự hiểu biết trừu tượng.
“Xin
Ngài soi lòng mở trí cho anh em để anh em thấy rõ đâu là niềm hy vọng
anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang
phong phú anh em được chia sẻ cùng dân thánh”. Hai cách diễn tả: “niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn Người kêu gọi” và “gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia sẻ cùng các thánh”, chỉ cùng một thực tại tinh thần: dự phần vào cuộc sống vinh quang của Chúa Con Phục Sinh. Quả thật, trong Cựu Ước, cách nói: “chia sẻ gia nghiêp” gợi lên một sự kiện lịch sử: chia sẻ Đất Hứa, nghĩa là đất Ca-na-an, giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en. Trong Tân Ước: “chia sẻ gia nghiệp” giữa những người được tuyển chọn, nghĩa là “đồng thừa tự” cuộc sống vinh quang với Đức Kitô.
2. Đức Kitô vinh hiển và Giáo Hội:
Lời
nguyện xin cho được ơn soi sáng dâng trào thành lời ngợi ca tôn vinh
Đức Kitô, Đấng được đặt làm Chủ Tể vũ trụ và Thủ Lãnh Giáo Hội.
“Người đã tôn Đức Kitô lên trên mọi quyền lực thần thiêng”.
Thánh Phao-lô ám chỉ đến những niềm tin rất phổ biến trong thế giới Do
thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy lạp, theo đó những sinh linh thiên giới:
những quyền lực thần thiêng hay tinh tú, chia sẻ việc điều hành vũ trụ
với nhau, cả trong trật tự vật lý lẫn trong trật tự tinh thần.
Ở
nơi số lượng đông đảo Quyền Thần nầy, chắc chắn phải kể đến những quyền
lực của Ác Thần (Tử Thần là một trong số đó) mà Đức Kitô đã chiến
thắng. Thánh nhân không nêu đích danh trong đoạn văn nầy, nhưng ở gần
cuối thư: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có
thể đứng vững trước những mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu
không phải với phàm nhân, nhưng là những quyền lực thần thiêng, với
những bật thống trị tối tăm nầy, với những thần linh quái ác chốn trời
cao” (Ep 6: 12).
“Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Kitô”.
Đây là câu trích dẫn trực tiếp từ Thánh Vịnh 8, nêu bật lên tư tưởng mà
thánh Phao-lô muốn diễn tả. Qua những từ ngữ nầy, thánh vịnh gia gợi
lên sự cao cả của con người được Thiên Chúa tạo dựng: “Chúa cho con
người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ
triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân.” (Tv 8: 6-7). Như vậy thánh nhân muốn nói rằng Đức Kitô là “Con Người” tuyệt hảo.
“Thiên Chúa đặt Người làm đầu toàn thể Hội Thánh; mà Hội Thánh là thân thể Đức Kitô”.Hình
ảnh nầy là chủ đề trung tâm của thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô. Nó là
đỉnh cao của việc suy gẫm dài lâu về mầu nhiệm Đức Kitô. Đầu ở đó thì
toàn thân ở đó. Và đầu, không chỉ là yếu tố truyền lệnh, điều khiển,
nhưng còn là một bộ phận sinh động, hiệp nhất, đảm bảo sự tăng trưởng
của toàn thân. Khi nào sứ mạng của mình được hoàn thành, Giáo Hội sẽ
hoàn tất ở nơi chính Đức Kitô.
TIN MỪNG (Mt 28: 16-20)
Đoạn
kết Tin Mừng Mát-thêu này không nêu lên biến cố Thăng Thiên hữu hình,
nhưng một hoạt cảnh uy nghi và hùng vĩ: Đức Kitô Phục Sinh hiện ra cho
mười một môn đệ, loan báo cho họ quyền tối thượng hoàn vũ của Ngài, ủy
thác cho họ sứ mạng loan truyền giáo huấn của Ngài đến muôn dân muôn
nước, và đảm bảo với họ Ngài sẽ ở với họ luôn mãi.
Thánh
Mát-thêu không tường thuật bất kỳ cuộc xuất hiện nào khác của Đức
Giê-su với các môn đệ Ngài sau khi Ngài sống lại, ngoại trừ cuộc hiện ra
nầy. Thánh ký tập trung lời chứng về cuộc sống của Đấng Phục Sinh và
những dặn dò tối hậu của Ngài vào cuộc hội ngộ duy nhất này. Như vậy
biến cố này mặc lấy một chiều kích đặc biệt. Nét tiêu biểu đáng chú ý
của đoạn kết này là quy tụ toàn bộ sách Tin Mừng Mát-thêu.
1. Ở Ga-li-lê:
Hoạt
cảnh diễn ra ở Ga-li-lê. Đó là nơi Đức Giê-su đã hẹn gặp các môn đệ
Ngài. Ba lần Ngài đã yêu cầu họ quy tụ với nhau ở nơi nầy. Lần thứ nhất
sau khi Ngài báo trước Phê-rô chối Ngài và tất cả môn đệ sẽ vấp ngã vì
Ngài: “Sau khi trỗi dậy, Thầy sẽ đến Ga-li-lê trước anh em”. (Mt 26: 32). Vào buổi sáng Phục Sinh, thiên sứ đã nói với các người phụ nữ đến viếng mồ: “Hãy
mau về nói với các môn đệ Người như thế nầy: Người đã trỗi dậy từ cõi
chết, và Người đi Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy
Người” (Mt 28: 7). Đức Giê-su đích thân hiện ra với các người phụ nữ và lập lại sứ điệp nầy: “Chị em đừng sợ! Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó”
(Mt 28: 10). Mát thêu là thánh ký duy nhất nhắc lại ba lần cuộc hẹn gặp
ở Ga-li-lê. Thánh Lu-ca định vị cuộc gặp gỡ sau cùng của Đức Giê-su với
các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem, trong khi thánh Mát-thêu, vốn không thích
thành thánh Giê-ru-sa-lem vì nó đã phản bội sứ mạng của mình, dành riêng
sứ điệp tối hậu của Đức Ki-tô cho Ga-li-lê.
Cuộc
gặp gỡ được định vị trên một ngọn núi, núi nào chẳng quan trọng, vì núi
chỉ là một biểu tượng. Không phải tại Tin Mừng Mát-thêu, trên một ngọn
núi vang lên lời dạy các “Mối Phúc” sao?
2. Họ bái lạy Ngài:
“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi”.
Dường như chúng ta có ở đây một hoạt cảnh song song với những hoạt cảnh
mà Mác-cô và Lu-ca mô tả, ở đó những nghi ngờ như vậy cũng được gợi
lên: “Ngài tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một…khiển trách các ông không tin và cứng lòng…” (Mc 16: 14). Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn tay chân Thầy coi, chính Thầy đây mà!” (Lc 24: 36-38).
Đức
Giê-su tiến gần họ để họ nhận ra Ngài rõ hơn. Sau khi cũng cố niềm tin
của họ, Đức Giê-su ủy thác cho họ sứ điệp tối hậu của Ngài: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” Quyền tối thượng hoàn vũ nầy không phải đã được ngôn sứ Đa-ni-en loan báo trong thị kiến về “Con Người” sao?: “Đấng
Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn
người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người.
Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cữu, không bao giờ mai một;
vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong” (Đn 7: 14).
3. Sai đi thi hành sứ mạng:
Đoạn, Đức Giê-su ủy thác cho các Tông Đồ sứ mạng vĩ đại: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành muôn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Rất nhạy bén trước chiều kích hoàn vũ của ơn Cứu độ, thánh ký hoàn tất
tác phẩm của mình trên viễn cảnh bao la: muôn dân muôn nước trở thành
muôn đệ của Đức Ki-tô.
Đồng thời “quyền giáo huấn Giáo Hội” được xác định: “Hãy dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Ngỏ hầu Giáo Huấn nầy được trung thành gìn giữ, Đức Giê-su hứa Ngài: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. “Thầy ở cùng anh em…”
Đức Giê-su không dùng thì tương lai, vì thế đây không đơn giản là lời
hứa nhưng một sự khẳng định. Cuộc ra đi của Ngài có nghĩa một sự hiện
diện theo một hình thức mới. “Ta ở với các ngươi” là lời khẳng
định của Đức Chúa, lời khẳng định này đã nâng đỡ dân Ít-ra-en suốt dòng
lịch sử thăng trầm của mình. Như vậy, thánh Mát-thêu bắt đầu Tin Mừng
của mình với nguồn gốc của Đức Giê-su: Em-ma-nu-en: “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” và cũng kết thúc toàn bộ Tin Mừng của mình với việc Đức Giê-su hoàn thành Kinh Thánh: Ngài là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
Bài 3. KHÁT VỌNG NGÀN ĐỜI
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Những
ngày này, đọc trên các trang mạng hay xem truyền hình Việt Nam, kênh
nào cũng nói về Biển Đông, dàn khoan HD 981, Trung quốc xâm lược.
“Tính
đến 8g30 sáng 25/5, đã có 37.181 người ký tên vào bản kiến nghị trên
website chính thức của Nhà Trắng. Như vậy, từ đây đến ngày 12/6/2014,
cần thêm 62,819 chữ ký nữa để chính quyền ông Obama có hành động cụ thể
với việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Haiyang Shiyou-981 (Hải
Dương-981) trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Bản kiến nghị có
tiêu đề: Hãy áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với Trung Quốc vì
đã xâm phạm chủ quyền Việt Nam thông qua việc hạ đặt giàn khoan Haiyang
Shiyou – 981. Theo nội dung kiến nghị, mối quan hệ giữa hai nước
Hoa Kỳ và Việt Nam đang ngày càng tốt đẹp hơn trong sự hợp tác và hoà
bình. Người Việt Nam khắp nơi trên thế giới kêu gọi Nhà Trắng có các
biện pháp trừng phạt cứng rắn đối với Trung Quốc vì đã ngang nhiên vi
phạm luật pháp quốc tế và chủ quyền của Việt Nam bằng việc hạ đặt giàn
khoan dầu khổng lồ Haiyang Shiyou – 981 trong vùng biển Việt Nam.Theo
các quy định hiện hành của Chính phủ Mỹ, kiến nghị sẽ trở thành chính
thức và được Nhà Trắng xem xét nếu có đủ 100.000 chữ ký ủng hộ trước
ngày 12/6/2014. Đến 22g30 ngày 25/5, đã có 43.658 chữ ký, còn cần thêm 56.342 chữ ký nữa. Như vậy, trong 15 giờ đồng hồ qua, đã có thêm 6.477 người ký tên vào bản kiến nghị”.(Ngọc Hồ).
“Tàu
Trung Quốc đâm tàu cá của ngư dân Việt Nam trên biển của Việt Nam. Họ
đã húc vỡ, chìm tàu cá Đna 90152 của bà Huỳnh Thị Kim Hoa (quận Thanh
Khê, Đà Nẵng) vào chiều 26.5. Tàu vỡ toang và chìm, 10 thuyền viên nhảy
xuống biển, rất may là được các tàu cá khác đến cứu kịp thời. Ông Trần
Văn Lĩnh, Phó Chủ tịch Hội Nghề cá TP Đà Nẵng chỉ thẳng rằng hành động
cố tình đâm vào tàu cá ngư dân Việt Nam của Trung Quốc là vô nhân đạo và
cố ý giết người.Ngư dân của các địa phương khu vực miền Trung cho biết
hiện nay cứ ra khơi là bị tàu sắt giả dạng tàu cá Trung Quốc truy đuổi,
tấn công. Ngư dân phải xoay xở đủ cách để tránh bị húc chìm, kiếm miếng
ăn phải đổi cả tính mạng. Chị Đặng Thị Sương, vợ của một thuyền viên
trên chiếc tàu Đna 90152 nói: ‘Nghề đi biển là nghề làm ăn từ bao đời
nay của người dân nơi đây. Cha mẹ sinh ảnh ra là để ảnh đi biển. Giờ
không đi biển thì biết làm gì. Tàu Trung Quốc có đâm thì vẫn tiếp tục đi
biển’.
Cái
giá của đi biển bây giờ là giá máu, không phải chỉ vì thiên tai bão tố,
mà vì mưu đồ độc chiếm biển Đông của Trung Quốc. Âm mưu của họ là muốn
cho ngư dân Việt Nam sợ hãi, kiệt quệ, không có tài sản để đóng tàu mà
phải bỏ vùng biển truyền thống Hoàng Sa. Một khi ngư dân Việt Nam bỏ
biển, thì Trung Quốc mặc nhiên sở hữu một vùng ngư trường rộng lớn,
chiếc lưỡi bò không còn trong trí tượng tượng của Bắc Kinh nữa.Âm mưu
đưa tàu sắt ra húc tàu cá của ngư dân Việt Nam cũng giống như đưa tàu to
húc tàu chấp pháp Việt Nam tại khu vực giàn khoan Hải Dương 981. Nhưng
Trung Quốc sẽ không bao giờ thực hiện được âm mưu của mình, bởi vì một
lẽ rất đơn giản: Việt Nam!Hãy nghe người phụ nữ chủ tàu bị húc chìm nói:
‘Tuy nhiên còn một tàu đó, có bị Trung Quốc đâm thì mình vẫn tiếp tục
vươn khơi. Dân biển mà không bám biển lấy gì mà ăn, còn để bảo vệ chủ
quyền biển đảo của đất nước mình nữa chứ’. Một người dân bình thường,
chỉ có ước mơ đơn giản là làm nghề biển để kiếm cái ăn. Nhưng cũng biết
‘bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước’.
Trung
Quốc có thể dùng vũ lực để hiếp đáp, gây hấn, xâm lấn nhất thời, nhưng
chắc chắn một điều, sẽ không bao giờ thực hiện được dã tâm thôn tính
biển Đông của Việt Nam. 90 triệu dân Việt Nam không khoanh tay ngồi nhìn
cái lưỡi bò tham lam tự tung tự tác”. (Lê Chân Nhân).
1. Khát vọng ngàn đời
Đọc lại câu chuyện Phù Đổng Thiên Vương để tiếp thêm sức mạnh cho mỗi người dân Việt.
Vào
đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh
nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm
người tài giỏi giúp nước diệt giặc. Bấy giờ ở làng Phù Đổng có một cậu
bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà
vua rao hịch tìm người tài diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua,
đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu
đi đánh đuổi ngoại xâm. Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, Vua thuận ý.
Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm
roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân. Dẹp xong giặc,
cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn rồi về trời. Vua nghĩ là thiên thần của
trời cao xuống trần cứu giúp nên liền xây một đền thờ gọi là đền Phù
Đổng Thiên Vương để tạ ơn và tưởng nhớ.
Câu
chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại
bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành
trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một
khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.
Con
người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi
trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được
trời cao.Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em
Mongolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn
người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu
tiên bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I
của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969 hai phi hành gia người Mỹ là
Armstrong và Aldrin bay lên tới mặt trăng. Cả thế giới đã hồi hộp theo
dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải
trở về trái đất.
2. Chúa Giêsu Lên Trời
Hôm
nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau
khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà,
Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).
Chúa
Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay
lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và
hòa biến vào không gian vô tận.
Trên
trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức
nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm
ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ : “Hỡi các
khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các
cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy
tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai ? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt,
là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều
đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh
hiển là ai ? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.
Đoàn
tùy tùng theo Chúa về trời đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ
phụ, các tiên tri, các người công chính…đang hoan hỉ vui mừng đi theo
Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham,
Giacop, Môisê, thánh Giop, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh
Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.
Trên
núi Cây Dầu cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí
như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ
tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng
Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh
cao cả” (Tv 47, 2-3, 6-9).
Chúa về trời vì chính Người đã từ trời xuống thế: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng đã từ trời xuống”
(Ga 3,13). Người đến nhân gian để nói với nhân loại về Nước Trời, mặc
khải cho con người biết Thiên Chúa. Người giúp họ thay đổi quan niệm về
Thiên Chúa cũng như quan niệm về con người.
3. Hiện diện mới
Chúa
về trời, một cuộc tạm biệt chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp
lại nhau trong một tương quan mới.Chúa về trời gợi lên trong tâm hồn
chúng ta một khát vọng quy hướng về Người để rồi đối với chúng ta không
còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung
mãn Người ban tặng. Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu
nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi
đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó chỉ có
thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con
người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi
hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút
nào đó họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Những người yêu nhau muốn
sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì
dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người
không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu một khi ngự bên
hữu Chúa Cha đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến
ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “ Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” ( Ga 14,23). Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho “ Thầy
là cây nho các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong
người ấy thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy anh em chẳng
làm gì được”(Ga 15,5). Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên
Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người
và người là Chúa mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật,đó
là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
4. Trao Sứ Vụ
Chúa về trời mở ra sứ vụ mới cho các Tông đồ. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu với lệnh truyền của Chúa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thọ tạo”. Nội dung của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: “Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em”. Bảo chứng cho sứ vụ truyền giáo là: “Có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng”.
Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ rồi đến
các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta “và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa
đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Người.
Sứ mệnh của Chúa là sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể
hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh
đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những
sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục
loan truyền chân lý, trao ban sự sống,dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc
vĩnh cửu.
Giáo Hội Thánh chọn lễ Thăng Thiên làm Ngày Thế giới Truyền thông. Ngày lễ Thăng Thiên gắn liền với mệnh lệnh: “Anh
em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền cho anh em” (Mt 28,19). Các Tông Đồ lên đường truyền giáo,
cộng đoàn Giáo Hội được thiết lập và những bước chân không mệt mỏi của
người loan báo Tin Mừng đã làm nên lịch sử Giáo Hội. Có truyền giáo là
có truyền thông, và bởi vì có truyền rao sứ điệp cứu rỗi của Tin Mừng
nên mới có những người lắng nghe, đón nhận đức tin và được sống trong ơn
cứu rỗi. Truyền giáo là nghĩa vụ “thông truyền điều đã thấy và đã nghe”
(1 Ga 1,3) để mọi người được hiệp thông với Thiên Chúa. Đây là điểm
khác biệt giữa truyền thông xã hội và truyền thông công giáo. Trong khi
truyền thông xã hội khai thác thông tin theo quy luật cung cầu của thị
trường, thì truyền thông công giáo lại xác định hướng đi của mình là mùa
màng trong đời sống đức tin.
Trong
thế giớikỹ thuật số, Giáo Hội khuyến khích con cái mình vận dụng những
phương tiện truyền thông hiện đại nhất để thi hành sứ vụ loan báo Tin
mừng. Đức cha Giuse Vũ Duy Thống gọi những người làm truyền thông là
những thừa tác viên mới trong công cuộc truyền giáo mới vì họ luôn gắn
bó với một phương tiện mới.
Sứ
điệp của Đức Thánh Cha Phanxicô nhân Ngày Thế Giới Truyền Thông Xã Hội
lần thứ 48, có chủ đề: Truyền thông, phục vụ một nền văn hóa gặp gỡ đích
thực.Truyền thông là cơ hội gặp gỡ giữa con người với nhau và đồng thời
là dịp xây dựng tình cận thân trong ý nghĩa của Tin mừng. Đó là hình
ảnh của người Samaritanô nhân hậu.
Nếu
Chúa Giêsu sinh ra trong thời đại này, Người sẽ dùng internet để rao
giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô là nhà truyền thông đầu tiên, vĩ đại,
đại tài vì sứ điệp của Người là Tin Mừng, là tin vui cho mọi người. Chúa
Giêsu có mạng lưới gồm các Tông đồ thông truyền Tin Mừng cho nhân loại.
Qua các môn đệ,Tin Mừng được loan truyền từ thế hệ này đến thế hệ
khác.Chúa Giêsu không có các phương tiện hiện đại, Người có các Tông đồ,
các môn đệ, các thế hệ nối tiếp nhau như mạng lưới phổ biến Tin Mừng
khắp nơi trên thế giới.
Truyền
thông chính là chia sẻ niềm vui Tin mừng cứu độ. Truyền thông có đặc
điểm là khiêm tốn, nhẹ nhàng, nên mọi sự cho mọi người và xây dựng một
nền văn hóa gặp gỡ yêu thương. Từ đó giúp con người nhận ra tình yêu của
Chúa. Đây là sứ vụ Chúa trao phó cho mỗi người tín hữu trong thời đại
hôm nay.
Cảm
tạ Thiên Chúa đã ban những phương tiện truyền thông hiện đại. Ước mong
mỗi người tín hữu biết sử dụng các phương tiện truyền thông với đức tin,
trong sự tuân phục sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, góp phần loan báo
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô.
Bài 4. Chúa lên Trời, ta hãy mến yêu những sự trên Trời
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Hôm
nay, Chúa lên Trời, chúng ta hướng tâm hồn lên với Chúa, và trông đợi
Người lại đến như lời đã hứa trước khi về Trời, để Người ở đâu chúng ta
cũng ở đó. Vì thế, chúng ta hãy nuôi dưỡng lòng ái mộ những sự trên
Trời, để cũng được cả xác lẫn hồn về trời với Chúa. Đây là niềm vui lớn
lao và tràn đầy hy vọng khi chúng ta hướng về tương lai trên hành trình
dương thế. Toàn bộ ý nghĩa Chúa về Trời được các bài đọc Thánh Kinh diễn
tả. Nội dung chứa đựng trong những lời sau : “Chúa Giêsu đã bắt đầu làm và giảng dạy, Người căn dặn các Tông đồ xong…”. Và sau đó “Người lên Trời ” (x. Cvtđ 1, 1- 11).
Theo sự quan phòng trong kế hoạch đời đời của Thiên Chúa, “đã đến giờ Chúa Giêsu rời bỏ thế gian mà về cùng Đức Chúa Cha“.
Lời này được lặp đi lặp lại mỗi đoạn Tin Mừng trước lễ Chúa về Trời.
Chúa từ giã Đức Maria Mẹ Người và nhất là tâm sự với các môn đệ nhiều
điều. Hôm nay Người bảo các ông : “Các con sẽ nhận được sức mạnh của
Thánh Thần ngự xuống trên các con, và các con sẽ nên chứng nhân cho
Thầy tại Giêrusalem, trong tất cả xứ Giuđêa và Samaria, và cho đến tận
cùng trái đất ” (Cvtđ 1, 8). Thế là nhiệm vụ từ đây được ủy thác, đến lượt mình các Tông đồ phải thi hành cách trung thành.
