BẢN VĂN
Bài đọc I (Ed 33,7-9)
7
Phần ngươi, hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà
Ít-ra-en. Ngươi sẽ nghe lời từ miệng Ta phán ra, rồi thay Ta báo cho
chúng biết. 8 Nếu Ta phán với kẻ gian ác rằng: “Hỡi tên gian
ác, chắc chắn ngươi phải chết”, mà ngươi không chịu nói để cảnh cáo nó
từ bỏ con đường xấu xa, thì chính kẻ gian ác ấy sẽ phải chết vì tội của
nó, nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó. 9 Ngược lại, nếu
ngươi đã báo cho kẻ gian ác phải từ