Đang
lúc chờ đợi Chúa Thánh Thần, Món Quà do Chúa Cha ban xuống, Ngài là là
sức mạnh của các Tông đồ. Chính Ngài hướng dẫn Giáo hội đi trên đường
chân lý, Tin Mừng phải được rao truyền bởi quyền năng của Thiên Chúa chứ
không phải do sức mạnh hay khôn ngoan của người đời. Trước khi về Trời,
Chúa Giêsu “đã ra lệnh cho các ông chớ rời khỏi Giêrusalem, nhưng hãy chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa” (Cvtđ 1, 4). Người nói với các ông : “các
con hãy đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và
Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các
con” (Mt 28, 19). Căn cứ vào lời của Chúa Giêsu, các Tông đồ có
trách nhiệm phải loan báo Tin Mừng cho thế giới, làm phép cho họ nhân
danh Cha và Con và Thánh Thần, nói cho thế gian biết về Nước Thiên Chúa
và ơn cứu độ, nhất là phải làm chứng về Chúa Kitô “cho đến tận cùng trái đất
“(Cvtđ 1, 8). Giáo Hội sơ khai thấu hiểu huấn lệnh Chúa truyền, nên đã
khai mở thời kỳ truyền giáo dù biết rằng thời kỳ này chỉ kết thúc vào
ngày Chúa Giêsu lên trời, và trở lại.
Những
lời Chúa Giêsu để lại cho Giáo hội là kho tàng vô giá. Giáo hội không
những phải gìn giữ, loan báo, suy niệm mà còn sống nữa. Chúa Thánh Thần
sẽ làm bén rễ sâu trong lòng Giáo hội ơn đặc sủng được sai đi. Chúa
Giêsu đã và sẽ luôn sống trong Giáo hội như lời Người đã hứa : “Và đây Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”
(Mt 28, 20). Vì thế, Giáo hội nhận ra sự cần thiết phải trung thành với
kho tàng đức tin và những lời Chúa truyền dạy, đồng thời thông truyền
từ thế hệ này đến thế hệ khác, tới chúng ta ngày hôm nay. Lời Chúa và
chỉ có Lời Chúa là nền tảng cho mọi sứ vụ, cũng như tất cả các hoạt động
mục vụ của Giáo hội. Thẩm quyền của Lời Chúa là nền tảng mà Công Đồng
Vatican II và Thánh Gioan XXIII đã nhấn mạnh trong bài phát biểu khai
mạc : “Mối quan tâm chính của Công đồng Đại kết, là kho tàng thiêng liêng Kitô giáo phải luôn được giữ gìn và giảng dạy” (Bài phát biểu của ngày 11 tháng 10 1962). Thách thức lớn nhất của chúng ta là trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu.
Suy tư thứ hai về ý nghĩa Chúa Giêsu lên trời dựa trên cụm từ : “Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu…”.
Sau khi hạ mình xuống trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu lên Trời ngự bên hữu Đức Chúa Cha đến muốn đời. Theo lời thánh Lêo Cả, khi Vị Thủ Lãnh của chúng ta bước vào thiên đàng và ở trên đó, “vinh quang của Đầu” đã trở thành “niềm hy vọng cho thânxác” (x. Sermo Ascensione Domini). Chúa Giêsu đã vĩnh viễn bước vào thiên đàng, “Người là Đầu và là Trưởng Tử giữa đàn em đông đúc”
(Rm 8, 29). Vì bản tính của chúng ta là ở trong Thiên Chúa và ở trong
Đức Giêsu Kitô. Nên vì loài người chúng ta (thân xác), Chúa Giêsu là
(Đầu) hằng sống đến muôn thủa muôn đời hằng cầu thay nguyện giúp cho
chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Dt 7, 25). Từ tao cao vinh hiển, Người
gửi cho Giáo hội một sứ điệp hy vọng và mời gọi hướng đến sự thánh thiện
trên Trời nơi Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa.
Nhờ
công nghiệp và lời cầu bầu của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha cho chúng
ta, chúng ta có hy vọng đạt tới sự công chính và sống thánh thiện nơi
Người. Giáo hội có thể gặp phải những khó khăn, việc loan báo Tin Mừng
có thể bị thất bại, nhưng vì Chúa Giêsu ngự bên hữu Đức Chúa Cha, Giáo
hội sẽ không bao giờ bị đánh bại. Sức mạnh của Chúa Kitô vinh hiển, Con
yêu dấu của Chúa Cha hằng gìn giữ chúng ta, giúp chúng ta tận tụy và
trung thành với Nước Thiên Chúa một cách quảng đại. Sự kiện lên Trời của
Chúa Kitô ảnh hưởng cụ thể đến đời sống hàng ngày của chúng ta. Vì mầu
nhiệm này, toàn thể Giáo hội có ơn gọi đợi chờ trong niềm hân hoan hy
vọng ngày Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ chúng ta ngự đến.
Chúa
Giêsu vị Thủ Lãnh của chúng ta đã chiến thắng tội lỗi và sự chết, hiển
vinh về Trời, đó là niềm hy vọng của chúng ta. Người sẽ trở lại đón
chúng ta đi với Người. Để được về Trời với Chúa, chúng ta hãy gia tăng
lòng mộ mến những sự trên trời và tích cực làm việc vì Nước Trời.
Hướng
về Mẹ Maria “Nữ Vương Thiên Ðàng”, chúng ta xin Mẹ bảo vệ gìn giữ chúng
ta là con cái Mẹ, biết sống và thực hành lời Chúa truyền dạy, để một
ngày kia chúng ta cũng được về Trời với Chúa Giêsu. Đức Mẹ và các thánh
vui hưởng tôn nhan Chúa Ba Ngôi đến muôn thủa muôn đời. Amen.
Bài 5. Suy niệm của Đgm. Phaolô Maria Cao Đình Thuyên
Một
người cha và cậu con trai 10 tuổi đang ngồi theo dõi chuyến bay vũ trụ
của con tàu Appolo 15. Sau lúc phi thuyền rơi xuống mặt biển làm tung
toé nước chung quanh, người cha liền hỏi đứa con: “Này Jim, con có nghĩ
gì không?”. Ai cũng tưởng với đứa trẻ 10 tuổi thì câu trả lời sẽ ngắn
gọn như sau: “Thưa bố, thật gọn nhẹ êm xuôi tuyệt vời!”. Nhưng Jim lại
trịnh trọng thưa: “Bố biết không, con rất hãnh diện là người Hoa Kỳ!”.
Tin tức từ các nước bên ngoài không kể quốc tịch đều có một phản ánh
tương tự. Họ tuyên bố: tôi hãnh diện là một con người.
Hôm
nay, khi chiêm ngắm Chúa Giêsu lên trời vinh hiển, chúng ta cũng có thể
và phải tuyên bố: tôi hãnh diện là một người Kitô hữu, là người theo
Chúa Giêsu. Bởi vì, một cách nào đó, chuyến bay vũ trụ nhắc nhở chúng ta
về sự lên trời của Chúa Giêsu.
Cả
hai đều nói lên một chiến thắng: chiến thắng lực thiên nhiên, chiến
thắng lực hấp dẫn của trái đất, sức nóng quá độ, sự điều tiết của cơ thể
con người đối với sự thay đổi áp lực và trạng thái vô trọng lượng. Sự
lên trời của Chúa Giêsu cũng vậy, đó là cả một sự chiến thắng, nhưng là
chiến thắng quan trọng hơn: chiến thắng sự thoái hoá của sự dữ, chiến
thắng tinh thần trên vật chất.
Mỗi
chuyến bay vũ trụ đều là một cố gắng phi thường của một số người, hay
nói khác đi là một cố gắng tập thể: hàng ngàn khoa học gia, kỹ thuật gia
cùng chung sự hiểu biết để thiết kế phi thuyền, trang bị máy móc, hoạch
định đường bay, chuyến bay, đề phòng bất trắc. Để được lên trời với
Chúa Giêsu cũng đòi một cố gắng tập thể, phải cùng nhau hành động để đạt
được chiến thắng thiêng liêng, cũng như Chúa Giêsu khi về trời.
Cả
hai cũng đều tốn kém. Tàu Appolo 15 phải tốn đến 445 triệu đôla. Sự về
trời của Chúa Giêsu càng tốn kém hơn nữa: tốn cả cuộc đời và cả dòng máu
để yêu mến, phụng sự và hy sinh vì tha nhân. Chúng ta muốn lên trời
cũng thế. Ngay sau khi chương trình không gian bắt đầu, nhiều người Mỹ
đã tỏ ý được đăng ký để đi du hành. Khoảng giữa năm 1964 và năm 1971 đã
có 9 vạn người giành được vé để du hành Mặt Trăng. Là người Kitô hữu,
chúng ta cũng phải khao khát theo Chúa về trời. Bởi vì như lời Kinh Tiền
tụng Lễ Thăng Thiên: “Đầu tiến tới đâu thì chi thể của Người cũng hy
vọng tới đó…”. Ta không biết Hãng Hàng không Hoa Kỳ đòi bao nhiêu một
chuyến bay lên Mặt Trăng – chắc chắn những người bình thường không thể
trả rồi. Nhưng để theo Chúa về trời thì mọi người đều có thể làm được.
Những ai tin và chịu Phép Rửa là đã có vé không phải lên Mặt Trăng, mà
là vé lên trời. Những chuyến bay của Appolo đều hữu ích cho loài người.
Nó đem lại nhiều lợi ích như tiên báo thời tiết chính xác hơn, khám phá
ra nguồn năng lượng mới, cải thiện chế độ dinh dưỡng của con người.
Nhưng việc lên trời lại càng giá trị hơn. Vì nó làm ta chiếm hữu được
chính mình Thiên Chúa, để muôn đời sống hạnh phúc với người mà không bao
giờ sợ mất nữa.
Dĩ
nhiên có sự khác biệt khá xa. Chúa lên trời chứng tỏ sự vượt trội trên
vật chất của Thiên tính Người. Hơn nữa, Thiên đàng là một trạng thái
vượt mọi ý niệm về không gian và thời gian. Do đó, lên trời không có
nghĩa là đổi chỗ cư trú từ mặt đất đến một nơi nào đó ngoài Trái Đất, mà
chính là một sự tôn vinh. Chúa Giêsu khi đi tới cùng sự chọn lựa của
Ngài, vì chấp nhận cái chết trên thập tự giá, Ngài được Thiên Chúa tôn
vinh và ban vinh quang trọn vẹn. Tuy thế, Ngài vẫn hiện diện giữa trần
gian, không phải nơi này hay chỗ khác, mà là khắp cùng Trái Đất, để cùng
hoạt động với Giáo hội. Do đó, mừng lễ hôm nay không có nghĩa là ngước
mắt nhìn trời, mà chính là lo chu toàn sứ mạng mà Chúa Giêsu đã giao là
rao giảng Tin mừng cứu độ cho muôn dân (Bằng cuộc sống).
Bài 6. “THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ!”
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ
Có
ai đó đã nói/viết một câu chí lý rằng thì là: “Đức Giê-su đã không để
lại một cuốn sách nào cho các môn đệ trước khi về trời; Người chỉ để lại
một lời hứa và cũng là lời cam kết: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!” Và đối với các Ki-tô hữu và Hội Thánh Công giáo, chỉ bấy nhiêu là đủ.
Chúng
ta hãy dành thời gian để chiêm niệm ý nghĩa của Lễ Chúa Giê-su Ki-tô
Thăng Thiên và của lời mà Người đã hứa với các môn đệ ngày xưa và với
chúng ta ngày nay.
II. LẰNG NGHE/ĐỌC LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 1,1-11): Đức Giê-su được cất lên ngay trước mắt các ông
2.2 Trong bài đọc 2 (Ep 1,17-23): Thiên Chúa đã đặt Đức Ki-tô ngự bên hữu Người trên trời.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 28,16-20): Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Thiên Chúa Cha,
Đấng “đã biểu dương sức mạnh toàn năng nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức
Ki-tô trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời. Như vậy,
Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, trên mọi
tước vị có thể có được, không những trong thế giới hiện tại, mà cả trong
thế giới tương lai. Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô và đặt
Người làm đầu toàn thể Hội Thánh.
Hành động trên của Thiên Chúa Cha chính là ý nghĩa của Sự Kiện Thăng Thiên (lên trời) của Chúa Giê-su Na-da-rét.
* Là Chúa Giê-su Ki-tô Phục Sinh, Đấng
- “đã dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các môn đệ thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình.”
- đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em.”
-
đã giao sứ vụ giảng dậy và làm phép rửa cho các Tông đồ: “Anh em hãy đi
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy
đã truyền cho anh em.”
- đã long trọng hứa với các Tông đồ: “Thày ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!”
-
và đã lên trời trước mắt các Tông đồ: “Người được cất lên ngay trước
mắt các ông, và có đám mây quyện lấy Người, khiến các ông không còn thấy
Người nữa.”
* Là Chúa Thánh Thần,
Đấng luôn ở bên cạnh và hành động cùng với Chúa Cha và Chúa Con; Đấng
được Chúa Giê-su hứa ban cho các môn đệ để giúp các ngài thực thi sứ vụ
mà Chúa Giê-su giao phó trước khi Người về trời.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua
ba bài Sách Thánh hôm nay, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp
của Lời Chúa hôm nay gồm ba khía cạnh liên kết chặt chẽ với nhau:
Thứ nhất là tin Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng đã chịu khổ hình (chết) và phục sinh, đã thăng thiên về trời.
Thứ hai là tin vào lời hứa của Người: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Thứ
ba là thực thi lệnh truyền của Người cũng là sứ vụ Người giao cho chúng
ta: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa
cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân
giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
Mỗi
người được Thiên Chúa và Hội Thánh mời nhìn lại mình xem trong cuộc
sống hàng ngày mình đã thể hiện lòng tin và đã chu toàn sứ vụ như thế
nào?
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như
con cái sống với cha mẹ, như người bạn sống với bạn mình, như môn đệ
sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân
phục!
4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa qua 2 bước:
* Bước 1: Tăng cường lòng tin đối với Chúa Giê-su Ki-tô và với lời Người hứa, nhờ:
- đọc, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện mỗi ngày;
- chia sẻ Lời Chúa trong nhóm nhỏ;
- học hỏi và cầu nguyện Thánh Kinh;
- đào luyện tâm linh;
- các việc bác ái, từ bỏ và dấn thân.
* Bước 2:
Hiến dâng tài năng, tâm trí, của cải và thời gian cho công cuộc loan
báo Tin Mừng và hướng dẫn đời sống tâm linh cho những người cần được
giúp đỡ.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú:
Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý
thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo
xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1
“Thưa anh em, tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là Thiên Chúa của Đức
Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí khôn ngoan để mặc
khải cho anh em nhận biết Người.” Chúng ta hãy cầu nguyện
cho các dân các nước, nhất là cho những người chưa nhận biết Chúa Giê-su
Ki-tô và Thiên Chúa là Cha của Người, để họ được Thần Khí khôn ngoan
mặc khải về Mầu Nhiệm của Thiên Chúa.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
5.2
“Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho
họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ
mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” Chúng ta hãy cầu
nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô – nhất là cho Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ
-, để mọi Ki-tô hữu trở thành chứng nhân của Tin Mừng Cứu Độ!
5.3 “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.”
Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng
chúng ta, để mọi người vững tin vào lời hứa và sự hiện diện của Chúa
Giê-su Ki-tô trong cuộc đời mỗi người!
5.4 “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em”
Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người thành tâm thiện chí và cho
những ai khao khát chân lý đều nhận được sức mạnh của Thần Khí Thiên
Chúa.
Bài 7. HÃY NGẨNG ĐẦU NHÌN LÊN
JM. Lam Thy ĐVD.
JM. Lam Thy ĐVD.
Bài
đoc 1 hôm nay (Cv 1, 1-11) tường thuật mầu nhiệm thăng thiên: Đức
Giê-su Ki-tô dặn bảo các Tông đồ xong, thì Người được cất lên trời, ngự
bên hữu Chúa Cha. Tâm trạng các môn đệ hẳn nhiên là hoang mang lo sợ,
bởi Người Thầy – mà cho đến giờ phút này các ông vẫn còn bán tín bán
nghi (“Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” –
Mt 28, 17) – lại một lần nữa nói một cách khó hiểu. Vừa mới nói “Và
đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, thì ngay lập tức
“Người được cất lên ngay trước mắt các ông, và có đám mây quyện lấy
Người, khiến các ông không còn thấy Người nữa”. Cái mâu thuẫn của hiện
tượng này khiến các Tông đồ cứ mải miết “đăm đăm nhìn lên trời phía
Người đi”.
Tâm
lý thông thường của con người là vậy, sống bằng và sống với giác quan:
phải nhìn thấy tỏ tường (thị giác), nghe thấy rõ ràng (thính giác), sờ
mó cầm nắm được (xúc giác), biết được mặn nhạt (vị giác), ngửi được mùi
hương (khứu giác). Do đó, Thầy vừa nói Thầy sẽ ở với mình luôn mãi, thì
ngay sau đó Thầy lại đi mất hút, bảo sao khỏi ngỡ ngàng, hụt hẫng, nếu
không muốn nói là lo sợ, đau đớn, buồn rầu. Chính vì thế nên các Tông đồ
chỉ lo nhìn lên theo bóng Thầy, với tâm trạng vừa hoài nghi, vừa chán
nản, chẳng còn tin tưởng vào đâu đựoc nữa. Niềm tin lại một lần nữa bị
thử thách, khiến các môn đệ quên mất những điều Thầy vừa truyền dạy.
Cũng vì biết rõ con người là thế, nên Thiên Chúa đã phải sai thiên sứ
đến cảnh tỉnh: “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời?
Đức Giê-su, Đấng vừa lìa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự
đến y như các ông đã thấy Người lên trời.” (Cv 1, 11).
Sự
mâu thuẫn giữa Lời dạy của Đức Giê-su và hiện tượng thăng thiên không
chỉ làm các môn đệ thêm bán tín bán nghi, mà cho đến ngày nay cũng không
ít người hoài nghi. Và nếu có tin vào biến cố thăng thiên, thì cũng chỉ
coi Lời dạy “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” là lời an ủi
suông. Ấy cũng chỉ vì họ đã quên mất một điều là khi suy niệm Lời Chúa
trong Thánh Kinh, cần chú ý đến cả hai phương diện: “nghĩa chiểu tự”
(nghĩa đen) và “nghĩa thiêng liêng” (nghĩa bóng). Giáo Lý Hội Thánh Công
Giáo đã giải thích rõ : “Nghĩa chiểu tự” còn gọi là “nghĩa văn tự”, đó
là nghĩa mà lời Thánh Kinh nêu lên. Tất cả các nghĩa trong Thánh Kinh
đều dựa vào nghĩa văn tự (Điều 116); Nhờ sự thống nhất trong ý định của
Thiên Chúa, không những bản văn Thánh Kinh, mà cả các thực tại và biến
cố được bản văn đề cập đến đều có thể là những tiên trưng, tức “nghĩa
thiêng liêng” (Điều 117).
Trong
“nghĩa thiêng liêng” lại cần chú ý đến “nghĩa ẩn dụ”, “nghĩa luân lý”
và “nghĩa thần bí”: “Cần phải nhớ rằng thời các giáo phụ và thời trung
cổ, mọi hình thức chú giải, kể cả hình thức chiểu tự, cũng đều được tiến
hành trên căn bản đức tin, mà không nhất thiết phải phân biệt giữa
nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng. Về phương diện này, người ta có
thể nhắc tới 2 câu thơ trung cổ diễn tả mối tương quan giữa các nghĩa
khác nhau của Sách Thánh: “Littera gesta docet, quid credas allegoria,/
Moralis quid agas, quo tendas anagogia.” (Chữ đen tức “nghĩa văn tự” nói
tới biến cố; “nghĩa ẩn dụ” nói về điều phải tin; “nghĩa luân lý” dạy
điều phải làm; “nghĩa thần bí” hay “nghĩa thiêng liêng” dạy điều phải
vươn tới” – T/H Lời Chúa, số 27 ; Giáo lý HTCG, điều 118).
Đừng
nhìn lên dõi theo bóng Thầy rồi hoang mang lo sợ, mà hãy nhìn lên và cố
gắng hiểu cho được việc làm của Người (nghĩa chiểu tự: biến cố “thăng
thiên”), để từ đó tin vào mầu nhiệm cứu chuộc (“nghĩa ẩn dụ”) qua Lời
Chúa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.
Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em
rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì
Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.
Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.” (Ga 14, 1-4). Đồng thời,
hãy nhìn xuống bản thân mình cùng với anh em mình để mà thực thi sứ vụ
do chính Người Thầy Chí Thánh truyền dạy trước khi về trời (“nghĩa luân
lý”). Chỉ có như thế mới mong vươn tới cứu cánh Nước Trời (“nghĩa thần
bí”) là mục đích cuối cùng của hành trình thực thi sứ vụ một Ki-tô hữu.
Tuy
nhiên, cũng rất cần phải ghi nhớ lời dạy “Cần phải vượt quá “chữ viết”
của ĐGH Biển Đức XVI trong T/H Lời Chúa (số 28): “Như thế, muốn tái khám
phá hành động qua lại giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh, điều chủ
yếu là phải nắm chắc việc bước từ chữ viết qua tinh thần. Đây không
phải là một bước tự động, tự phát; đúng hơn, cần phải vượt quá
(transcended) chữ viết: “Lời Chúa không bao giờ đơn thuần là một với chữ
viết trong bản văn. Muốn nắm được Lời của Người, phải có một sự vượt
quá (chữ viết) và một diễn trình tìm hiểu, được hướng dẫn bởi chuyển
động bên trong của toàn bộ tác phẩm, và do đó, phải trở thành một diễn
trình sống”. Nói cách cụ thể, “được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong”
thì cũng có nghĩa phải cậy nhờ vào Thần Khí Chúa soi sáng, như Người đã
từng linh hứng cho các tác giả Kinh Thánh. Như vậy, có thể nói mầu
nhiệm thăng thiên nhắc nhở mọi Ki-tô hữu 2 điều:
1-
Chúa Giê-su về trời: Chúa về trời vì Ngườii đã từ trời xuống, đó là một
cuộc “trở về”. Hơn thế nữa, Người chính là Con Thiên Chúa, là Thiên
Chúa thật, là Đấng Tạo Dựng, là Chủ Tể mọi loài thụ tạo, nên việc “trở
về trời” của Người là trở về với địa vị Thiên Chúa của Người. Việc về
trời của Chúa là một mầu nhiệm, nếu không được mạc khải thì khó lòng làm
cho con người bất toàn có thể tin. Vì thế mới có hiện tượng thăng thiên
để các môn đệ được thực mục sở thi (trông thấy nhãn tiền). Thực chất
thì trời không có địa chỉ rõ ràng, nên Chúa về trời mà vẫn “ở cùng anh
em mọi ngày cho đến tận thế”. Nói cách khác, khi Đức Giê-su Thiên Chúa
về trời thì cũng có nghĩa là Người lại trở về với bản tính Thiên Chúa,
không còn bị giới hạn bởi thân xác, không gian, thời gian nữa, mà là
cùng lúc Người vẫn kết hợp mật thiết với Ngôi Cha và Ngôi Ba, đồng thời
Người tiếp tục hiện diện cách thiêng liêng ở khắp mọi nơi, trong mọi
thời đại, nhất là ở ngay trong tâm hồn các tín hữu của Hội Thánh Chúa.
2-
Phải làm sao để được về trời với Chúa: “Chúa về trời”, đó cũng chính là
ước mơ, là hoài bão của con người muốn được tồn tại trên nơi vĩnh hằng,
xa khỏi thế giới vật chất đầy cạm bẫy chông gai. Con đường về trời của
mỗi người cũng chính là con đường “làm chứng nhân” mà chính Chúa đã thực
hiện và mời gọi mỗi người ”Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn
dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem cho đến tận cùng trái đất. Và chính anh em
là chứng nhân về những điều nầy” (Lc 24, 47-48). Chỉ đến khi người
Ki-tô hữu thi hành sứ vụ chứng nhân đến độ thực sự “trở nên đồng hình
đồng dạng với Đức Ki-tô” (Pl 3, 10), thì “phần thưởng dành cho anh em ở
trên trời thật lớn lao” (Mt 5, 12).
Tóm
lại, khi nhìn theo bóng Người Thầy được cất lên trời, các môn đệ tiên
khởi mang một tâm trạng hoang mang lo lắng, nhưng được thiên sứ nhắc
nhở, thì các ngài đã hiểu ra mọi sự. Nhờ thế, các ngài đã mau mắn thực
hành Lời Chúa dạy: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy
anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ
mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày
cho đến tận thế.” (Mt 28, 18-20). Và kết quả thật mỹ mãn: Giáo Hội với
12 vị Tông Đồ tiên khởi (đã chọn Mat-thi-a thay cho Giu-đa It-ca-ri-ốt)
đã thành lập được nhiều Giáo đoàn (với “khoảng ba ngàn người theo đạo” –
Cv 2, 41) trong một thời gian ngắn và cho đến ngày nay thì đã hiện diện
trên khắp thế giới.
Người
Ki-tô hữu hôm nay hãy hân hoan “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc 21,
28) để nhớ lại việc Đức Giê-su Ki-tô thăng thiên và chiêm ngưỡng Người
trong vinh quang Thiên Chúa. Đồng thời làm theo lời Thánh Phao-lô Tông
đồ trong thư gửi tín hữu Ê-phê-sô: “Tôi cầu xin Chúa Cha vinh hiển là
Thiên Chúa của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, ban cho anh em thần khí
khôn ngoan để mạc khải cho anh em nhận biết Người. Xin Người soi lòng mở
trí cho anh em thấy rõ, đâu là niềm hy vọng anh em đã nhận được, nhờ ơn
Người kêu gọi, đâu là gia nghiệp vinh quang phong phú anh em được chia
sẻ cùng dân thánh, đâu là quyền lực vô cùng lớn lao Người đã thi thố cho
chúng ta là những tín hữu. Đó chính là sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực,
mà Người đã biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi làm cho Đức Ki-tô trỗi dậy từ
cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người trên trời.” (Ep 1, 17-20).
Vâng,
hãy nhìn lên và cầu nguyện để hiểu được mầu nhiệm thăng thiên, và hãy
nhìn xuống để sống Lời Chúa cách cụ thể với mục đích tối hậu là chiếm
hữu và giúp anh em cùng chiếm hữu Nước Trời. Ôi ! “Lạy Thiên Chúa toàn
năng hằng hữu, xin cho cộng đoàn chúng con biết hoan hỷ vui mừng mà dâng
lời cảm tạ, vì hôm nay, Con Một Chúa đã lên trời vinh hiển. Là Thủ
Lãnh, Người đã đi trước mở đường dẫn chúng con vào Nước Chúa khiến chúng
con là những chi thể của Người nắm chắc phần hy vọng sẽ cùng Người
hưởng phúc vinh quang. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng
Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ lễ Thăng Thiên).
Bài 8. Cùng loan Tin Mừng với Chúa Giê-su
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người.
Tin
Mừng hôm nay cho biết đang khi Chúa Giê-su từ biệt các môn đệ để lên
trời thì Ngài lại hứa ở cùng họ mọi ngày cho đến tận thế. Làm sao vừa
lên trời xa cách các môn đệ lại vừa ở lại mãi với các ông được?
Xin
mượn một thí dụ để giải thích điều nầy: Nếu tôi chỉ có một quả cam và
tôi muốn phát cho một ngàn người hiện diện trong nhà thờ nầy, mỗi người
một quả, thì điều đó không thể thực hiện được.
Nhưng
nếu tôi có một điều khôn ngoan, chẳng hạn điều tôi học được từ Chúa
Giê-su: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn mình thì được
ích gì!” rồi tôi đem “phân phát” điều khôn ngoan đó cho cả ngàn người
ngồi nơi đây, thì mỗi người đều có thể nhận được nguyên vẹn một điều
khôn ngoan y như nhau.
Thế
đó, nếu chỉ có một đơn vị vật chất hữu hình (như một quả cam) thì ta
không thể đem ban phát cho nhiều người, mỗi người một đơn vị được; nhưng
trái lại, điều gì thiêng liêng không lệ thuộc vật chất thì ta có thể
đem “phân phát” cho nhiều người và ai cũng được lãnh nhận trọn vẹn món
quà đó như nhau.
Tương
tự như thế, khi Chúa Giê-su lên trời, chính là lúc Ngài chấm dứt sự
hiện diện trong thân xác hữu hình để trở nên Đấng vô hình, thì Ngài
không còn bị lệ thuộc vật chất, không bị giới hạn bởi không gian và thời
gian, nên Ngài có thể hiện diện trong tâm hồn mọi tín hữu và mỗi người
đều có Ngài hiện diện trọn vẹn trong bản thân mình.
Chúa Giê-su ở với chúng ta để làm gì?
Là
để đồng hành với chúng ta trên hành trình rao giảng Tin Mừng như lời
Ngài mời gọi: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ… hãy
dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. (Mt 28, 19-20)
Như thế, hôm nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục sứ mạng cứu độ của Ngài qua
chúng ta.
Lúc
mới lên năm, tôi được cắp sách đến trường để học những con chữ đầu
tiên. Cô giáo đầu đời của tôi là một nữ tu. Vì tôi không thể tự mình
viết được bất cứ chữ gì, nên Dì nắm lấy bàn tay nhỏ bé của tôi, để bàn
tay bé xíu của tôi nằm gọn trong bàn tay của Dì và như thế, Dì kèm cho
tôi viết nên những con chữ đầu đời.
Hôm
nay Chúa Giê-su đang ở trong mỗi người chúng ta như lời Ngài phán:
“Thầy sẽ ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Ngài tha thiết kêu mời
chúng ta hợp tác với Ngài trong việc loan Tin Mừng và cứu độ: “Anh em
hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân
danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những gì
Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20)
Còn
rất nhiều người chưa nhận biết Tin Mừng của Chúa Giê-su. Tâm hồn họ là
những trang giấy trắng. Chúa Giê-su rất muốn nắm lấy bàn tay nhỏ bé yếu
đuối của chúng ta để viết lên trong tâm hồn họ những trang Tin Mừng về
Thiên Chúa là Cha yêu thương, về mọi người là anh em một nhà, về tình
huynh đệ không biên giới… Chúa Giê-su muốn sử dụng chúng ta như khí cụ
hữu hiệu mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều người. Điều quan trọng là chúng
ta có bằng lòng để cho Ngài thực hiện kế hoạch cứu độ của Ngài qua chúng
ta hay không.
Lạy Chúa Giê-su,
Chúa
khao khát cho nhân loại được cứu độ và Tin Mừng được thấm nhập vào tâm
hồn mọi người, nhưng Chúa chỉ có thể thực hiện khát vọng đó qua những
người phàm yếu đuối như chúng con.
Xin
giúp chúng con biết hiến dâng đời mình cho Chúa toàn quyền sử dụng,
biết đặt bàn tay nhỏ bé của mình nằm gọn trong lòng bàn tay Chúa, để
Chúa viết nên những trang Tin Mừng trong tâm hồn nhân loại.
Bài 9. CHÚA VỀ TRỜI
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Chúa
về trời có lẽ đã là một việc quá quen thuộc với những môn đệ của Chúa.
Cụm từ Chúa Thăng Thiên hay về với Thiên Chúa Cha, vẫn là cụm từ người
Công giáo học thuộc lòng khi học giáo lý. Trời có vẻ xa lạ với con
người, với chúng ta và đất dường như gần gũi chúng ta hơn bởi lẽ chúng
ta đang sống trên trái đất, đang sống trong thế giới này.Tuy nhiên, Chúa
về trời để dọn chỗ cho các môn đệ, dọn chỗ cho chúng ta để Ngài ở đâu
chúng ta cũng ở đó với Ngài.
Tin
Mừng của Thánh Matthêu trong trích đoạn ngày hôm nay, đoan kết câu 20
(Mt 28, 20) có viết: “…Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận
thế”. Đúng là một lời đầy an ủi, đầy tin tưởng cho các môn đệ, cho chúng
ta, cho nhân loại vì rằng Chúa về với Chúa Cha nhưng Ngài vẫn hiện diện
với nhân loại mọi ngày cho đến tận thế. Ngài về trời, nhưng Ngài xin
Chúa Cha sai Thánh Thần, để Thánh Thần ở với Giáo Hội, ở với mỗi người,
bảo vệ, hướng dẫn Giáo Hội và mọi người. Chúa Phục Sinh đã về với Chúa
Cha, ngự bên hữu Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn hiện ra nhiều la62mn với
các môn đệ, với những người thân thương để minh chứng Ngài đã sống lại
thật và hôm nay ngày thứ 40, Chúa Phục Sinh lại hiện ra với các môn đệ,
nhắn nhủ, dặn dò, khích lệ họ nhiều điều, rồi Ngài Thăng Thiên trước mặt
các môn đệ. Đây là lần chót Chúa sống lại hiện ra với các môn đệ, các
môn đệ sẽ không còn thấy Ngài hiện diện như các lần trước nữa cho đến
ngày tận thế. Tuy nhiên, hôm nay Giáo Hội muốn nhân loại, con người,
chúng ta nhớ tới ý nghĩa mầu nhiệm Thăng Thiên hơn là nhớ tới ngày giờ
mầu nhiệm Chúa lên trời xẩy ra.
Mầu
nhiệm Chúa về trời nhắc nhở chúng ta hai điều quan trọng là Chúa về
trời nhưng Chúa vẫn hiện diện với chúng ta mọi ngày cho tới tận thế. Bởi
vì về trời có nghĩa là Chúa Phục Sinh chuyển đổi từ sự có mặt hữu hình
đến việc có mặt một cách thiêng liêng. Chúa Phục sinh từ đây không cón
hiện diện cách như xưa khiến giác quan hay nói một cách khác con mắt thể
xác không còn nhận ra Ngài như trước kia Ngài có mặt. Dấu hiệu để các
môn đệ nhận ra Chúa Phục sinh là Ngài ban Thánh Thần xuống trên các tông
đồ. Chúa Phục sinh hiện diện nơi các tông đồ, môn đệ, nơi chúng ta,
trong chúng ta qua Chúa Thánh Thần. Đúng như lời nói! Đấng Phù Trợ đến
từ nơi Chúa Cha và Ngài khẳng định với các tông đồ: “Thầy ở cùng anh em
mọi ngày cho đến tận thế”.
Điều
khác nữa, Chúa Thiên, nhắc nhớ chúng ta phải luôn hướng về trời. Hướng
về trời, có nghĩa là chúng ta những lữ hành đang đi trong cuộc hành
trình đức tin tiến về trời. Chúng ta phải phấn đấu, quảng đại, hy sinh
để kiên cường tiến về nước trời. Cuộc đời hôm nay nhiều vất vả, nhiều
thử thách khó khăn, nhưng với niềm tin chúng ta có một sức thu hút, thúc
đẩy chúng ta đạt tới quê hương vĩnh cửu, quê hương hạnh phúc là Nước
Thiên Chúa.
Chúng
ta đang sống nơi trần gian, trên thế giới. Gian trần hay thế giới chỉ
là quê hương tạm bợ, quê hương mau qua v.v… Đích điểm cuối cùng chúng ta
là quê trời. Do đó, chúng ta ý thức và sống tốt lành với những ngày tạm
bợ ở trần gian để chúng ta tiến về Nước Thiên Đàng, Nước Thiên Chúa.
Chúa
Giêsu khi nói với các môn đệ ở Galilê trên một ngọn núi: “Thầy đã được
trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn
dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh
THần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em…”. Chúa
truyền lệnh cho các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Người đi truyền giáo,
loan báo Nước Trời, nhưng điều quan trọng và hết sức an ủi, củng cố niềm
tin, đó là Chúa hứa ở cùng các môn đệ luôn mãi.
Các
tông đồ vững tin, không còn lo âu sợ hãi vì Chúa phục sinh luôn ở với
các Ngài, luôn ở trong các Ngài. Đặc biệt Chúa Thánh Thần sẽ xuống trên
các tông đồ để các Ngài có sức mạnh, can đảm làm chứng cho Chúa Phục
sinh.
Đoạn
Sách Công Vụ Tông Đồ 1, 11 viết: “Sao các Ông cứ đứng mải miết nhìn
trời?”. Các Tông Đồ đang nuối tiếc Thầy mình.Tuy vậy, các Ngài ý thức sứ
mạng cao cả: “Loan báo Tin Mừng, làm chứng cho Chúa Phục Sinh” còn đang
chờ đợi các Ngài. Các Ngài đã xuống núi, trở về với đời thường và làm
sứ mạng Chúa Phục sinh trao phó. Chúng ta đang sống ở trần gian, chúng
ta cũng đang có sứ mạng lớn lao là rao giảng Tin Mừng. Làm tròn sứ mạng
làm chứng cho Chúa Phục Sinh và loan báo Tin mừng cho Chúa nhưng đồng
thời cũng luôn hướng về trời để quyết tâm về trời với Chúa.
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rõ Thiên Đàng là mục đích cuối cùng
chúng con đang vươn tới.Xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con
hiểu rằng trần gian là tạm bợ, Nước trời là Quê hương thật, Quê hương
vĩnh cửu chúng con phải vươn tới. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Chúa Phục Sinh về trời trước mặt 11 môn đệ ở đâu?
2. Chúa nói gì với các tông đồ?
3. Chúa hứa sẽ xin Chúa Cha điều gì?
4. Quê hương của chúng ta ở đâu?
5. Trần gian là gì?
Bài 10. SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Xưa
cũng như nay, Giáo Hội luôn quan tâm đến sứ mạng truyền giáo, bởi xác
định đây là bản chất của Giáo Hội. Mất yếu tố này, chúng ta mất đi căn
tính, hay nói đúng hơn, không phải là người Công Giáo đúng nghĩa, bởi lẽ
đã là người Công Giáo, thì việc truyền giáo là của chúng ta, thuộc về
chúng ta, vì thế, không lẽ gì chúng ta thờ ơ với sứ vụ này được!
Sứ
mạng này được khởi đi từ Thiên Chúa Cha khi sai Con Một của mình xuống
trần gian để loan báo về Nước Trời cho muôn dân và cứu độ nhân loại; bắt
nguồn từ lệnh tryuền của Đức Giêsu cho các môn đệ trước khi về trời: “Vậy
anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ
những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20); lệnh truyền đó đã được tiếp diễn trong suốt dọc dài lịch sử từ thời các Tông đồ cho đến ngày nay và mãi về sau.
1. Đức Giêsu ra đi, các Tông đồ, môn đệ tiếp bước
Lúc sinh thời, đã có lần Đức Giêsu mặc khải: “… tôi từ nơi Người mà đến và chính Người đã sai tôi” (Ga
7, 29); khi sắp chia tay các Tông đồ để đi chịu chết chuộc tội thiên
hạ, thấy các ông buồn bã vì sắp phải chia ly, kẻ đi người ở, Ngài đã
củng cố niềm tin của họ: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1); Ngài căn dặn và an ủi thêm: “Trong
nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em
rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì
Thầy sẽ trở lại và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở
đó” (Ga 14, 2-3); Sau khi sống lại, Đức Giêsu đã báo trước giây phút Ngài sẽ về cùng Cha của Ngài, Ngài nói:“Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
Qua
lời dạy của Đức Giêsu, nhất là biến cố về trời của Ngài, Đức Giêsu mặc
khải mà chúng ta biết, chúng ta có một nơi ở khác, nơi ở đó là một nơi
tràn đầy hạnh phúc vì được diện kiến Thiên Chúa. Niềm tin này cũng được
thánh Phaolô nói nhắc đến: “Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Ðức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta”(Pl
3, 20). Còn gì hạnh phúc cho bằng, khi Nước Trời là cùng đích của ta,
nơi đó, chúng ta sẽ được sung mãn nguồn tình yêu, và không bao giờ sợ
mất nữa, nơi mà: “trộm cướp không thể lấy mất và mối mọt không thể gặm nhấm”.
Cuối cùng, Đức Giêsu đã được cất lên trời trước mắt các ông, để như lời Ngài đã nói: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.
Tuy
nhiên, Đức Giêsu đã để lại cho các Tông đồ, môn đệ lệnh truyền của
Ngài, để các ông ra đi loan báo và làm chứng nhân cho Ngài đến tận cùng
trái đất, hầu mọi người sẽ được lên nơi mà Đức Giêsu đã mặc khải: “Vậy
anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ
những điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 19-20).
Như
vậy, sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ và môn đệ đã xuống núi để
ra đi thi hành lệnh truyền đó của Đức Giêsu, bắt đầu từ Giêrusalem và
đến tận cùng trái đất…
2. Truyền giáo là bản chất của chúng ta
Nếu
trước kia, Đức Giêsu truyền lệnh cho các Tông đồ và môn đệ lên đường
loan báo Tin Mừng cứu độ, thì hôm nay, cũng cùng lệnh truyền đó, Ngài
trao phó cho mỗi chúng ta sứ mệnh loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Câu nói nổi tiếng của Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô cũng phải là nỗi thao thức của tất cả chúng ta:“Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! ” (1Cr 9, 16); và, lệnh truyền của Đức Giêsu năm xưa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo”
(Mc 16, 15), vẫn mãi là một lời mời gọi, luôn thôi thúc, mang tính mầu
nhiệm và cấp thiết cho Giáo Hội cũng như mọi thành phần, qua mọi thời,
mọi nơi.
Vì
thế, ở bất cứ nơi đâu, ngoài việc cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo,
mỗi người phải thể hiện vai trò ngôn sứ mà mình đã lãnh nhận ngày chịu
Phép Thánh Tẩy bằng và qua hành động. Trong nhiều cách thế, có lẽ là trở
nên những chứng nhân của những lời loan báo là điều quan trọng và có
tính khả tín.
Cách thức này đã được Đức Thánh Cha Phaolô VI nói đến trong Thông điệp “Evangelii Nuntiandi”, ngài nói: “Người
thời nay sẵn sàng nghe những chứng nhân hơn là thầy dạy và người ta có
nghe theo thầy dạy là vì thầy dạy cũng là chứng nhân” (Thông điệp “Evangelii Nuntiandi” số 41).
Thật
vậy, truyền giáo và làm chứng chẳng khác gì như hai mặt trên một bàn
tay, nên không thể nói rằng: tôi chỉ nói, loan báo về Chúa còn việc tôi
sống là chuyện khác!
Trong
thế giới ngày nay, con người dần mất đi cảm thức về tâm linh, từ đó như
một hệ quả, họ sống trong sự thất vọng, bởi khám phá ra trong cuộc sống
có nhiều điều không thỏa lấp được nỗi khát vọng thâm sâu trong tâm hồn
của con người. Vì thế, là người kitô hữu trong thế giới hôm nay, chúng
ta phải là những chứng nhân của niềm hy vọng, khi mang trong mình tràn
đầy cảm nghiệm về Thiên Chúa. Thánh Phêrô cũng đã nói đến vai trò chứng
nhân của niềm hy vọng, ngài nói: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15).
Ngoài
ra, làm chứng cho Chúa trong một xã hội đang dần mất đi tinh thần liên
đới, trách nhiệm với nhau, là một tiêu điểm trong xã hội hôm nay mà
chúng ta phải quan tâm, bởi lẽ, con người ngày nay họ luôn bị vô cảm,
dửng dưng và ích kỷ, không muốn liên lụy đến bản thân. Thực trạng cho
thấy: “không thiếu những cái đầu lớn, nhưng bên cạnh đó lại quá nhiều trái tim nhỏ”; hay “không thiếu gì cái đầu nóng, nhưng lại có trái tim lạnh”. Là
kitô hữu, chúng ta được mời gọi dấn thân trong môi trường đang trở nên
xa lạ đối với cuộc sống con người. Khi tiến bước và trở nên chứng nhân
như thế, mỗi chúng ta trở nên một hình ảnh của Đức Giêsu hiền hòa, nhân
hậu, bao dung, liên đới và sẵn sàng tha thứ cho mọi người. Làm được như
thế, ấy là lúc chúng ta: “ngửi thấy mùi chiên”.
Lạy
Chúa Giêsu, lệnh truyền của Chúa khi xưa cho các Tông đồ, môn đệ cũng
chính là lệnh truyền cho mỗi chúng con ngày hôm nay. Xin Chúa ban cho
chúng con ý thức được điều đó và sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng tình
thương. Tin Mừng cứu độ đến cho hết mọi người. Amen.
Bài 11. Suy niệm của Đgm. Phaolô Maria Cao Đình Thuyên
Hôm
nay cả Giáo hội trọng thể mừng Mầu Nhiệm Chúa lên trời. Nói đến Chúa
lên trời nhiều người lầm nghĩ: Chúa chịu chết trên thập giá để cứu rỗi
nhân loại. Và giờ chết đến là xong là hết. Họ tin vào Lời Chúa đã phán
trước khi tắt thở: “đã đoạn ấy là hết việc chuộc tội cho thiên hạ”.
Xét
một mặt thì cũng đúng. Nhưng xét toàn bộ thì không đủ. Bởi việc Chúa
cứu chuộc không phải chỉ hết chỉ xong trên thập giá. Chúa Ngôi Hai xuống
thế cứu rỗi chúng ta, lập lại nước Thiên Chúa. Ngài đã tính cứu chúng
ta bằng đời sống giảng đạo, làm các phép lạ. Nhưng vì có kẻ ác tâm quấy
phá, có môn đệ phản bội, cho nên Chúa phải chết. Bằng lời giảng không
xong, Chúa đã vâng lời Đức chúa Cha mà cố giảng dạy, chết cũng giảng
không lùi. Chúa đã chết và như vậy Chúa đã trọn bổn phận.
Xét
về công việc phải làm dưới trần gian thì thật là xong, nhưng xét về mầu
nhiệm Chúa Giê su thì chưa xong. Chúng ta biết rằng thập giá không phải
là tiếng nói cuối cùng, Chúa còn sống lại.Và sống lại mới là đích cùng.
Phải nói thêm nữa, sống lại và lên trời. Chúa từ trời xuống, giảng dạy,
chết, sống lại rồi về trời. Bấy giờ mới hết mới tròn cái vòng đời của
Ngài. Nên lên trời mới là giai đoạn cuối cùng của mầu nhiệm. Việc cứu
rỗi thế giới, với bản thân Chúa GS, đã xong khi tắt thở trên thập giá.
Sau đó Ngài không còn phải làm gì thêm nữa. Nhưng vòng đời của Ngài thì
chưa xong. Chỉ khi nào Ngài lên trời mới xong, mới trọn. Chính vì cậy,
nhất là nơi Thánh Phaolô và trong Giáo hội ta hãy xem kinh tạ ơn bao giờ
cũng gom lại một việc : Chúa xuống thế chịu chết, sống lại và lên trời.
Đây là 4 giai đoạn của một mầu nhiệm, 4 bước của một đời người. Cả 4
bước mới là tròn một đời người, một Mầu Nhiệm. Dừng lại ở một điểm nào
là sai, mà phải xét cả toàn bộ Mầu Nhiệm như quá trình một vòng kín cả 4
bước thành một. Thực sự thì mầu nhiệm bản thân ta cũng vậy. Cũng gồm 4
giai đoạn, cả 4 bước mới thành vòng đời của ta, không được dừng nửa
chừng, không tách bước này khỏi bước kia, mà phải đan liền cả 4 bước với
nhau thành một mầu nhiệm.
Một
điểm thứ 2 nữa: Ta đã nói mầu nhiệm Chúa Giêsu, lên trời là xong. Chúa
lên ngự bên hữu Đức Chúa Cha là được vinh quang sau khi làm nhiệm vụ bản
thân xong. Tuy nhiên, mầu nhiệm cứu rỗi thì chưa xong. Việc chúng ta
phải làm, phần chúng ta phải cộng tác, phải đóng góp thì chưa xong. Việc
ấy chỉ khi nào đến ngày sau hết Chúa Giêsu trở lại mới xong. Sau cuộc
biến đởi cuối cùng, cuộc phán xét sau cùng, Chúa đưa toàn thể con cái
được tuyển dụng về bên Đức Chúa Cha cùng toàn thể tạo vật được giải
phóng khỏi tội và sự chết thì lúc ấy mầu nhiệm cứu rồi mới hoàn tất.
Việc bản thân Chúa Giêsu thì đã xong, việc của thân mình mầu nhiệm là
giáo hội thì chưa xong. Con cái Chúa cần đem nghị lực phát sinh mà áp
dụng vào bản thân, vào xã hội, vào tạo vật. Vì thế, mà lên trời rồi Chúa
chưa an tâm hưởng vinh quang. Ngài không thể không nghĩ đến chúng ta mà
giúp đỡ. Ngài đã phái Thánh Thần xuống để bảo đảm, để trợ lực chúng ta,
sao cho ăn chắc thắng lợi cuối cùng. Đã đành thế, nhưng ngự bên hữu
Chúa Cha, Ngài luôn cầu bầu cho chúng ta vì Ngài chưa thể an tâm khi
thấy con cái, còn đang phải chiến đấu. Thánh Phaolô đã nói: Chúa Giêsu
đã không vào đền thánh do tay người phàm làm nên, song đã vào thiên đàng
để ngày nay hiện ra trước mặt Thiên Chúa mà cầu bầu cho chúng ta. Chúa
Giêsu là linh mục vĩnh viễn, bởi vậy, Ngài thừa khả năng để cứu những ai
nhờ Ngài mà đến cùng Chúa Cha. Như thế, Chúa Giêsu đã lên trời mang
Mình và Máu làm của lễ mà tế lễ Chúa Cha trên bàn thờ thiên đàng. Đến
đây mới thực sự kết thúc của lễ hy sinh mới. Đến đây mới là nơi Ngài
thực hành chức vụ linh mục của Ngài. Linh mục mới này tế lễ trên thiên
đàng trước mặt Chúa Cha với chính Máu Mình đã đổ ra, với thân xác mình
làm của lễ. Chúa lên trời là có ý như thế với Chúa Cha. Còn với chúng ta
thì để cầu bầu cho chúng ta. Và rồi khi mọi sự hoàn tất, chúng ta cùng
mọi tạo vật được cứu rỗi sẽ được Ngài dẫn đưa về trời bên cạnh Ngài và
bấy giờ Mầu nhiệm cứu rỗi toàn thể đầu và thân mình mới thật sự xong.
Mầu nhiệm bản thân ta cũng mới xong.
Đến
đây chúng ta thấy mỗi chúng ta đều rất quan trọng trong chương trình
cứu chuộc của Thiên Chúa. Dịp cuối năm 1992, đâu đó ai cũng khác lác
nhau về bộ phim “người giàu cũng khóc”. Theo đánh giá chung thì đây là
một bộ phim rất thành công và sự thành công đây lại là công lao của diễn
viên Veronicastro, thủ vai Mariana. Từ khắp nơi trên thế giới, mỗi ngày
Veronicastro nhận được biết bao nhiêu là thư khen ngợi. Nhưng một điều
đáng suy nghĩ là càng đề cao Veronicaste, người ta càng quên lãng mất
những diễn viên đã đóng góp lớn vào sự thành công của chị Mariana như
ông bà Andato, chàng Louis vị linh mục nhân hậu và nhất là Esther. Công
bằng mà nói, sự thành công của Veronicastro cũng là sự thành công của
các vai khác, nghĩa là mỗi vai trong cuốn phim đều góp phần xứng đáng
vào sự thành công chung. Vũ trụ cũng là một sân khấu, trong đó, mọi loài
mọi vật đều là một diễn viên, nghĩa là đều có một vai diễn. Tất cả đều
phải cố gắng làm xuất sắc vai diễn của mình để cuốn phim vĩ đại thiên
nhiên được thành công. Nói thế, tức cũng là nói mọi loài mọi vật, nhất
là con người phải giữ một vai nhất định. Chúa đã phân công. Ta phải hoàn
thành xuất sắc theo ý định của Ngài. Mừng lễ lên trời hôm nay chúng ta
không phải chỉ đăm đăm ngước nhìn trời để nuối tiếc, để tìm kiếm, nhưng
phải ra đi vào thế giới, vào môi trường mình đang sống để làm chứng cho
Chúa, để giới thiệu Chúa cho anh em chung quanh. Chúa Kitô đặt hết tin
tưởng vào ta để mỗi khi hoàn thành tốt bổn phận nơi trần gian, chúng ta
sẽ được trở về với Chúa mình trên trời. Amen.
Bài 12. Lạy Cha, xin hãy làm vinh hiển Con Cha
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khi
đến giờ Ðức Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha, Người
phán cùng các môn đệ nhiều điều. Người nói với họ về niềm tin, tình yên
và lòng mến (Ga 12, 44-50; 14, 1-6). Người trấn an các ông bằng cách để
lại bình an cho họ, truyền dạy họ mến thương nhau, đồng thời kết hợp với
Người như cành nho với thân nho, ở lại trong tình yêu của Chúa Cha (Ga
14; 15). Và nhất là Người hứa xin Chúa Cha ban cho các môn đệ “Đấng Phù Trợ khác“(Ga 14, 16) để ở với các ông luôn mãi.
Chúa
Giêsu đã lên Trời, chúng ta vừa cử hành biến cố ấy với niềm vui và hy
vọng, nay hướng lòng về Lễ Ngũ Tuần, chờ đợi lời hứa của Chúa Giêsu với
các môn đệ là xin Chúa Cha gửi Chúa Thánh Thần xuống được thực hiện. Đặt
mình vào vị thế của các Tông đồ “sau khi Chúa Giêsu lên trời, Các
Tông đồ xuống khỏi núi gọi là Núi Ôliu mà trở về Giêrusalem… các ông lên
lầu gác… Mọi người đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện ” (Cv 1,
12-14). Giờ đây chúng ta qui tụ bên nhau, giống như các Tông đồ trong
nhà Tiệc Ly để cầu nguyện. Lời Chúa Giêsu phán : “Ta sẽ không bỏ các ngươi mồ côi, Ta sẽ đến với các ngươi” (Ga 14, 18). Chắc chắn “chúng ta sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần ngự xuống trên các chúng ta” (Cv 1, 8).
Trước
khi ra đi về Trời, Chúa Giêsu đã tiên báo về cái chết và sống lại của
mình, cũng như sự vấp ngã của các môn đệ (x. Ga 16). Sau những di ngôn
từ biệt ấy, Người kết thúc bằng kinh nguyện tha thiết và cảm động (x. Ga
17).
Trước hết, Người dâng lên Thiên Chúa Cha lời cầu xin, ca tụng và tôn vinh Cha : “Lạy Cha, giờ đã đến! Xin hãy tôn vinh Con Cha, ngõ hầu Con Cha tôn vinh Cha!” (Ga 17, 1). Chúa Cha đã tôn vinh Chúa Con trên Thánh Giá và đưa về Trời, nay Chúa Giêsu xin Cha: “Con đã tôn vinh Cha. Và bây giờ xin Cha tôn vinh Con nơi Cha, trong vinh quang Con đã có nơi Cha trước khi có thế gian”
(Ga 17, 4-5). Sự tôn vinh đánh dấu giờ của Chúa Giêsu đã đến, giờ đi
đến cùng của sứ mạng đã được Cha trao phó là tôn vinh Cha. Sự lên Trời
biểu lộ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu : “Người đã hạ mình thấp hèn, trở thành vâng phục cho đến chết, và là cái chết thập giá! Bởi vậy Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài!” (Phil 2, 8) Qua biến cố này, Cha cũng mạc khải chính mình khi suy tôn Chúa Giêsu, người con hoàn toàn vâng phục.
Nếu
Chúa Giêsu xin Chúa Cha tôn vinh mình, thì đến lượt mình lại tôn vinh
Chúa Cha. Bản chất sứ mạng của Chúa Con là mạc khải và thánh hóa Danh
Chúa Cha nhờ ân ban của Chúa Thánh Thần. Điều cần lưu ý ở đây là lời cầu
nguyện của Chúa Giêsu đã minh nhiên qui hướng về Chúa Thánh Thần khi
nói về tương quan giữa Người với Chúa Cha và món quà của Chúa Cha ban
cho loài người là Chúa Thánh Thần.
Tiếp
theo là những lời nguyện xin của Chúa Giêsu cho những người mà Chúa Cha
ban cho, Người phó thác họ cho Chúa Cha, xin Chúa Cha gìn giữ họ luôn
mãi, vì họ “còn ở trong thế gian“, nơi có nhiều khó khăn, thử
thách và gian truân, họ có thể bị bách hại vì lẽ công chính, chết vì đức
tin vào Chúa Giêsu, dễ dàng bị lôi cuốn vào những trào lưu chối bỏ
Thiên Chúa, chối bỏ ánh sáng chân lý và sự sống. Chính vì thế, Chúa
Giêsu xin Cha gìn giữ họ, để khi gặp bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn kiên
trung, hiệp nhất nên một trong tình yêu như Chúa Giêsu nên một với Cha
của Người để làm nhân chứng cho Thiên Chúa ở trần gian này.
Noi
gương Chúa Giêsu, Giáo hội mời gọi chúng ta tha thiết cầu xin, để Chúa
Con tôn vinh Chúa Cha trong đời sống mỗi người chúng ta nhờ Chúa Thánh
Thần. Sao cho tất cả đều qui hướng về Cha, tôn vinh Chúa Con trong sự
hiệp nhất với Chúa Thánh Thần. Chúa Con đến lượt mình, tôn vinh Giáo hội
bằng việc tuôn đổ trên Giáo hội cũng một Thánh Thần của Cha và Con.
Như các Tông đồ đồng tâm nhất trí trong nhà Tiệc Ly, cùng với mấy người phụ nữ, và Bà Maria mẹ Chúa Giêsu, kiên trì cầu nguyện
(x. Cv 1, 12-14), chúng ta tha thiết cầu xin Chúa Thánh Thần xuống trên
chúng ta. Ước mong sao danh Cha được thánh hóa nơi mỗi người chúng ta, “để ta được nên thánh và vô tì tích trước mặt Người, trong tình yêu”
(x. Ep 1, 4). Cầu nguyện là điều cần thiết để đón nhận Chúa Thánh Thần
vì khi cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình sẵn sàng đón nhận ơn của Thiên
Chúa.
Chúng
ta biết rằng, chính ở trên cây Thánh Giá mà Chúa Cha tôn vinh Chúa Con.
Nên khi chúng ta chịu đau khổ và bị ngược đãi vì thuộc về Chúa Kitô mà
Chúa Cha suy tôn chúng ta. Chúa Cha tôn vinh chúng ta vì trong lúc bị
thử thách chúng ta trở nên trở nên những người con trong Thiên Chúa,
đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Ngài sẽ tôn vinh chúng ta vì Ngài đặt
trên chúng ta Thần Khí vinh quang, Thần Khí của Ngài, sẽ ngự trên chúng
ta, cho chúng ta nếm trước sự sống đời đời mà Ngài muốn ban cho chúng ta
cách viên mãn ở đời sau (x. 1 Pr 4, 13-16).
Đổi
lại, chúng ta sẽ là những chứng nhân tôn vinh Chúa Cha vì Ngài sẽ thể
hiện cho thế giới dung nhan của Đấng mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng
ta. Đấng mà từ Ngài chúng ta phát xuất ra, hướng về Ngài chúng ta sẽ
chia sẻ sự sống thần linh. Chúng ta sẽ là chứng nhân cho sự sống đời đời
nơi những người sẽ chứng kiến và một lần nữa tôn vinh danh Chúa Cha: «Sự sống đời đời tức là: chúng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Ðấng Cha đã sai, Giêsu Kitô” (Ga 17, 3).
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã tôn vinh Chúa Cha và cầu cùng Chúa Cha cho chúng
con. Xin ban ơn can đảm cho chúng con, để chúng con không hổ thẹn vì chỉ
vì là Kitô, nhưng luôn ca tụng Chúa. Chúa sẽ không bỏ chúng con mồ côi.
Cùng với Mẹ Maria, các thánh nam nữ ở trên Trời xin Chúa Cha ban Thánh
Thần cho chúng con. Amen.
Bài 13. THẦY Ở CÙNG ANH EM MỌI NGÀY CHO ĐẾN TẬN THẾ
P. Trần Đình Phan Tiến
P. Trần Đình Phan Tiến
Hôm
nay là tuần cuối của mùa Phục Sinh, thứ 7 Phục Sinh, Lễ Chúa Giêsu
Thăng Thiên, ai cũng biết “thăng” có nghĩa là “lên”. Nhưng dùng chữ
Thăng Thiên, thì hay hơn dùng chữ “ về” Trời. Nói rằng Chúa Giêsu “về
Trời”, thì không hay bằng Lễ “Chúa Giêsu Thăng Thiên”. Bởi vì, có
“Giáng” thì phải có “Thăng”. Có “Giáng Sinh”, thì phải có “Thăng Thiên”.
Một chút giải thích từ ngữ cho thấy sự logic của vấn đề. Đây là từ ngữ
duy nhất dành cho ĐẤNG CỨU THẾ, Đức Giêsu-Kitô. “Về Trời” cũng có nghĩa
từ Trời mà đến, nay trở về. Vậy, không một ai từ Trời mà đến, ngoài Đức
Giêsu-Kitô. Con Một Thiên Chúa. Như vậy Tin Mừng hôm nay cho chúng ta
một sự kiện đặc biệt, nhưng thật nhẹ nhàng, vui mừng tột độ. Vì nếu,
Chúa Giêsu không “Thăng Thiên”, thì sự Phục Sinh không hoàn toàn có ý
nghĩa. Bởi vì, trần gian không phải là nơi “trường sinh”. Thiên Chúa là
Đấng Hằng Sống, Người không “ở cùng” kẻ chết. Vâng, đó là lý do Chúa
Giêsu “về Trời”. Trời là quê hương vĩnh cửu của những ai bước theo Chúa
Giêsu-Kitô.
Vâng,
kính thưa quý vị, thưa các bạn, chủ đề Lời Chúa hôm nay thật ngắn gọn,
thật nhẹ nhàng. Chúng ta thấy, đây là lúc Chúa Giêsu biểu lộ trọn vẹn
nhất, đầy đủ nhất Thiên Tính của Người. Có thể nói, lễ Thăng Thiên là
một sự kiện biểu lộ Thần Tính của Ngôi Hai Thiên Chúa, một Ngôi Vị Thiên
Chúa chịu khổ hình, chịu mai táng, phục sinh để cứu độ con người. Hành
trình cứu Chuộc của Chúa Giêsu-Kitô là một hành trình đầy gian khó,
nhưng mầu nhiệm Thăng Thiên là một sự kiện đầy trọn vẹn của niềm vui,
niềm vui trọn hảo và tuyệt đỉnh, niềm vui nầy nói lên thiên tính rõ ràng
của Chúa Giêsu.
Sự
kiện Thăng Thiên là một mầu nhiệm kiện toàn ơn cứu độ, cuộc tử nạn và
phục sinh của Con Thiên Chúa. Đấng đã đến thế gian để trao ban sự sống
cho chúng ta.
Chúng
ta nhớ lại sự kiện Biến Hình trên núi Tabor của Chúa Giêsu, và hôm nay,
Người cũng hẹn các môn đệ lên núi và Thăng Thiên trước mặt các ông.
Nhưng lệnh truyền, cũng là Di Huấn mà Chúa Giêsu đã truyền lại cho các
môn đệ là: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy
anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy, làm phép rửa
cho họ, nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (c 18 – 19).
Như
vậy, sứ mạng truyền giáo là sứ mạng cấp thiết và mãi mãi không ngừng,
sứ mạng loan truyền Đức Kitô, không của riêng ai, mà là của mỗi Kitô
hữu, được quy tụ bởi Giáo Hội. Đặc tính truyền giáo vừa mang
tính sứ vụ, vừa mang tính ân sũng. Nói lên sự lãnh nhận và trao ban ,
tức đặc tính bác ái, đặc tính tình yêu của Thiên Chúa.
Bài
đọc I (Cv 1, 1-11), trích sách Công Vụ Tông Đồ thuật lại rõ biến cố lên
trời của Chúa Giêsu và việc Chúa hứa ban Thánh Thần cho các tông đồ.
Sác công vụ tông đồ là sự hoạt động đầu tiên của Giáo hội, là sách đầu
tiên của các tông đồ sau khi Chúa Giêsu lên Trời. Như vậy, sơ lược có
thể hiểu sách công vụ tông đồ là cuốn sách làm chứng về thời đại của
Chúa Thánh Thần. Một cuốn sách Tin Mừng của Chúa Thánh Thần, cũng có thể
nói là cuốn Tin Mừng thứ 5. Hôm nay, là trang đầu tiên của sách công vụ
tông đồ, minh chứng sự kiện về trời của Chúa Giêsu và ý nghĩa Chúa
Thánh Thần đến. Như vậy, Chúa Thánh Thần là Đấng chuyển tiếp và nối kết
sứ vụ cứu chuộc của Chúa Giêsu, đồng thời kiện toàn mọi kỳ công cứu
chuộc cho đến tận thế. Thời đại kiện toàn của Chúa Thánh Thần không phải
là thời gian ẩn nhẫn , mà là thời gian hiển nhiên những uy lực của
Thiên Chúa trong những tác nhân được thánh hóa. Sự siêu việt của Thiên
Chúa không nhường bước satan. Sự hun đúc Thần Khí là điều mới mẻ và mạnh
mẻ trong những tâm hồn bước theo Chúa Kitô. Sự kết nối nầy thật sự là
kỳ công hiển hách muốn đời của công trình cứu chuộc, vì nó không còn là
thời gian chịu đựng, mà là thời giờ thống trị, đó là đức tin, là ánh
sáng chân lý cho chúng ta. Có ánh sáng đó, đức tin mới bền vững, vì mọi
sự sẽ bước qua, dù là thế lực của trần gian. Điều nầy, minh chứng trong
nhiều gian đoạn lịch sử, và như vậy, suốt hơn hai mươi thế kỷ và hơn
nữa, đây là ánh sáng đức tin bề vững nhất. Vì nếu, Thiên Chúa không tỏ
lộ uy dũng của Ngài qua Thánh Thần, thì Đạo Công giáo không còn tồn tại
đến muôn đời. Vì người đời dù dũng mạnh đến đâu, thế lực đến đâu cũng
phải đầu hàng thời gian và tử thần. Sự ác không thể thắng sự thiện, và
bản tính lương thiện thần linh Thiên Chúa ban cho con người một cách tự
do theo nghĩa tự nhiên, nếu không đón nhận được mặc khải của Thánh Thần,
thì họ cũng không nhận ra Thiên Chúa, đó là những ai theo những tôn
giáo khác. Vì mọi tôn giáo đều do một thứ ánh sáng từ Thiên Chúa. Nhưng
Thiên Chúa chỉ mặc khải duy nhất qua Đấng cứu Chuộc Giêsu–Kitô mà thôi.
Như
vậy, bài đọc II (Ep 1, 17- 23), thánh Phaolô cho biết rõ ơn mặc khải
nhận biết Đức Kitô là một mầu nhiệm diệu kỳ. Đấng đến từ Thiên Chúa, nơi
siêu nhiên, nhưng trở nên hữu hình vì con người chúng ta, để Thần Khí
nơi Thiên Chúa là nguyên lý của sự sống sẽ hướng dẫn, là làm đầu mọi tạo
vật sống, chính là loài người.
Vì vậy, Đức Kitô nói: “Thầy
ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” là vậy (c 20). Sự siêu nhiên là
Thần Linh nơi Đức Kitô, không phải chỉ sự hữu hình của Người như trước
lúc phục sinh, mà là Thánh Thần hiện hữu trong siêu nhiên sẽ tiếp nối
công trình Tử Nạn và phục sinh của Đức Kitô. Cụ thể các Bí Tích, Đức
Kitô trao cho hội thánh là kỳ công tiếp nối của Chúa Thánh Thần. Như
vậy, đức tin là công cụ duy nhất để nhận ra Thánh Thần đồng hành trong
Đức Giêsu-Kitô. Amen.
Bài 14. Suy niệm của Lm Phêrô Trần Đình
Lễ Chúa Giêsu lên trời nói với chúng ta thật nhiều điều.
1/
Trước tiên, con người chỉ có thể sống khi cuộc sống có ý nghĩa đối với
họ. Họ phải biết sống để làm gì ?.Chết rồi thì đi đâu ?. Con đường chúng
ta đang đi sẽ dẫn chúng ta đến chỗ nào.
Người
ta thống kê rằng cứ mỗi ngày trên thế giới có 5000 người trẻ tự vẫn. Đó
là những người có cuộc sống đầy đủ, không cần phải phấn đấu, nhưng họ
tìm đến cái chết (như lái xe với tốc độ cao…) vì không biết sống để làm
gì, không tìm thấy ý nghĩa cuộc sống.
Lễ
Chúa lên trời dạy chúng ta rằng cuộc sống có một ý nghĩa, đường ta đi
sẽ dẫn chúng ta đến đâu. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là về với Chúa
Cha. Chúa Cha là quê hương của Đức Giêsu, là nơi Người phát xuất và cũng
là nơi Người trở về. Chúa Giêsu về trời trước rồi Người sẽ trở lại đón
chúng ta, để Người ở đâu chúng ta cũng sẽ ở đó.
2/
Chúa lên trời không phải để xa cách chúng ta, cho bằng là để gần kề
chúng ta hơn mỗi khi chúng ta kêu cầu Người. Khi còn sống ở dương gian,
Chúa Giêsu bị hạn chế về mặt không gian và thời gian. Nếu Chúa ở chỗ
này, thì Người không thể ở chỗ kia. Còn bây giờ khi đã lên trời, Chúa
không còn bị giới hạn về mặt không gian và thời gian nữa.
3/
Chúa lên trời để ngự bên hữu Chúa Cha, nghĩa là Người sẽ trở thành Đấng
cầu bầu đắc lực cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Kinh tiền tụng ngày
lễ).
4/
Chúa lên trời để Giáo Hội trưởng thành hơn. Giờ đây, Giáo Hội sẽ tiếp
tục công cuộc rao giảng của Người : “Anh em hãy đi khắp thế gian rao
giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Thời kỳ của Giáo Hội bắt đầu từ
đây.
Các
môn đệ của Chúa rất ý thức điều đó. Họ đã tuân lệnh Chúa “ra đi rao
giảng khắp nơi”, làm cho người ta trở thành môn đệ của Chúa, nghĩa là
tin vào Chúa.
5/
Chúa lên trời còn để dọn chỗ cho chúng ta như chính Người đã nói. Mỗi
lần sau truyền phép chúng ta đều tuyên xưng: “Trong vinh quang mai Người
sẽ đến, đón chúng con lên trời về với Chúa Cha”. Người kitô hữu ý thức
rằng quê hương đích thực của chúng ta là ở với Chúa trên trời. Nhưng
việc chúng ta có được vào chốn đó hay không, còn tuỳ thuộc vào cuộc sống
của chúng ta hôm nay.
Để
kết thúc tôi xin kể một câu chuyện. Có một bà chủ nhà kia rất mực giàu
có. Bà nuôi một gia nhân để dọn dẹp nhà cửa cũng như chăm sóc vườn hoa.
Người này rất chăm chỉ lao động, nhưng bà chủ ác độc la mắng anh ta đủ
điều, dầu vậy anh ta vẫn phải ngậm tăm
Thế
rồi bà chủ đã chết và được quỉ đưa ngay xuống địa ngục, chốn khóc lóc
và nghiến răng. Quỉ chỉ cho bà một túp lều rách nát và bảo rằng đó sẽ là
nơi cư ngụ của bà từ đây. Bà chẳng còn biết làm sao nữa, cho bằng răm
rắp tuân lệnh.
Một
thời gian sau, người nô bộc của bà cũng chết và được thiên thần rước
ngay lên trời, chỉ cho anh ta một ngôi nhà sang trọng và nói đó sẽ là
nơi cư ngụ vĩnh viễn của anh.
Từ
đàng xa, bà chủ thấy anh và lập tức nhận ra đó là người nô bộc của
mình. Bà không vui khi thấy anh này được ở trong ngôi nhà xinh xắn. Bà
đề nghị đổi túp lều của mình để lấy ngôi nhà sang trọng kia, nhưng thiên
thần bảo : “Không được đâu bà. Sở dĩ người kia được ở trong ngôi nhà
xinh xắn sang trọng, là bởi vì từ trần gian anh ta không ngừng gởi cho
chúng tôi những vật liệu quí giá. Chúng tôi chỉ có việc xây nhà từ những
vật liệu anh ta gởi lên mà thôi’. Còn bà, bà chỉ gởi cho chúng tôi
những vật liệu tồi tàn và ma quỉ cũng đã dùng chính những vật liệu bà đã
gởi xuống, để dựng cho bà một cái chòi rách nát mà thôi”. Bà đừng ghen
tị mất công. Số phận của mỗi người tuỳ thuộc khi còn sống người ta đã
gởi những vật liệu nào về đời sau.
Bài 15. Bài giảng của Đức Cha Giuse Nguyễn Năng
Anh chị em thân mến,
Việc
Chúa Giêsu lên trời thì chắc chắn là chúng ta phải suy nghĩ “lên trời
tức là đi đâu?” và trí tưởng tượng của chúng ta bắt đầu làm việc, làm
việc mạnh mẽ. Chúng ta tưởng tượng Chúa Giêsu đang đứng giữa chúng ta và
Ngài bay lên, đi lên, lên mãi. Chúng ta tưởng tượng một khung trời nào
đó, Chúa Giêsu đang núp ở đây. Tuy nhiên, không phải như vậy. Chúng ta
có đi phi thuyền bay thật xa trong vũ trụ bao la này thì chúng ta cũng
không bao giờ thấy Chúa Giêsu ở trên đó.
Vậy
Chúa Giêsu lên trời tức là đi đâu? Chúa Giêsu lên trời nghĩa là Chúa đi
vào trong vinh quang của Chúa Cha, Chúa trở về với Chúa Cha từ nơi Chúa
Cha mà đến. Chúa Giêsu vào trong trần gian này cứu chuộc chúng ta. Hôm
nay công trình đã hoàn tất, Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, sống trong
vinh quang của Chúa Cha. Thật sự, Chúa Giê su đã về với Chúa Cha ngay từ
khi Chúa sống lại. Nhưng trong thời gian bốn mươi ngày qua, Chúa Giê su
vẫn còn tỏ mình ra cho các tông đồ. Chúa tỏ ra cho các tông đồ thấy là
Chúa đang sống. Bài đọc thứ nhất trích trong sách Tông đồ Công vụ kể cho
chúng ta như vậy (Cv 1, 1-11). Chúa hiện ra, Chúa chứng tỏ cho các môn
đệ thấy Chúa vẫn đang sống. Đành rằng Chúa đã đi vào cuộc sống khác
nhưng Chúa vẫn tỏ ra một cách cụ thể, một cách hữu hình khi mà mắt các
tông đồ vẫn còn thấy được Chúa đang sống. Nhưng hôm nay, Chúa lên trời,
có nghĩa là bốn mươi ngày sau khi Chúa sống lại, Chúa chấm dứt việc
không tỏ ra cho các tông đồ thấy một cách cụ thể, hữu hình như trước đây
nữa.
Chúa
Giêsu lên trời là Chúa đi vào trong vinh quang của Chúa Cha, có nghĩa
là Chúa chiến thắng tội lỗi, chiến thắng sự chết và Chúa bước vào cuộc
sống mới. Cuộc sống mới này, chúng ta không thể thấy bằng mắt phàm được,
chúng ta cũng không thể chạm lấy bằng đôi tay được mà chúng ta chỉ có
thể nhận ra Chúa bằng đức tin. Chúa lên trời không có nghĩa là Chúa đi
xa chúng ta, mà trái lại, Chúa ở gần chúng ta hơn bao giờ hết. Chúa ở
giữa chúng ta. Đức Kitô Phục Sinh đã sống lại, có nghĩa là Ngài đang
sống, sống giữa Hội Thánh và sống trong thế giới này. Chúa lên trời có
nghĩa là Chúa không tỏ ra một cách hữu hình. Vì thế chúng ta chỉ có thể
nhận ra Chúa bằng đôi mắt đức tin. Chúa lên trời nhưng Ngài không rời xa
chúng ta, mà ngược lại, Chúa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế
theo như lời kết trong Tin Mừng theo thánh Matthêu: “Này đây, Thầy ở
cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
Chúa
Giê su lên trời là Chúa kết thúc công cuộc cứu chuộc của Chúa. Chúa đã
làm phần việc của Chúa xong rồi, và bây giờ Chúa cho Giáo Hội tiếp tục
làm công trình cứu độ ấy. Chúa đã hẹn gặp các tông đồ ở núi cao miền
Galilê và Chúa đã căn dặn các tông đồ: “Anh em hãy đi giảng dạy muôn
dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, giảng dạy
cho họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt 28, 19-20). Đó
là sứ mạng Chúa trao cho các tông đồ, Chúa trao cho Hội Thánh. Hôm nay
Chúa về trời thì Hội Thánh tiếp nối sứ mạng ấy. Trong ba mươi ba năm
sống tại trần gian này thì ba năm Chúa đã rao giảng Tin Mừng, Chúa đã
làm phép lạ để chứng tỏ tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Chúa đã chữa
lành bệnh tật, cho người đói ăn, cho người đau yếu được mạnh khỏe, rồi
Chúa đã tha tội cho người ta. Chúa đã cử hành thánh thể để nuôi dưỡng
con người. Tin Mừng cứu độ ấy, hôm nay Chúa đã hoàn tất và hôm nay Chúa
trao cho chúng ta, Chúa trao cho Hội Thánh. Mỗi người trong cương vị của
mình phải chu toàn trách nhiệm, sứ mạng rao giảng Tin Mừng mà Chúa đã
trao cho chúng ta. “Anh em hãy giảng dạy cho muôn dân”, lời Chúa nói
không phải chỉ dành cho các tông đồ, dành cho các giám mục, linh mục, tu
sĩ nhưng là lời gửi đến toàn thể cộng đồng dân Chúa. Anh chị em, mọi
người trong Hội Thánh đều có sứ mạng loan báo Tin Mừng để làm chứng về
Chúa Giê su cho anh chị em chúng ta.
Trong
những năm vừa qua, anh chị em được nghe nói đến việc tân Phúc Âm hóa
hay là nói cách khác, là việc loan báo Tin Mừng mới. Loan báo Tin Mừng
mới có nghĩa là gì? Không phải là rao giảng một Phúc Âm mới. Chỉ có một
Phúc Âm mà thôi. Chỉ có một Đức Giê su, Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ làm
người mà thôi. Phúc Âm ấy, Chúa Giê su ấy: hôm qua, hôm nay và mãi mãi
cho đến mãi muôn đời vẫn là một. Không ai được quyền thay đổi Phúc Âm
ấy, không ai được quyền thay đổi đức tin. Nhưng tân Phúc Âm hóa, công
cuộc Phúc Âm hóa mới ở chỗ nào? Thưa, đó là mới ở chỗ đổi phương pháp
loan báo Tin Mừng, đổi cách trình bày nội dung Tin Mừng. Nội dung vẫn là
một, nhưng ngôn ngữ và phương cách phải được đổi mới. Phúc Âm hóa mới
còn ở chỗ phải có nhiệt tình mới, một lòng hăng say mới để đi rao giảng
Tin Mừng. Những điều ấy hết sức cần thiết cho thời đại của chúng ta hôm
nay.
Quả
vậy, thưa anh chị em. Chúng ta phải đổi mới cách loan báo Tin Mừng, đổi
mới cách dạy giáo lý của chúng ta. Có lẽ trong bao nhiêu năm chúng ta
đã quen với việc dạy giáo lý bằng cách “hỏi – thưa”. Một ông quản, một
bà quản hay một anh chị giáo lý viên cầm cái roi ở trong tay, rồi dạy
giáo lý. Chúng ta cố gắng nhồi nhét những câu hỏi thưa cho các thế hệ
trẻ. Việc học thuộc lòng rất cần thiết, chúng ta không thể bỏ được.
Nhưng phải thay đổi, dùng các phương pháp sư phạm mới, dùng cách trình
bày mới, dùng phương tiện mới. Ngày xưa không có ti vi, ngày nay có ti
vi, người ta dùng ti vi để giảng đạo; ngày xưa không có Internet, bây
giờ người ta dùng Internet để rao giảng Phúc Âm; ngày xưa không có
video, bây giờ có video để giảng dạy Phúc Âm; ngày xưa người ta dùng
ngôn ngữ trừu tượng để giảng dạy về Chúa Giê su, ngày nay dùng phương
pháp kể chuyện để nói về Chúa Giê su… Chúng ta thấy đó là những điều hết
sức quan trọng để loan báo Tin Mừng cho mọi tạo vật. Có những điều
chúng ta giảng dạy trừu tượng không ai muốn nghe, nhưng nếu chúng ta
dùng phim ảnh, dùng câu chuyện để nói về Chúa Giê su thì những câu
chuyện ấy, những bài giảng ấy hết sức là hấp dẫn, lôi kéo người khác. Đó
chính là rao giảng Tin Mừng một cách mới mẻ: Tân Phúc Âm hóa.
Tân
Phúc Âm hóa còn hiện đại ở chỗ là chúng ta phải có sự nhiệt tình mới.
Phải có lòng nhiệt tình, phải có sự hăng say đi rao giảng Tin Mừng. Chúa
trao sứ mạng đi rao giảng và làm chứng về Chúa cho anh chị em. Nhưng
thử hỏi, suốt 2000 năm qua. Công việc rao giảng Tin Mừng được tiến triển
bao nhiêu? Thưa, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II, là vị mới được phong Á
Thánh ngày 01.05.2011 vừa qua. Ngài đã nói: “Sau 2000 năm, công cuộc
rao giảng Tin Mừng vẫn còn dừng lại, dường như ở bước khởi đầu”. Nghĩa
là chưa tiến được gì hết, 2000 năm không cứu vớt được là bao nhiêu. Bởi
vì sao? Bởi vì thiếu nhiệt tình, thiết sự hăng say. Thiếu nhiệt tình,
thiếu sự hăng say, bởi chính chúng ta đây, những người Ki tô hữu, chúng
ta chưa cảm nhận được tin vào Chúa Giê su đó là một tin vui cho chúng
ta. Nhiều người Ki tô hữu tin vào Chúa Giê su nhưng mà không cảm thấy
vui, không cảm thấy là Tin Mừng, không cảm thấy là hạnh phúc. Và một khi
chúng ta không thấy vui, không thấy hạnh phúc thì lúc đi nấc thang đi
theo Chúa, làm sao chúng ta có lửa, chúng ta có nhiệt tình để rao giảng
Tin Mừng cho người khác. Chính mình không cảm thấy đó là tin vui thì
mình chỉ rao giảng tin buồn, không thể rao giảng Tin Mừng về Chúa được.
Cách
đây chừng hai mươi năm, anh chị em vùng Kim Sơn (tỉnh Ninh Bình) của
chúng ta đổ xô đi tìm vàng. Có những người nghe nói ở chỗ nọ, chỗ kia có
vàng. Một người đi kháo tin là có vàng, và đúng là có vàng, thì người
đó vui mừng báo tin cho gia đình mình, cho anh em mình, cho xứ sở, lối
xóm của mình. Thế là người ta từng đoàn, từng đoàn đi đào vàng. Có những
người tìm được vàng, nhưng có những người thất bại. Nhưng điều quan
trọng là người đầu tiên đi phát hiện thấy vàng. Người đó vui mừng về
loan báo cho mọi người. Khi người ta nhận thấy tin vui, người ta không
giữ được niềm vui, người ta sung sướng và muốn lôi kéo tất cả cùng đi để
có một cuộc sống mới. Chính Chúa Giê su đã ví “Nước Trời cũng giống như
viên ngọc quí” (x. Mt 13, 44-46). Nước Trời giống như kho tàng, không
phải chỉ là mỏ vàng có khi được khi không, mà là cả kho tàng ngọc quí.
Những người Ki tô hữu chúng ta đây là những người đã biết được sự cao
quí của Nước Trời. Chúng ta cảm nhận được tin vui, chúng ta cảm nhận
được niềm vui và hạnh phúc, bởi vì chúng ta đã gặp được Chúa Giêsu là
Đấng Cứu Thế, là Đấng đổi mới cuộc đời chúng ta. Mình cảm nhận, mình
công bố, mình mong muốn cho mọi người được biết Tin Mừng cứu độ của Chúa
Giêsu. Cho nên, tân Phúc Âm hóa là khơi dậy ngọn lửa nhiệt tình mới cho
những người Ki tô hữu chúng ta.
Ngày
hôm nay, ngày Chúa Giê su lên trời. Chúng ta dừng lại để suy ngẫm về sứ
mạng của chúng ta. Chúng ta thử hỏi, chúng ta đã chu toàn sứ mạng đó
được như thế nào? Ngọn lửa nhiệt tình của chúng ta, niềm vui của chúng
ta khi chúng ta đi theo Chúa được bao nhiêu? Thưa, chắc còn thấp lắm.
Hôm nay, khi Chúa trao phó sứ mạng cho Giáo Hội, cho các tông đồ thì
Chúa cũng căn dặn: “Anh em hãy chờ đợi Chúa Thánh Thần đến trong anh em”
(Cv 1, 8).
Trong
tuần lễ này, từ hôm nay cho đến Chúa nhật tới, chúng ta hãy khao khát,
cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần đến với Hội Thánh, đến với từng người
chúng ta. Xin Chúa Thánh Thần đốt lên trong lòng chúng ta ngọn lửa nhiệt
tình, đốt lên trong lòng chúng ta lòng hăng say để chúng ta rao giảng
Tin Mừng cho Chúa. Chúng ta cầu nguyện xin Chúa Thánh Thần khơi dậy
trong Hội Thánh một nguồn sống mới. Trong Chúa nhật tới, chúng ta sẽ
mừng lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống thì trong tuần này, mỗi ngày, tất cả
mọi nơi, mọi lúc, chúng ta hợp ý với toàn thể Hội Thánh xin Chúa Thánh
Thần đến với chúng ta. Chúa Giê su đã về trời, sự hiện diện của Chúa qua
lời của Chúa, qua Thánh Thể của Chúa, chúng ta lắng nghe sứ điệp mà
Chúa Giêsu trước khi lên trời đã trối lại cho chúng ta. Chúng ta xin
Chúa nâng đỡ để mỗi người trong chúng ta chu toàn sứ mạng mà Chúa đã
trao cho chúng ta giữa lòng Hội Thánh. Amen.
Bài 16. Cùng đích cuộc đời chúng ta là Nước Trời
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Xã
hội chúng ta đang sống, người ta tự xưng mình là những người vô thần,
tức là không tin vào thần thánh, không tin hồn thiêng bất tử, và cũng
không tin vào sự sống đời sau, cũng chính vì thế họ đã tự tạo ra một
tinh trạng trống rỗng về tôn giáo, về tinh thần trong xã hội trong tâm
hồn con người. Cho đến hôm nay, dường như người ta nhận ra rằng, con
người không thể thiếu vắng những giá trị thiêng liêng, tôn giáo như thế,
và thế là họ đã tạo nên những thứ thần linh và những thứ tôn giáo để
lấp đầy khoảng trống đó trong xã hội và trong tâm hồn của nhiều người.
Chính vì vậy mà trong những năm gần đây những hình thức lễ hội mang tính
tôn giáo, các thứ cúng bái dân gian, kể cả những thứ tin kiêng vớ vẩn
dường như đang được ủng hộ, khuyến khích trong xã hội chúng ta.
Trong
khi đó niềm tin tôn giáo và đặc biệt đức tin Kitô giáo hướng chúng ta
đến cùng đích của cuộc đời con người đó là hạnh phúc nước trời, cũng
chính vì niềm tin và hy vọng này mà mỗi người chúng ta dù đang sống và
làm việc trên trần gian này, nhưng lòng chúng ta luôn hướng về trời là
quê hương thật của chúng ta.
Mừng
lễ Chúa Giêsu về trời chúng ta không chỉ mừng một sự kiện đã xảy ra
hoặc một cuộc chia tay, mà còn là dịp Giáo Hội nhắc cho chúng ta rằng:
Chúa về trời để mở đường cho chúng ta và mời gọi chúng ta luôn yêu mến
và tìm kiếm nước trời như là lẽ sống là mục đích cuộc đời. Nước trời mà
hôm nay Chúa Giêsu trở về, không hẳn là một nơi chốn, cũng không phải là
Ngài trở về một hành tinh xa xôi nào đó, nhưng là Ngài trở về với địa
vị danh dự của một vị Thiên Chúa, trở về với tình trạng hạnh phúc cùng
với triều thần thiên quốc. Sự kiện Chúa lên trời cho chúng ta nhớ rằng
quê hương đích thực của chúng ta là nước trời, và cùng đích cuộc đời của
mỗi người phải là tìm kiếm hạnh phúc nước trời, chính niềm hy vọng này
thục đẩy và chi phối cuộc sống hiện tại của chúng ta, và làm cho chúng
ta khác với những người vô thần.
Chúa
Giêsu đến thế gian, Ngài đã hoàn tất việc khai sinh Giáo Hội, hoàn tất
chương trình cứu chuộc nhân loại và chỉ ra cho nhân loại con đường về
trời, con đường đó chính là con đường của Tin Mừng, con đường của Tám
Mối Phúc, con đường của thập giá, là con đường đưa con người đến sự giải
thoát và siêu thoát. Nay, Chúa Giêsu về trời, Ngài muốn trao phó cho
chúng ta tiếp nối sứ mạng mà Ngài đã thực qua mệnh lệnh Chúa truyền cho
các Tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay: Phải nhân danh Người mà rao
giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem,… chính anh em là chứng nhân
của những điều này. Như vậy, sự kiện Chúa về trời còn là để để mở ra cho
Giáo hội một giai đoan mới, giai đoạn Giáo hội phải lên đường, phải ra
đi, ra khỏi tình trạng co cụm sợ hãi để mạnh dạn đến với mọi người mọi
dân và làm chứng về Tin Mừng của Chúa, làm chứng cho niềm hy vọng về
Nước trời mai sau.
Để
lại sứ vụ rao giảng cho Giáo Hội, Chúa không để Giáo hội làm việc một
mình, nhưng Ngài còn hứa sẽ ban Thánh Thần là Đấng bảo Trợ, Đấng an ủi
đến với các tông đồ, Ngài sẽ là Thần Sức Mạnh, là Đấng soi sáng dẫn dắt
cho mọi hoạt động của Giáo Hội. Trong cuộc chia tay này, không còn là
cuộc chia tay buồn bã như trong bữa tiệc ly, song Thánh Luca muốn nhấn
mạnh cho thấy, các tông đồ đã hoàn toàn ý thức và tin Thày của các ông
đã được tôn vinh như một vị Thiên Chúa, nên trong lúc lãnh nhận sự chúc
lành từ nơi Thày, các ông đã bái lạy Người như bái lạy Thiên Chúa, sau
đó các ông trở về Girusalem lòng đầy hân hoan vui mừng.
Bài
đọc một hôm nay là đoạn mở đầu của sách Tông Đồ công Vụ, thuật lại sự
kiện Chúa Giêsu lên trời như là sự kiện đánh dấu sự khời đầu cho sứ mạng
của Giáo Hội với sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần. Tác giả đã cho thấy sự
kiện lên trời của Chúa Giêsu như là sự kiện Thiên Chúa Cha tôn vinh Con
của Ngài: Ngài được cất lên trời trước mặt các tông đồ, và có đám mây
che phủ khiến các ông không thấy Ngài nữa. Hình ảnh Ngài được cất lên và
đám mây che phủ là hình ảnh muốn nói lên vinh quang của một vị Thiên
Chúa, và kể từ đây, không phải Chúa Giêsu lìa bỏ các tông đồ, Ngài vẫn
đang hiện diện qua quyền năng và Thánh Thần được ban cho các ông, chỉ có
điều vì mắt các ông bị mây che phủ nên các ông có thể không thấy Ngài.
Điểm
tiếp theo mà sách Tông Đồ Công Vụ muốn diễn tả, đó là trong lúc các
tông đồ còn đăm đăm nhìn theo Người, thì có hai người mặc áo trắng đứng
bên cạnh nói với các ông: Hỡi những người Galilea, sao còn mải đứng nhin
trời? Đức Giêsu Đấng vừa lìa bỏ các ông để lên trời, cũng sẽ ngự đến
như các ông đã thấy Ngài lên trời. Lời này cho thấy, chúng ta được mời
gọi hướng về quê hương trên trời, lấy nước trời làm mục đích của cuộc
đời, nhưng chúng ta không mãi ngước nhìn trời để rồi quên lãng bổn phận
trần thế, trái lại phải trở về với cuộc sống, phải nhìn xuống đất để
thấy được những thực tại trần thế và những vấn đề của nó. Trở về cuộc
sông thường ngày, là trở về với những lo toan những công việc, để đương
đầu với những khó khăn thử thách, và biết giải quyết mọi vấn đề trong
ánh sáng của Tin Mừng, trong niềm hy vọng và đợi trông nước trời. Đồng
thời chúng ta còn được mời gọi làm việc không phải chỉ cắm mặt vào công
việc, hoặc chỉ tìm kiếm vất chất và thế gian, nhưng còn phải luôn ở
trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Chúa Giêsu sẽ trở lại.
Thưa
quý OBACE, như đã nói ở trên, chúng ta khác với những người xưng mình
là vô thần không có niềm tin, đối với họ cuộc sống trên trần gian này
chỉ là tìm kiếm cái ăn cái mặc hoặc là thu vét cho có nhiều của cải,
thỏa mãn cái bụng mà không biết chung cuộc đời mình sẽ như thế nào, và
đâu là niềm hy vọng hạnh phúc đời đời. Chúng ta đang sống trên trần gian
nhưng lòng chúng ta lại hướng về trời cao, chúng ta vẫn đang làm việc
nhưng chúng ta không chỉ làm việc vì cơm áo gạo tiền, mà chúng ta đang
làm việc trong sự trao phó của Thiên Chúa và trong sự đợi chờ ngày chúa
trở lại đem chúng ta về trời với Ngài, chính vì niềm hy vọng đời chờ
này, lại thúc đẩy chúng ta phải sống và làm việc một cách tích cực hơn
và tốt đẹp hơn.
Trong
ngắm thứ nhất mùa mừng chúng ta đọc: Thứ nhất Chúa Giêsu lên trời, ta
hãy xin cho được yêu mến những sự trên trời, điều này đặt ra cho chúng
ta suy nghĩ xem chúng ta có thực sư yêu mến những sự trên trời hay chúng
ta yêu mến những sự dưới đất hơn những sự thuộc về trời? Chúng ta sẽ
trở thành giống như người không có niềm tin khi chúng ta chỉ biết yêu
mến và tìm kiếm những sự dưới đất mà bỏ qua việc tìm kiếm những giá trị
thiêng liêng và tìm kiếm nước trời về cho mình và cho con cái, khi chúng
ta tự mình giải quyết những khó khăn của cuộc sống mà quên sự hiện diện
và nâng đỡ của Thiên Chúa. Các bậc làm cha mẹ hãy biết dành ưu tiên cho
việc tim kiếm Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài về cho gia đình và người
thân của mình, hãy chu toàn bổn phận làm vợ chồng, cha mẹ trong niềm hy
vọng Chúa sẽ trở lại và đưa chúng ta về trời, đừng biến gia đình mình
trở thành một gia đình mất đi niềm hy vọng ấy, cũng đừng để gia đình
mình bị những mây mù của tật xấu của đam mê, lười biếng làm cho các
thành viên không còn nhìn nhận ra sự hiện diện của Chúa nữa.
Nhiều
người trẻ ngày hôm nay đang sống như thể không có Chúa hiện diện, và
không xác định được cùng đích cuộc đời của mình là gì, không biết rồi
mình sẽ đi đâu, nên nhiều người đã sống không có định hướng, sống chộp
giật, sống vội, sống như thể không có đời sau,… Chúng ta là những người
tin Chúa, chúng ta phải sống trong hy vọng và phải sống khác với những
người ấy. Chúng ta không thể buông mình cho dòng chảy của xã hội đưa
đẩy, mà trái lại chúng ta được mời gọi phải sống làm chứng, và nói cho
mọi người biết về Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài và nói về niềm hy vọng
của chúng ta cho mọi người chung quanh; Chúng ta cũng vẫn phải làm việc
như mọi người, nhưng chúng ta sẽ phải sống tốt hơn và làm việc tốt hơn,
vì chúng ta làm việc trong sự thúc đẩy và vì lời mời gọi của nước trời.
Giáo
hội chọn ngày hôm nay là ngày Truyền thông Quốc tế, để cầu nguyện cho
những người làm công tác truyền thông biết nói lên sự thật và biết bênh
vực cho sự thật, biết dùng những phương tiện truyền thông để phục vụ cho
nhu cầu hạnh phúc và lợi ích của cộng đồng, nhất là qua những phương
tiện này, họ biết nói về Thiên Chúa quyền năng và tình yêu thương của
Ngài cho mọi người.
Xin Chúa giúp chúng ta biết chuẩn bị cho nước trời mai sau bằng việc sống thật tốt, thật tròn đầy ngày hôm nay. Amen.
Bài 17. HIỆN DIỆN – VẮNG MẶT
ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Sau
khi kể lại việc các môn đệ trực tiếp chứng kiến Chúa Giêsu rời khỏi các
ông và được đem lên trời Thánh sử Luca đã ghi lại: Bấy giờ các ông bái
lạy Người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỷ. Chúng ta hơi ngạc
nhiên vì tâm trạng các môn đệ có vẻ mâu thuẫn trong tình huống này. Có
lẽ nào khi chúng ta chia tay với những người mình quý mến mà lòng chúng
ta lại được tràn đầy hoan hỷ? Câu trả lời cho tâm trạng của các môn đệ
được tìm thấy nơi niềm xác tín của các ông về một Đức Kitô vừa hiện diện
vừa vắng mặt trên trần thế.
Đức
Giêsu “vắng mặt” nơi trần thế. Khi lên trời, Người về với Chúa Cha như
chính Người đã nói. Người lìa xa các ông và từ nay Người không còn hiện
diện cách thể lý như trong suốt 33 năm của cuộc đời dương thế, và trong
suốt 40 ngày kể từ khi Chúa sống lại. Từ nay, Đức Giêsu vắng mặt nơi
trần thế. Người đã nói với các môn đệ: “Thày đi thì tốt cho các con…
Thày không bỏ các con mồ côi… Thày sẽ sai Thánh Thần đến với các con và
Ngài sẽ dẫn các con đến chân lý toàn vẹn” (x.Ga 16,13).
Mặc
dù Chúa Giêsu đã về trời, nhưng Người vẫn hiện diện giữa trần gian. Các
nhà thần học gọi đó là một sự “Hiện diện – Vắng mặt”, có nghĩa là Chúa
hiện diện mà ta không nhìn thấy, đồng thời Chúa vắng mặt nhưng Đức tin
mách bảo rằng Người đang ở với chúng ta. Chính Chúa đã hứa với các môn
đệ trước khi rời ra các ông: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho
đến tận thế”.
Căn
cứ vào những suy luận trên đây, chúng ta hiểu được tâm trạng của các
môn đệ sau khi đã được chứng kiến Chúa lên trời. Các ông vui mừng với
niềm xác tín rằng Chúa đang hiện diện với các ông, mặc dù từ nay, các
ông không còn được ăn uống với Người và lắng nghe những lời Người giáo
huấn. Từ nay, bổn phận chính yếu của các ông là nhớ lại những lời dạy
của Chúa và lên đường loan báo lời dạy ấy cho muôn dân. Mặc dù không còn
được thấy Chúa bằng con mắt thể lý, các ông vẫn thấy Người bằng con mắt
đức tin. Đối với chúng ta cũng vậy. Chúng ta giống như hai lữ khách
trên đường Emmau, từng bước ngỡ ngàng nhận ra Chúa đang hiện diện qua
những cử chỉ chia sẻ huynh đệ và nhất là qua lời cầu nguyện.
Lễ
Thăng Thiên là lễ của niềm vui và hy vọng. Bởi lẽ việc Chúa lên trời
cũng đã là chiến thắng của chúng ta (x. Lời nguyện nhập lễ). Trong Phụng
vụ của ngày lễ hôm nay, Giáo Hội cầu nguyện xin Chúa ban cho chúng ta
niềm vui, vì “chúng con là chi thể của thân thể Người, Người là Đầu đã
đi trước chúng con tiến vào vinh quang nơi Chúa, và chúng con cũng đang
hy vọng tiến tới đó” (Lời nguyện dâng lễ).
Tâm
trạng của chúng ta khi mừng lễ Chúa lên trời cũng là tâm trạng của các
môn đệ năm xưa khi các ông xuống núi. “Xuống núi” là trở về với cuộc
sống thường nhật, nhưng với tinh thần được đổi mới và với niềm xác tín
mới. Lời nhắc bảo của hai sứ thần mặc áo trắng đưa các môn đệ đi từ tình
trạng chiêm niệm đến với thực tế. Các ông đã được thấy Chúa về trời,
các ông hãy trở lại với cuộc sống cụ thể để làm chứng về những điều mắt
thấy tai nghe. Từ nay, sứ mạng tông đồ của các ông không còn bó hẹp
trong một không gian nhất định, nhưng mang tính hoàn vũ: “Anh em sẽ là
chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđêa, Samari
và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
Khi
mừng lễ Chúa về trời, người Kitô hữu được mời gọi nhận ra Đức Giêsu vừa
là Thiên Chúa vừa là người. Người cũng vừa hiện diện vừa vắng mặt nơi
cuộc sống của chúng ta. Nói cách khác, Người diện diện một cách huyền
nhiệm, vô hình, thiêng liêng để tiếp tục sẻ chia những gian truân của
thân phận con người. Lễ Thăng Thiên cũng nhắc người Kitô hữu có một quan
niệm quân bình về cuộc sống trần thế. Bởi lẽ là người công dân của Nước
Trời, chúng ta sống giữa thế gian mà không thuộc về thế gian, đồng thời
chúng ta có bổn phận phải xây dựng trần thế cho tốt đẹp và nhân ái hơn.
Đối với các Kitô hữu “miền đất lạ nào cũng là quê hương, nhưng quê
hương nào cũng là đất khách” (Thánh Justinô), vì quê thật của họ là Nước
Trời, nơi Đức Giêsu đã dọn sẵn cho họ những chỗ ở, để họ chiêm ngưỡng
vinh quang Chúa Cha trong hạnh phúc đời đời.
Bài 18. Ước mơ về trời
Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Hôm
nay Chúa về trời đó là niềm vui và là niềm hy vọng cho hành trình cuộc
đời chúng ta. Một hành trình không vô định nhưng có điểm tới là quê Cha
trên trời. Chính Chúa Kitô đã soi lối mở đường cho chúng ta. Chính Ngài
đã đi trước để dọn chỗ cho những ai tin theo Người. Từ nay u sầu sẽ gặp
niềm vui. Từ nay những đau khổ đời này không làm cho con người thất
vọng, nhưng ánh vinh quang Phục Sinh của Chúa đã mang lại niềm hy vọng
và lạc quan cho kiếp người chúng ta.
Người
ta kể rằng: có một bác nông dân đã tình cờ nhặt được một tượng chịu nạn
đã bị sứt mẻ đang nằm chơ vơ vì không có thập giá. Bác cầm tượng chịu
nạn lên và đi vào trong làng. Bác đến từng nhà. Bác hỏi han từng người.
Từ người già đến người trẻ. Bác nghĩ thầm rằng: “Không chừng ở đâu đây!
Có ai đó đang có thập giá trơ trụi mà không có Đức Kitô nằm trên. Đức
Kitô của bác không có nơi ngơi nghỉ, còn thập giá của ai đó không có Đức
Kitô. Bác muốn trao Đức Kitô cho ai đang đang phải vác thập giá một
mình, để nhờ Đức Kitô họ vượt qua những gian nguy của dòng đời. Bởi vì,
một thập giá không có Đức Kitô là tra tấn, là hoả ngục, là thất vọng.
Thế nên, bác đã cố gắng tìm đến những ai đang thất vọng vì gánh nặng hai
vai, đang ui sầu vì lầm than cơ cực, bác trao gởi cho họ Đức Kitô để họ
nhận ra họ đang được thông phần đau khổ với Đức Kitô. Hy vọng rằng cuộc
đời họ sẽ vui hơn vì họ đang làm việc, đang đón nhận đau khổ vì Đức
Kitô, nhờ đó họ cũng được chung phần vinh phúc với Chúa trên trời.
Vâng,
cuộc đời chúng ta sẽ ngụp lặn trong đau khổ cùng cực nếu không có Đức
Kitô hiện diện. Nếu cuộc đời không có Đức Kitô thì những hy sinh, những
đau khổ, những gánh nặng trong cuộc đời này sẽ là một mất mát, một nỗi
đau của kiếp người. Đây cũng là tin mừng mà Đức Kitô đã và đang trao phó
cho giáo hội, cho mỗi người chúng ta: “Anh em hãy đi khắp tứ phương
thiên hạ, loan báo Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Hãy loan tin vui đến
cho những ai đang gặp u sầu, đang thất vọng, đang trải qua những ngày
tháng bất hạnh, khổ đau. Hãy nói cho họ biết sau đêm dài là ánh bình
minh. Cuộc đời này là một hành trình đi về thiên quốc. Một con đường có
thập giá. Thập giá trong bổn phận. Thập giá trong hy sinh từ bỏ những
tham sân si của dòng đời. Thập giá trong những dâng hiến cuộc đời để
phục vụ cho lợi ích tha nhân. Đó chính là thập giá mà chúng ta đón nhận
vì Đức Kitô sẽ biến thành Thánh Giá của hồng ân cứu độ.
Người
nông dân đang cố gắng mang Chúa đến cho những mảnh đời bất hạnh, là sứ
vụ mà Chúa đã trao cho giáo hội và cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy
cùng nhau mang Đức Kitô đến muôn nẻo đường đời. Hãy mang Đức Kitô đến
cho những ai đang thất vọng u sầu, đang nặng trĩu những buồn đau. Hãy
mời gọi họ biết đón nhận mọi biến cố đang diễn ra trong cuộc đời mình vì
Đức Kitô và trong Đức Kitô.
Hôm
nay, Chúa về trời. Chúa vẫn mang theo những dấu vết của thương tích
trong cuộc khổ nạn. Không có vết thương nào đắt giá cho bằng sự chết.
Như thể, Chúa về trời với những chứng tích đau thương, với những chống
đối mà Ngài phải gánh chịu trong cuộc sống, với cơn hấp hối nơi vườn Cây
Dầu, với những đau đớn của roi đòn, lỗ đinh. Ngài đã mang theo tất cả
những giai đoạn đau thương đẫm máu như dấu tích cho lời xin vâng trọn
vẹn vâng theo thánh ý Chúa. Và hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ cũng
như những ai muốn đi theo Ngài phải đi con đường này để lên trời. “Anh
em hãy làm chứng cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng thế
giới”. Làm chứng không chỉ bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống theo gương
Chúa Giêsu. Một cuộc sống luôn tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong cuộc
sống hằng ngày. Một cuộc sống yêu thương và phục vụ tha nhân để qua đó
muôn dân sẽ ngợi ca Thiên Chúa. Một cuộc sống làm chứng không nhất thiết
phải đổ máu, nhưng quan yếu là phải thể hiện tình yêu bằng những nghĩa
cử cụ thể trong lời nói, trong việc làm: luôn bao dung, luôn kính trọng
lẫn nhau, luôn bác ái và sống công bình với nhau. Một cuộc đời làm chứng
không nhất thiết phải có một bản án để người đời khinh chê, ghét bỏ,
nhưng chỉ cần biết hy sinh từ bỏ ý riêng của mình trong từng giây, từng
phút để thánh ý Chúa luôn được thi hành trong cuộc sống hằng ngày của
chúng ta.
Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em,
Hôm
nay nhìn Chúa về trời. Các tông đồ cảm thấy lòng trào dâng niềm vui. Xa
xăm nơi cuối chân trời chỉ còn vang vọng lời Thầy chí Thánh Giêsu: “Anh
em hãy làm chứng nhân cho Thầy. Khởi từ Giê-rusalem cho đến tận cùng
thế giới”. Xin cho mỗi người chúng ta đang khi hướng lòng về trời cao
cũng biết chu toàn sứ vụ trần thế trong niềm hân hoan, ngõ hầu “Ra đi
tay ôm bó lúa đi gieo – Ngày trở về miệng reo vang câu hát mừng. Xin
Chúa Giêsu vinh thắng về trời giúp chúng ta luôn ước ao những sự trên
trời và tìm kiếm Nước Chúa trong cuộc sống hôm nay. Amen.
Bài 19. SỰ SỐNG MỚI-HIỆN DIỆN MỚI
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Có
lẽ nhiều người ngạc nhiên tự hỏi: sao trong bài Phúc Âm lễ Thăng Thiên
hôm nay, chẳng thấy nói gì đến trời, đến bay lên? Thắc mắc như vậy là
hợp lý. Ta vẫn quen gọi hôm nay là lễ Chúa Giêsu lên trời. Và theo quan
niệm bình dân, không gian chia làm ba tầng. Tầng dưới đất là âm ty, địa
ngục, dành cho người chết. Tầng mặt đất mà ta đang sống là dương gian.
Và tầng trên mặt đất là trời. Chúa Giêsu đã sống trên mặt đất, khi chết
Người bị chôn trong lòng đất, đi vào cõi âm ty. Sống lại, Người trở lại
mặt đất. Và hôm nay Người được đưa lên trời, bay lên đám mây, ngự bên
hữu Chúa Cha.
Đó
chỉ là một lối diễn tả bình dân. Thực ra, trời đâu phải là một nơi
chốn. Con người có thân xác, bị giới hạn trong không gian, cần một nơi
chốn để cư ngụ. Thiên Chúa không bị giới hạn trong không gian thì đâu
còn bên tả bên hữu gì nữa.
Vậy, tại sao ta nói Chúa Giêsu lên trời? Lên trời ở đây có ý nghĩa gì?
Trời
không phải là một nơi chốn, nhưng là một trạng thái, trong đó Ba Ngôi
Thiên Chúa sống chan hoà yêu thương. Sự sống của Thiên chúa không giống
sự sống của cây cỏ. Cũng không giống như sự sống của động vật hay loài
người. Đó là sự sống thần linh. Sự sống vượt không gian, vượt thời gian,
không còn bị lệ thuộc vào điều kiện vật chất. Sự sống không còn bị hao
hụt, giảm thiểu bởi đau đớn, bệnh tật, đói khát. Đó là sự sống viên mãn
tràn đầy. Được tham dự vào sự sống ấy là một hạnh phúc vô song. Đó chính
là thiên đường. Lên trời hay lên thiên đàng như vậy không phải là thay
đổi nơi chốn nhưng là thay đổi sự sống. Đó là chuyển đổi sự sống hữu hạn
của con người sang sự sống vô hạn của Thiên Chúa. Đó là rời bỏ thế giới
hữu hạn của loài người để bước vào thế giới vô hạn của Thiên Chúa. Đức
Giêsu lên trời có nghĩa là Đức Giêsu về với Thiên Chúa, sống với Thiên
Chúa, sống cuộc sống Thiên Chúa. Lên trời không phải lên theo chiều cao
trong không gian vật lý. Nhưng là lên theo cấp độ sự sống, là sống cao
hơn, mạnh mẽ hơn, tràn đầy hơn.
Chính
vì thế, Chúa Giêsu lên trời không phải giã từ thế giới, để đi vào xa
vắng mịt mù. Nhưng Người không đi vào một hiện hữu mới để hiện diện mãnh
liệt hơn. Không còn bị kềm chế trong không gian, giờ đây Người hiện
diện ở khắp mọi nơi. Không còn bị lệ thuộc vào một thân xác, giờ đây
Người có thể hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Người
ở đó trong những trang Sách Thánh đầy lời lẽ nhiệm mầu để dạy cho ta
biết con đường về với Thiên Chúa. Người ở đó trong bí tích Thánh Thể
huyền diệu để nuôi linh hồn ta, để kết hợp với ta, để giúp ta đủ sức
mạnh đi hết con đường trần gian khổ. Người ở đó trong những người anh em
đồng tâm nhất trí cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Chúa Cha. Người ở
đó trong những anh em bé nhỏ nghèo hèn đang chờ chúng ta mở rộng trái
tim, mở rộng vòng tay nhân ái. Người ở đó trong những người hiến thân
phục vụ anh em, trong những người hy sinh bản thân mình cho công bình,
cho chân lý, cho một thế giới tươi đẹp hơn. Người có mặt trên khắp mọi
nơi nẻo đường, trong tất cả mọi cảnh ngộ của cuộc đời. Người có mặt
trong mọi thời gian đúng như Người đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày
cho đến tận thế”.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu: Trời không phải là một nơi chốn xác định,
là một không gian vật lý có thể cân đo đong đếm. Nhưng trời là Thiên
đàng, là chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi, là chính Thiên Chúa Ba
Ngôi.
Bây giờ chúng ta đã hiểu lên trời không phải là bay bổng lên không gian. Nhưng là chuyển đổi cấp độ sự sống, hay là bước vào sự sống siêu nhiên của Thiên Chúa.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu, lên trời không phải là vắng mặt, là xa vắng nhưng lại là một hiện diện vô cùng phong phú, vô cùng mãnh liệt, ở bên cạnh tất cả mọi người, ở mọi nơi và ở mọi thời.
Chúa
Giêsu là người mở đường cho nhân loại. Người tiến về một thế giới sự
sống viên mãn, cao cả để cho ta thêm niềm tin tưởng rằng: vận mệnh của
Người cũng sẽ là vận mệnh của ta. Ta cũng sẽ được cùng Người bước vào sự
sống thần linh vĩnh cửu, miễn là ta đi vào con đường của Người: con
đường khiêm nhường phục vụ. Miễn là ta vâng giữ lời Người truyền dạy:
Hãy yêu tha nhân như chính bản thân mình.
Lạy Đức Giêsu, xin hãy nâng lòng con lên khao khát những sự trên trời. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Bạn có cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong đời sống hằng ngày?
2) Bạn làm cách nào để mọi người cảm thấy Chúa Giêsu đang hiện diện mãnh liệt trong thế giới?
3) Bạn làm gì để xây dựng Nước Trời?
Bài 20. Lời Chúa
R. Veritas
R. Veritas
Nơi mục tựa ngắn của một tập sách do chính mình viết có tựa đề: “Biết Và Không Biết Về Thiên Chúa“.
Tác giả Đức Hồng Y Sacrunez, một triết gia và cũng là một thần học gia
nổi tiếng của thập niên 60 đã trình bày niềm xác tín của mình như sau:
“Người
ta không thể nào không nói về Thiên Chúa, mọi kinh nghiệm tốt xấu, tích
cực hay tiêu cực đều đưa con người đến việc đặt vấn đề về Thiên Chúa.
Con người không thể loại bỏ hay quên hẳn Thiên Chúa được, con người vẫn
nói về Thiên Chúa, nhưng khi nói rồi con người cảm thấy lời nói của mình
về Ngài như không có ý nghĩa gì cả, lời nói đó trở thành như một sự im
lặng to lớn.”
Từ nhận định trên đây Đức Hồng Y rút ra hai điểm kết luận ngắn rất quan trọng:
Thứ
nhất, con người cần trân trọng quí mến những lời nói, tuy là của con
người nhưng đã được Thiên Chúa sử dụng để mạc khải chính Mình cho con
người.
Thứ
hai, để lời nói của mình về Thiên Chúa có được chút giá trị nào đó,
diễn tả thực thể Thiên Chúa thì con người cần có cảm nghiệm về Thiên
Chúa.
Chúng
ta ghi nhận là các Tông Đồ ngày xưa đã thực hiện hai điều căn bản này.
Họ trân trọng, quí mến lời Chúa giảng dạy. Họ trung thành thông truyền,
không xuyên tạc và các ngài là những kẻ có kinh nghiệm trực tiếp về Chúa
trước khi ra đi rao giảng cho kẻ khác.
Chúa
đã gọi các Tông Đồ để các ngài sống bên cạnh Chúa trong suốt thời gian
Chúa giảng dạy, đến độ tác giả của thư thứ nhất Thánh Gioan và truyền
thống cho là thánh Gioan Tông Đồ, một trong mười hai Tông Đồ đã sống bên
cạnh Chúa trong suốt cuộc đời rao giảng, tác giả thư thứ nhất thánh
Gioan đã viết ngay đầu thư như sau: “Những gì chúng tôi đã thấy, đã
nghe, đã chạm đến về Ngôi Lời Hằng Sống, về Con Thiên Chúa, chúng tôi
loan truyền lại cho anh chị em.”
Mừng
Lễ Chúa Lên Trời hôm nay, chúng ta được mời gọi như các Tông Đồ ngày
xưa, tiếp tục công việc của Chúa. Trước khi lên trời, Chúa đã ra lệnh
cho các Tông Đồ: “Mọi quyền hành trên Trời, dưới đất, được trao ban cho
Thầy, chúng con hãy ra đi giảng dạy muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân
danh Cha và Con và Thánh Thần. Giảng dạy và tuân giữ mọi điều Thầy đã
truyền cho các con, và Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.”
Người
ta không thể nào không nói về Thiên Chúa. Chúng ta, những đồ đệ của
Chúa không thể nào không chia sẻ về Chúa cho anh chị em, không những
bằng lời nói mà còn bằng những việc làm. Nhưng để làm chứng nhân cho
Chúa thì hai điều kiện căn bản mà Đức Hồng Y đã nhắc cho chúng ta là
trân trọng, quí mến những lời nói của Chúa, đây là những lời mà Con
Thiên Chúa Nhập Thể đã nói cho con người biết về mầu nhiệm Thiên Chúa,
chúng ta cần trân trọng, quí mến Lời đó. Những Lời đó và cũng là những
Lời mà Con Thiên Chúa đã chọn để mạc khải Thiên Chúa cho con người.
Chúng ta cần trân trọng những Lời đó.
Điểm
thứ hai, chúng ta cần sống trực tiếp có cảm nghiệm về Chúa, sống với
Chúa trước để có thể làm chứng cho Chúa: “Thầy ở cùng chúng con mọi ngày
cho đến tận thế.” Trân trọng tuân giữ lời rao giảng và duy trì kinh
nghiệm khi gặp Chúa, sống với Chúa qua đời sống cầu nguyện, việc cử hành
Bí Tích Thánh Thể và Bí Tích Thánh Thể là phương thế để Chúa hiện diện,
để Chúa thực hiện điều Ngài đã quả quyết: “Thầy ở cùng chúng con mọi
ngày cho đến tận thế.”
Chúng
ta không nên có thái độ vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm, kể Chúa như kẻ ra
đi đã khuất mắt không còn hiện diện trên trần gian này nữa, để chúng ta
được tự do gây xáo trộn, tự do phá bỏ mọi giá trị. Chúa Lên Trời là một
biến cố khai mạc giai đoạn mới, giai đoạn của một sự hiện diện mới và
của sự dấn thân mới của mỗi người chúng ta để làm chứng cho Chúa. Chúng
ta cần sống với Chúa, lắng nghe Lời Chúa và trân trọng tuân giữ Lời Chúa
để trở thành những chứng nhân của Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được thực hiện điều này và cho chúng ta được trưởng thành trong đức tin. Amen.
Bài 21. Chia sẻ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
“Chúng
ta được qui tụ quanh bàn thờ Chúa để cử hành việc Chúa lên trời. Chúng
ta đã nghe được Lời Chúa: “Các con sẽ nhận lấy sức mạnh của Chúa Thánh
Thần, Đấng sẽ ngự xuống trên các con và các con sẽ là những chứng nhân
của Thầy cho đến tận cùng trái đất”.
Từ
hai ngàn năm qua, những lời này của Chúa Phục Sinh thôi thúc Giáo Hội
tiến ra khơi, tiến vào trong lịch sử của con người. Những lời này làm
cho Giáo Hội trở nên một người luôn đồng hành với tất cả mọi thế hệ, làm
cho Giáo Hội trở nên như men, làm dậy nên những hạt văn hoá trên thế
giới. Hôm nay, chúng ta nghe lại những lời trên để với sức mạnh được
canh tân, chúng ta đón nhận mệnh lệnh của Chúa “Hãy ra khơi”, mệnh lệnh
mà Chúa đã nói với thánh Phêrô. Đây là một mệnh lệnh và tôi đã muốn làm
vang dội lại trong Giáo Hội qua bức tông thư khởi đầu Ngàn Năm Mới. Và
đây là mệnh lệnh mặc lấy một ý nghĩa sâu xa hơn theo ánh sáng của ngày
lễ trọng Chúa Thăng Thiên. “Hãy ra khơi” ra nơi mà Giáo Hội cần tiến
đến, không phải chỉ là một sự dấn thân truyền giáo mạnh mẽ nhưng nhất là
và còn là một sự dấn thân mạnh mẽ sống chiêm niệm.
Như
những tông đồ, những kẻ đã được chứng kiến biến cố Chúa lên trời, chúng
ta cũng được mời gọi hãy hướng cái nhìn lên dung mạo của Chúa Kitô được
hiển vinh trong vinh quang Thiên Chúa Cha. Chắc chắn rằng nhìn ngắm
trời cao không có nghĩa là quên đi trần gian này. Và nếu rủi gặp phải
cám dỗ, chúng ta chỉ cần lắng nghe lại lời hai người mặc áo trắng của
đoạn Phúc Âm hôm nay nói rằng: “Tại sao các ông còn nhìn trời?”
Việc
cầu nguyện chiêm niệm Kitô không làm cho chúng ta tránh khỏi việc dấn
thân vào trong lịch sử. “Trời”, nơi Chúa Giêsu tiến vào không phải là
một sự xa vắng nhưng như là một màn che khuất và là nơi lưu giữ một sự
hiện diện. Đó là sự hiện diện của Chúa, một sự hiện diện không bao giờ
bỏ rơi chúng ta cho đến khi Chúa trở lại trong vinh quang. Trong khi đó,
thời giờ chúng ta sinh sống đây là thời giờ rất đòi hỏi. Đòi hỏi chúng
ta phải làm chứng bởi vì nhân danh Chúa Kitô, sự ăn năn hối cải và sự
tha thứ tội lỗi phải được rao giảng cho tất cả mọi dân nước. Và chính để
làm sống lại ý thức này mà tôi đã muốn triệu tập hội nghị Hồng Y đặc
biệt được bế mạc hôm nay (thứ Năm 24/05/2001). Các vị Hồng Y, từ các nơi
trên thế giới mà tôi xin kính chào với lòng mộ mến huynh đệ. Các ngài
trong những ngày qua đã hội họp với tôi để bàn về một vài đề tài trong
số những đề tài nổi bật nhất của công việc rao giảng Phúc Âm và làm
chứng Kitô trong thế giới hôm nay, vào khởi đầu Ngàn Năm Mới. Đây, đối
với chúng tôi, là giây phút sống hiệp thông, trong đó chúng tôi cảm
nghiệm được một phần nào của niềm vui đã tràn ngập tâm hồn các tông đồ
ngày xưa, sau khi Chúa Phục Sinh chúc lành cho các ngài và tách rời ra
khỏi các ngài để lên trời. Thật vậy, thánh Luca đã ghi lại rằng: “Sau
khi bái lạy tôn thờ Chúa, các tông đồ trở lại Giêrusalem với niềm vui
lớn lao và các ngài luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.”
Và
tiếp sau trong bài giảng, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã khai
triển thêm bản chất cũng như sinh hoạt truyền giáo của Giáo Hội, và cuộc
hội Hồng Y cũng được Đức cố Giáo Hoàng đặt trong viễn tượng này: “Thực
hiện sự hiệp thông và hiệp nhất trong Giáo Hội, để Giáo Hội có thể rao
giảng Phúc Âm Chúa một cách đáng tin hơn cho mọi anh chị em.”
Trong
thánh lễ Chúa Thăng Thiên và trong giây phút này, Đức cố Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã cho chúng ta biết ý nghĩa của biến cố quan trọng này:
Không phải Chúa lên trời để bỏ chúng ta, mà Ngài bước sang một sự hiện
diện mới với chúng ta trong Chúa Thánh Thần. Ngài luôn ở cùng chúng ta
luôn mãi cho đến tận cùng. Và Ngài muốn mỗi người chúng ta mở rộng tâm
hồn đón nhận hồng ân Thánh Thần của Ngài để làm chứng cho Ngài trong môi
trường chúng ta sinh sống.
Từ
Chúa Nhật này cho tới Chúa Nhật Chúa Thánh Thần hiện xuống, chúng ta
hãy dành thời giờ để nhìn lại cuộc sống của mình, mở rộng tâm hồn đón
nhận Chúa Thánh Thần và sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để
làm chứng cho Chúa đến mức độ nào rồi. “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho
đến tận cùng và các con sẽ làm chứng cho Thầy khắp nơi trên mặt đất
này”.
Xin Chúa gìn giữ chúng ta vững mạnh trong đức tin để chúng ta có thể làm chứng cho Chúa mọi nơi mọi lúc.
Bài 22. ÁI MỘ NHỮNG SỰ TRÊN TRỜI
PM. Cao Huy Hoàng
“Thứ hai thì gẫm: Đức Chúa Giêsu Lên Trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”
Những
sự ở trên trời là những sự gì thì chỉ có người ở trên trời mới biết.
Hồng Phúc thay! Chúa Giêsu, người ở trên trời, xuống thế làm người, rao
giảng cho con người trần gian biết có một cuộc sống mới, có một cuộc
sống thiêng thánh, cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu… cuộc sống ấy ở trong
Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Để có thể tin được rằng: có một cuộc sống
khác với cuộc sống trần gian nầy, và để có thể biết được chuyện ở trên
trời, thì chỉ có con người khiêm cung chấp nhận và vâng phục mạc khải từ
trời, rồi sống mạc khải ấy mới thấu hiểu được.
Chúa Lên Trời, Chúa Thăng Thiên là cách nói diễn tả hình ảnh không gian mà các Tông đồ chứng kiến (Cv 1,9-11).
Thực ra, phải nói là Chúa Giêsu về với Chúa Cha, về với cuộc sống, với
thế giới, nơi Ngài đã xuất phát để đi làm nhiệm vụ cứu thế… Sau khi sống
lại Chúa Giêsu đã nói với bà Maria Madalena việc “về với Cha”,: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17).
Như
vậy các biến cố tử nạn, Phục sinh và về cùng Chúa Cha đã nằm trong
hoạch định ngàn đời của Thiên Chúa, trong đó, Lên Trời hay lên cùng Cha
là đích điểm của Mầu Nhiệm Vượt Qua: Qua tử nạn, đến Phục sinh; qua Phục
sinh ở trần gian, đến việc “Về Với Thiên Chúa Cha” trong đời sống Thiên
Chúa vĩnh cữu. Và không chỉ về với Cha, mà còn tham dự vào quyền năng,
uy quyền của Thiên Chúa Cha trong Nước Ngài. Thánh Phaolô trong thư gửi
giáo đoàn Ephêsô còn xác quyết uy quyền của Chúa Giêsu là vương quyền,
là Vua Vũ Trụ: “Đến thời viên mãn, Thiên Chúa qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô” (Ga 1,10), và là Vua Lịch Sử Cứu độ: “Thiên Chúa đặt tất cả mọi sự dưới chân Đức Kitô và đặt người làm đầu toàn thể Hội Thánh” (Ga 1,22).
Lên
trời là về cùng Chúa Cha và ái mộ những sự ở trên trời, chính là yêu
mến, khát khao cho chính mình cũng được về với Thiên Cha trong vương
quốc Chúa Giêsu. Để hiểu cho thấu mầu nhiệm vượt qua nơi Chúa Giêsu, và
giải thích được như thế, chắc chắn người ấy đã kết hiệp với Chúa Giêsu
cách chí thiết để sống mầu nhiệm vượt qua của chính mình: Được Thiên
Chúa sinh ra trong đời, vượt qua sự ràng buộc, sự nô lệ của tội lỗi nhờ
ơn tái sinh nơi giếng nước rửa tội; vượt qua những rào cản là những hấp
dẫn của “những sự dưới đất”, đồng thời chấp nhận mất mát là tử nạn với
Đức Kitô; vượt qua cuộc tử nạn hằng ngày để phục sinh tại thế nhờ cuộc
sống siêu thoát và kết hiệp; và cuối cùng, chờ ngày vượt qua đời tạm nầy
mà lên trời, mà về cùng Thiên Chúa Cha trong cuộc sống vĩnh cửu.
Thực
tế là một thách đố to lớn đối với đời sống vượt qua của Kitô hữu công
giáo, ở mọi thời, nhất là thời nầy, khi giá trị các sự ở dưới đất nầy
đang nổi loạn đòi chiếm ưu thế trong đời sống các gia đình: tiện nghi
vật chất thẩm định giá trị nhân bản nên phải đua đòi cho bằng chị, bằng
em; người người khôn ra đang thụ hưởng những hiệu quả của một nền văn
minh mà không cần nghĩ đến hậu quả thì ta dại gì mà phải khép mình trong
lời mời gọi của Tin Mừng!
Buổi
sáng thật tĩnh lặng, may ra nếu có, thì cũng chỉ mấy phút trong giờ
kinh nguyện ngắn ngủi, sau đó là chuyện cơm áo gạo tiền làm cho cả ngày
đời phải loay xoay toàn chuyện dưới đất. Thiết nghĩ, Chúa Giêsu biết rõ
cái căn tính phàm phu tục tử trong mỗi con người, nên Ngài đã bàn giao
công cuộc cứu thế vĩ đại của Ngài cho Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ.
Tưởng
là Chúa Thánh Thần không nói gì, làm gì, nhưng Ngài đang nói tất cả, kể
cả đối với những người đang cố quên sự hiện diện của Ngài; Ngài đang
làm tất cả, kể cả đối với những người tránh né sự hướng dẫn, chỉ đạo,
hay sự can thiệp tài tình của Ngài. Ngài soi sáng cho chúng ta việc “phải làm”. Ngài không soi sáng cho chúng ta việc “thích làm”.
Cho dù có đôi khi ta vẫn đọc kinh “cúi xin Chúa sáng soi” trước những
công việc ta thích làm cho danh ta cả sáng, hoặc cho “những sự dưới đất”
được thành công, thì Chúa Thánh thần khôn ngoan vẫn dẫn dắt chúng ta
nhận ra khuôn mặt thật của sự dối trá trong lòng mình. Nhờ Ngài, mà thực
tế thách đố kia không còn đáng lo ngại nữa, và đời sống tín hữu thật sự
cảm nghiệm được ơn Ngài tác động-sáng soi hướng dẫn đời mình hướng về
“những sự trên trời”, “ái mộ những sự trên trời”, chắc ăn hơn.
Và chỉ khi nào thực sự “ái mộ những sự ở trên trời”, thì có thể nói, chúng ta mới thực hiện nỗi lời di chúc của Chúa Giêsu : “Thầy
đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền
cho anh em. Và đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt
28,18-20)
Đây
không phải là lời di chúc để thừa hưởng một quyền bính, nhưng là một
chuyển giao đặc nhiệm quan trọng trong chương trình của Thiên Chúa Cha:
qui tụ mọi loài dưới quyền thủ lảnh của Chúa Giêsu Kitô, để mọi loài
chung hưởng Tình Yêu vô biên và ơn cứu chuộc vĩ đại hơn tội lỗi con
người. Nhiệm vụ đặc biệt ấy không chỉ trao ban cho các tông đồ, mà còn
cho tất cả chúng ta hôm nay: Giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho mọi người để
họ đón nhận chính Ngài qua bí tích rửa tội và dạy họ tuân giữ mọi điều
răn của Ngài để được về với nguồn cội yêu thương và hạnh phúc vĩnh cửu
là Thiên Chúa. “Dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” đồng
nghĩa với việc anh em tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền để họ thấy mà
ngợi khen Cha ở trên trời, vì gương sáng là lời giảng dạy tốt nhất.
Thực
vậy, thời đại nầy người ta không tin người rao giảng, người ta có thể
tin người sống lời rao giảng của mình. Vì thế, đòi hỏi tinh thần thoát
tục và gương sống “ái mộ những sự trên trời” đối với những chứng nhân trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Và không nên trách cứ ai, nếu họ dựa vào tiêu chuẩn “dính bén với các sự dưới đất” mà đánh giá cao thấp giá trị của người tông đồ Chúa hôm nay.
Có
thể nói việc “dính bén với các sự dưới đất” của một chứng nhân gây nên
việc phản tác dụng truyền giáo cách nguy hiểm, vì không những làm cho
người ta không tin vào cuộc sống mới trong Nước Thiên Chúa, mà còn là
cái cớ để người ta tin vào cuộc sống hiện tại này hạnh phúc hơn: cứ lao
mình vào những chuyện dưới đất, như người rao giảng chuyện trên trời đã
lao. Ôi thật nguy hiểm và thiệt hại cho công cuộc của Chúa Giêsu nếu
chúng ta không sống tinh thần của Ngài trước khi loan báo Ngài cho mọi
người.
Mừng
Chúa Giêsu Lên Trời, một cơ hội cho mỗi tín hữu tự kiểm lại lòng yêu
mến Chúa trên hết mọi sự, tự kiểm lại lòng khát khao với cuộc sống vĩnh
cửu đời sau, tự kiểm lại mức độ dính bén với các sự dưới đất, và nhất là
tự kiểm lại hiệu quả làm chứng cho Chúa Giêsu, cho Nước Thiên Chúa của
mình trong cuộc đời.
Mẹ
Maria chắc chắn là mẫu gương “ái mộ những sự trên trời” hơn cả và loài
người chúng con. Mẹ cũng là mẫu gương “chứng nhân Chúa Kitô” thật sống
động vì lòng Mẹ luôn hướng về Nước của Thiên Chúa. Xin Mẹ cầu thay
nguyện giúp cho chúng con sống mầu nhiệm vượt qua của đời mình, nhờ kết
hiệp với cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, noi gương Mẹ chí thánh -cho chúng
con xứng đáng hưởng hạnh phúc trong Vương Quốc của Chúa Giêsu, con chí
ái của Mẹ- cho cuộc sống chúng con thực sự trở nên lời rao giảng Thiên
Chúa cho mọi người. A-men.
Bài 23. LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY
Lm. Đan Vinh
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 28,16-20:
2. Ý CHÍNH:
Sau
khi sống lại, Chúa Giê-su đã hiện ra nhiều lần để chứng minh cho
các môn đệ thấy Người đã thực sự từ cõi chết sống lại. Nhưng
lần này trước khi về trời, Đức Giê-su hiện ra lần cuối với
Nhóm Mười Một trên một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Người không
chứng minh Người đã sống lại như các lần trước, nhưng trao sứ
mạng rao giảng Tin Mừng phổ quát cho Hội Thánh qua Nhóm Mười
Một môn đệ như sau: “Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, làm
phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần”. Người cũng truyền cho các ông tiếp tục dạy cho các tín
hữu phải tuân giữ các huấn luyện của Người và hứa sẽ ở cùng
các ông mọi ngày cho đến tận thế.
3. CHÚ THÍCH:
- C 16-17: +Mười một môn đệ: Nhóm Mười Hai lúc này đã bị mất Giu-đa phản bội, nên chỉ còn mười một người (x. Mt 10,1-4; 27,5). + Đi tới miền Ga-li-lê:
Vâng lời dạy của thiên thần nhắn cho các môn đệ qua hai phụ nữ
và sau đó Chúa Phục Sinh cũng nhắc lại lệnh truyền này khi hiện
ra với hai bà này vào sáng sớm Ngày Thứ Nhất trong tuần (x. Mt
28,7.10). Ga-li-lê là trung tâm truyền giáo của Đức Giê-su trong
thời gian Người đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời. + Đến ngọn núi: Tin
Mừng không xác định là núi nào. Còn sách Công Vụ Tông Đồ cho
biết là núi Ô-liu (x. Cv 1,12). Núi tượng trưng nơi Thiên Chúa
mặc khải cho các ngôn sứ thời Cựu Ước (x. Xh 3,1-5; 19,20; 1 V
19,8-14). Trong Tin Mừng Mát-thêu, nhiều lần Đức Giê-su cũng mặc
khải những điều quan trọng trên núi. Chẳng hạn: Công bố Tám
Mối Phúc Thật trên một quả núi (x. Mt 5,1), biến hình trước
mặt ba môn đệ trên núi cao (x. Mt 17,1); ra lệnh cho các môn đệ đi
rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc trên một ngọn núi (x. Mt
28,16). (17) + Khi thấy Người, các ông bái lạy:
Các môn đệ thấy Chúa Giê-su Phục Sinh và biểu lộ niềm tin
bằng việc sấp mình bái lạy Người. Hành động này tương tự như
các đạo sĩ đã sấp mình bái lạy Hài Nhi Cứu Thế (x. Mt
2,2.8.11); Người phong cùi bái lạy xin Đức Giê-su chữa lành (x.
Mt 14,33); Người đàn bà xứ Ca-na-an bái lạy xin Đức Giê-su chữa
cho con gái bà khỏi bị quỷ ám (x. Mt 15,25). + Có mấy ông lại hoài nghi:
Nói đến có môn đệ còn hoài nghi sau khi các ông đã bái lạy
Chúa xem ra bất nhất và khó hiểu. Thực ra, lúc này khi từ giã
Chúa Giê-su sắp về trời thì mọi môn đệ đều đã tin, và không ai
còn hoài nghi gì nữa. Nhưng các trình thuật Tin Mừng hiện ra
khác đều nói đến sự nghi ngờ, và đều được Người đánh tan sự
nghi ngờ ấy. Riêng Tin mừng Mát-thêu ghi nhận sự kiện môn đệ hoài nghi
vào thời điểm này và cũng đã được Chúa Giê-su đánh tan khi cho các ông
biết Người đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất
(x. Mt 28,18). Theo một số tác giả thì sự hoài nghi ở đây nhắm đến
sự hoài nghi của cộng đoàn nói chung, vì từ đây các tín hữu
sẽ không còn thấy Chúa Phục Sinh hiện ra nữa. Sự hoài nghi này
sẽ được Lời Chúa đánh tan. Do đó, các tín hữu cần dựa vào
Lời Chúa để củng cố đức tin hầu được chúc phúc như Chúa Phục Sinh
đã nói với Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga
20,29).
- C 18-19: + Đức Giê-su đến gần:
Đến gần là hành động ưu ái đặc biệt, lấp đầy khoảng cách
giữa thiên quốc và trần gian mà chỉ Đức Giê-su Phục Sinh mới
làm được. + Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất:
Lúc khởi đầu việc rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã từ chối
nhận quyền do ma quỷ hứa ban cho Người trên mọi nước thế gian (x.
Mt 4,8-10), thì giờ đây, sau khi đã vâng phục thánh ý Chúa Cha
để đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang”, Người đã được Chúa
Cha ban mọi quyền năng trên trời dưới đất, để ứng nghiệm lời
tuyên sấm trong sách Đa-ni-en về Con Người: “Người được ban tặng
quyền bính, vinh dự, vương triều. Tất cả các dân các nước và
các tiếng nói đều phải phụng sự Người” (Đn 7,14), và quyền
bính của Người còn bao trùm cả trời đất (x. Cv 13,33). + Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ:
Các môn đệ đại diện Hội Thánh nhận bài sai của Chúa Giê-su
để đi chinh phục thế giới. Từ nay Hội Thánh phải nhân danh Chúa
Giê-su mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người, trước
tiên là những người Do thái (x. Mt 10,5-6; 15,24), rồi đến mọi
dân trên thế giới (x. Mt 8,11; 21,41). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Làm
cho người ta trở thành môn đệ Chúa Ki-tô gồm cả việc rao giảng
Tin Mừng. Để chu toàn việc này, các môn đệ phải cho họ lãnh
nhận phép rửa nhân danh Chúa Ba Ngôi, nghĩa là đặt người dự
tòng trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa là Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần.
- C 20: + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền:
Việc đào tạo người ta nên môn đệ Chúa phải được tiếp tục sau
phép rửa qua lời giảng dạy, cho tới khi Hội thánh đạt tới sự
viên mãn của Đức Ki-tô (x. Ep 1,23). Vì thế các Tông đồ phải
hướng dẫn muôn dân tuân giữ các giới răn của Chúa. Dân của Giao
Ước Mới phải sống theo Luật Mới do Chúa Giê-su công bố mà các
Tông đồ phải truyền đạt. + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế:
Chúa Ki-tô Phục Sinh hứa sẽ hiện diện mãi trong Hội Thánh để
hỗ trợ, giúp Hội Thánh chu toàn sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho
đến tận thế. Vì Người chính là Em-ma-nu-en, nghĩa là “Thiên
Chúa ở cùng chúng ta” (x. Mt 1,23).
4. CÂU HỎI:
1)
Tại sao chỉ còn Mười Một môn đệ có mặt khi Chúa lên trời? 2)
Tại sao các môn đệ lại họp mặt tại miền Ga-li-lê? 3) Chúa lên
trời trên núi nào? 4) Tại sao các môn đệ bái lạy Đức Giê-su khi
Người xuất hiện? 5) Tại sao Tin Mừng nhắc đến thái độ hoài
nghi của các môn đệ vào lúc này? 6) Tại sao trước khi lên trời Chúa
Giê-su tuyên bố mình được trao toàn quyền trên trời dưới đất?
HỎI
7) Mệnh lệnh thâu nạp môn đồ khắp muôn dân cũng như công thức
rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi chính xác đến mức độ nào, đang
khi sách Công Vụ Tông Đồ lại cho biết Hội Thánh sơ khai dùng công
thức rửa tội “nhân danh Chúa Giê-su” (x. Cv 2,38; 10,48)?
ĐÁP 7):
Thực ra, mệnh lệnh rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc và việc
nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần
trong đoạn Tin Mừng Mát-thêu nói trên bắt nguồn tư Chúa Giê-su. Tuy
nhiên việc mở rộng sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho mọi dân tộc đã dần
dần được sáng tỏ do tác động của Chúa Thánh Thần (x. Cv 11,15-18).
Sau một thời gian sống và rao giảng Tin Mừng, Hội Thánh do kinh
nghiệm thực tế đã dần dần hiểu biết trọn vẹn lệnh truyền của Chúa
Giê-su và đưa công thức rửa tội nhân danh Ba Ngôi là Chúa Cha,
Chúa Con và Chúa Thánh Thần vào phụng vụ phép rửa. Đến khi biên
soạn Tin Mừng thứ nhất (khoảng thập niên 80-90), Mát-thêu được Thánh
Thần linh hứng, đã đưa mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi vào lệnh truyền rửa
tội của Chúa Giê-su cho các môn đệ trước khi lên trời (x. Mt
28,19).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm
phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt
28,18b-20).
2. CÂU CHUYỆN:
1) DÙNG LỜI NÓI ĐỂ LÀM CHỨNG CHO CHÚA:
JUNE
là một bé gái 5 tuổi có khuôn mặt đẹp như thiên thần và rất
lanh lợi. Cha mẹ em đều là nhà giáo có lòng đạo đức. Mẹ
thường đem em đi theo mỗi khi bà có việc phải đi ra ngoài. Một
hôm, hai mẹ con dắt nhau vào trong bưu điện thành phố. Đang lúc
bà mẹ lo gửi thư bảo đảm cho một người thân, thì bé June chạy
chơi loanh quanh gần đó quan sát người ta làm việc. Bấy giờ một
ông lão ngồi gần đó thấy bé gái kháu khỉnh dễ thương, liền
bắt chuyện làm quen như sau: “Này cháu bé. Cháu có mái tóc đẹp
lắm ! Mà tại sao mái tóc của cháu lại đẹp đến thế nhỉ ?” Cô bé
liền vui vẻ trả lời: “Thưa ông, mẹ cháu dạy rằng: Chính Thiên
Chúa đã ban mọi sự tốt đẹp cho cháu và cháu phải biết tạ ơn
Người nhiều lắm đó !” Nói xong em nhìn thẳng vào mặt ông lão,
nhoẻn một nụ cười thật dễ thương và hỏi: “Thế ông đã được
Chúa ban cho điều gì tốt đẹp chưa ? Ông có đươc Chúa ban ơn cứu
độ không ?”. Ông lão kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ
của cô bé. Ông ngẩn người suy nghĩ giây lát về tình trạng của mình
rồi đáp: “Chưa đâu, cháu ạ”. Em bé liền nói: “Thế thì ông
phải cầu xin Chúa ban ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông trở thành con
của Chúa, và ông sẽ được Chúa biến đổi nên một người mới rất
xinh đẹp đó !” Nói xong, bé vội chạy về phía mẹ đang vẫy gọi
ở lối đi bên kia. Ít tuần sau, ông lão tìm đến một nhà thờ xin
học giáo lý dự tòng. Về sau ông cho biết: chính câu nói đơn sơ
của cô bé hôm ấy đã đánh động tâm hồn vốn chai lì của ông,
và luôn ám ảnh khiến ông không thể quên được. Cuối cùng ông đã
quyết định phải theo đạo để được trở nên con của Thiên Chúa và
được biến đổi nên tốt đẹp như em đã nói.
Câu
nói của một bé gái tuy đơn sơ nhưng đã có sức mạnh khiến một
người già cứng lòng phải suy nghĩ và quay trở về với Chúa.
Còn chúng ta thì sao ? Chúng ta có dám biểu lộ đức tin trước
mặt người khác không ? Có dám nói về Chúa cho những người chưa
nhận biết Chúa để họ tin Chúa và đi theo làm môn đệ Người hay
không ?
2) LÚC CẤP BÁCH CẦN TRUYỀN ĐẠT ĐỨC TIN CÁCH CỤ THỂ:
Trong
tác phẩm “Hương rượu mới”, tác giả thuật lại về giờ phút
cuối cùng của cha mình như sau: Bấy giờ cha tôi đang hấp hối
trên giường bệnh. Trong khi tôi chỉ biết ngồi nhìn cha với tâm
trạng chán nản thất vọng, thì một nữ tu Công giáo với dáng
người nhỏ nhắn đã bước vào phòng. Chị đi vòng qua bên kia
giường cha tôi đang nằm, cầm lấy tay ông đưa lên vỗ nhè nhẹ. Sau
đó chị hỏi: “Bác có nghe cháu nói không ?” Ông cụ gật đầu.
Đoạn chị nói với ông: “Trước đây bác đã tin Chúa Giê-su là
Đấng Cứu Thế chưa ?” Ông cụ lắc đầu. Chị nữ tu liền nói: “Bây
giờ bác có muốn tin Chúa không ?” Ông cụ đáp: “Dạ có”. Thế là
chị yêu cầu ông lặp lại theo mình: “Lạy Chúa Giê-su, con tin
nhận Chúa là Đấng Cứu Thế của con. Xin Chúa ban cho con được
làm môn đệ Chúa và được ơn tái sinh làm con Thiên Chúa trên
trời. Lạy Chúa Giê-su, xin đón nhận linh hồn con”. Ông cụ lặp lại
theo từng câu và sau đó từ từ nhắm mắt qua đời.
3. SUY NIỆM:
1) THẾ NÀO LÀ LÀM CHỨNG CHO CHÚA ?
Làm
chứng cho Chúa là giới thiệu Đức Giê-su cho người khác. Muốn giới
thiệu Đức Giê-su thì trước hết là phải làm cho đức tin nơi mình được lớn
lên nhờ năng tham dự các buổi hiệp sống Tin Mừng với cộng đoàn hằng
tuần, năng đến nhà thờ dự thánh lễ và rước lễ sốt sắng để được kết hiệp
với Chúa, năng cầu nguyện bằng lời nguyện tắt…
Mỗi
tín hữu đã chịu phép Thêm Sức đều đón nhận được ơn Chúa Thánh Thần để
nên trưởng thành về đức tin và chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa
Giê-su theo lệnh Chúa truyền trước khi về trời: “Anh em hãy đi và làm
cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Cụ thể chúng ta
cần loan báo Tin Mừng cho những người chưa biết Chúa, bắt đầu từ những
người thân như: chồng vợ, con cái, cha mẹ, anh chị em… Rồi đến những
người cùng xóm ngõ, bạn bè, đồng nghiệp … Sau cùng là mọi người nhất là
những người bất hạnh, các bệnh nhân, đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa…
2) PHƯƠNG CÁCH TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG CỦA ĐỨC GIÊ-SU:
Khi
ra giảng đạo, Đức Giê-su đã nhận sứ mạng Thiên Sai từ nơi Chúa Cha khi
được Chúa Cha giới thiệu là “Con yêu dấu luôn làm đẹp lòng Cha” (x. Mt
3,17) và truyền dạy các môn đệ “Hãy vâng nghe lời Người” (x. Mt 17,5).
Người
đã thực thi sứ mạng Thiên Sai ấy nhờ kết hiệp với Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần: Được Thần Khí dẫn vào hoang địa để chịu ma quỷ cám dỗ (x. Mt
4,1); Nêu gương cầu nguyện trước khi chọn mười hai Tông đồ (x. Lc
6,12-16). Hằng ngày đi cầu nguyện với Chúa Cha ngay từ sáng tinh sương
(x. Mc 1,35).
Người
nêu gương khó nghèo “Con Người không có chỗ dựa đầu” (Mt 8,20), ăn ở
“hiền hậu và khiêm nhường” (x. Mt 11,29), nêu gương hầu hạ rửa chân môn
đệ trước khi dạy bài học yêu thương phục vụ lẫn nhau (x. Ga 13,12-15),
và chỉ thị cho các môn đệ cách ứng xử khiêm tôn yêu thương phục vụ khi
sai các ông đi thực tập truyền giáo (x. Mt 10,5-42).
Người
giảng dạy Tin Mừng trong các hội đường Do thái (x. Mt 13,54), giữa cánh
rừng vắng (x. Mt 14,13), ở ven biển hồ (x. Mt 13,1), vừa đi đường vừa
giảng như tại Giê-ri-cô (x. Lc 19,1-6), giảng trong bữa tiệc (x. Lc
5,29-32). Người giảng trong các thành thị làng mạc trên đường lên
Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,22), và tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem (x. Ga
10,22-30)…
Người
trình bày giáo lý bằng những ví dụ cụ thể thường ngày là các dụ ngôn để
diễn tả các mầu nhiệm cao siêu về Nước Trời (x. Mt 13,3-52). Người
giảng dạy như Đấng có thẩm quyền (x. Mt 7,29).
Người
rao giảng Tin Mừng Nước Trời kèm theo việc làm phép lạ cứu nhân độ thế
như: xua trừ ma quỷ và chữa lành các bệnh hoạn tật nguyện trong dân (x.
Mc 1,21-22.32-34), quan tâm đáp ứng nhu cầu tinh thần và thể xác của dân
chúng và đòi môn đệ cộng tác vào phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mt
14,15-18).
Nhờ
rao giảng theo phương cách bác ái cụ thể như vậy mà Đức Giê-su đã được
dân chúng tin theo rất đông, thể hiện ra khi Người khải hoàn vào
Giê-ru-sa-lem (x. Mt 21,10-11).
3) PHƯƠNG CÁCH HỮU HIỆU LÀM CHỨNG CHO CHÚA HÔM NAY:
Ngày
nay để làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu, mỗi tín hữu cũng cần học tập
phương cách truyền giáo của Đức Giê-su. Cụ thể làm những việc như sau:
- Cầu nguyện để xin ơn trợ giúp: Muốn làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu trước hết phải cầu nguyện
như lời Đức Giê-su dạy: “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít. Vậy anh
em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Lc 10,2). Phải cầu nguyện
xin ơn Chúa giúp vì đây là việc làm vượt khả năng tự nhiên giới hạn của
chúng ta, như lời Chúa Giê-su đã nói trong diễn từ giã biệt: “Vì không
có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
- Nêu gương sống tốt lành thánh thiện: chúng ta còn phải tỏa hương thơm nhân đức, có thái độ ứng xử hiền hòa nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân, biết quên mình để nghĩ đến người khác, khiêm tốn phục vụ người nghèo như phục vụ chính Chúa Giê-su. Nhất
là các vị chủ chăn cần ý thức mình là hiện thân của Đức Giê-su trước
mặt lương dân, nên cần noi gương hiền hậu bao dung và khiêm tôn phục vụ
khi làm các thủ tục về hôn phối giữa tín hữu đạo gốc với tân tòng hay
phép chuẩn khác đạo, hoặc trong thánh lễ có người lương tham dự… Chính
thái độ bao dung nhân hậu và thánh thiện thanh thoát của các vị mục tử
sẽ gây ấn tượng tốt và giúp người lương hiểu đúng về đạo công giáo và dễ
tin theo Chúa sau này.
- Quảng bá văn hóa đức tin công giáo:
Làm chứng cho Chúa bằng phương tiện truyền thông xã hội như lập nhiều
website Công Giáo nội dung phong phú và có uy tín, xuất bản các sách
truyện tranh Kinh thánh, truyện các thánh, sách hộ giáo nghắn gọn dễ
hiểu để giải tỏa các thắc mắc về đức tin, luân lý công giáo… Trao tặng các cỗ tràng hạt
kèm theo sách hướng dẫn lần hạt Mân côi kèm theo Lời Chúa và lời cầu
trước mỗi mầu nhiệm Vui Sáng Thương Mừng khi lầm hạt mân côi…
- Chủ động đi bước trước đến với tha nhân:
Mỗi người cần làm chứng cho Chúa bằng việc chủ động mỉm cười làm quen
với người mới gặp, lắng nghe những người đau khố tâm sự hoàn cảnh để cảm
thông và khôn ngoan đáp ứng theo khả năng giới hạn của mình… Chọn một
người chưa biết Chúa, một gia đình lương mình quen biết để cầu nguyện
cho họ …
- Lời rao giảng phải đi đôi với việc bác ái cụ thể: Ngoài việc làm chứng cho Chúa bằng việc trình bày về Chúa,
Hội thánh ngày nay còn chú trọng làm việc bác ái cụ thể như: Cứu trợ
thiên tai lũ lụt, mở cô nhi viện, nhà nuôi người già, giúp người khuyết
tật, mở lớp học tình thương, mở các đợt khám bệnh và phát thuốc miễn phí
cho người nghèo vùng sâu vùng xa, mở bữa ăn miễn phí cho người hành
khất hay quán cơm phục vụ giá rẻ cho người lao động v.v… Ngoài ra về mặt
xã hội, Hội Thánh cũng khuyến khích các tín hữu tích cực tham gia làm
công tác xã hội với các người thiện chí như: Dọn vệ sinh môi trường,
phòng chống dịch bệnh, hiến máu nhân đạo để cứu người bị tai nạn, góp
phần đẩy lùi và loại trừ các tệ nạn xã hội như cờ bạc, hút chích sì-ke,
đĩ điếm, say xỉn ra khỏi khu vực…
TÓM LẠI:
Nhờ các việc bác ái cụ thể được thực hiện trong sự khiêm tốn yêu thương
vô vụ lợi, mà Tin Mừng Nước Trời sẽ tỏa sáng, giúp cho nhiều anh em
lương dân nhận biết chúng ta thực là môn đẹ Chúa Giê-su và tôn vinh
Thiên Chúa Cha chúng ta ở trên trời như lời Đức Giê-su: “Ánh sáng của
anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc
tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt
5,16).
4.
THẢO LUẬN: 1) Theo bạn, các công tác bác ái từ thiện noi gương Đức
Giê-su như: chia sẻ cơm áo gạo tiền cho những người nghèo đói bệnh tật…
có hữu hiệu trong xã hội hiện nay không? Tai sao? 2) Bạn có kinh nghiệm
nào để giới thiêu Chúa cách hữu hiệu cho người bên cạnh trong một
chuyến đi xa, hay một bệnh nhân nằm chung phòng tại bệnh viện…?
5. NGUYỆN CẦU:
-
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng con mừng lễ
Chúa về trời. Trời đích thực là quê hương của chúng con, là
nơi chúng con luôn hướng về. Tuy nhiên, trong bài Sách Thánh hôm
nay, thiên thần lại nói với các môn đệ: “Hỡi những người
Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn lên trời ? Đức Giê-su, Đấng vừa lìa
bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các
ông đã thấy Người lên trời” (Cv 1,11). Qua đó, Chúa muốn dạy
rằng: điều quan trọng nhất các ông phải làm bây giờ là tiếp
tục công trình cứu độ của Chúa Giê-su, bằng việc loan Tin Mừng
“bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri
và cho đến tận cùng trái đất”. Làm chứng trước hết bằng sự
rao giảng Tin Mừng Nước Trời với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Nhưng chúng con cũng có thể làm chứng bằng những hành động
bác ái yêu thương, bằng sự khiêm nhường phục vụ, bằng việc
quảng đại cho đi, bằng việc hy sinh bản thân vì lòng mến Chúa
và yêu tha nhân… Xin giúp chúng con chu tòan sứ mạng ấy trong
cuộc sống đời thường của chúng con.
-
LẠY CHÚA. Chúng con thường hay cho tằng: “Tôi phải lo cái ăn cái
mặc cho bản thân và gia đình tôi trước đã ! Tôi không có khả
năng trình bày về Chúa cho người khác ! Tôi không có thì giờ …”
Đang khi Chúa dạy chúng con: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên
Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia,
Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Vậy xin Chúa giúp chúng con hôm nay
đừng quá lo cơm áo vật chất cho bản thân hay gia đình, nhưng phải
biết lo việc của Chúa và phó thác mọi sự trong tay Chúa quan
phòng. Xin Chúa giúp chúng con biết làm lợi gấp năm gấp mười
nén vàng đức tin mà Chúa đã ban cho chúng con, để nhờ đó chúng
con hy vọng sẽ được Chúa thương xét xử khoan dung và nói với chúng con:
“Hỡi người đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Hãy vào hưởng
niềm vui của chủ anh !” (Mt 25,21).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.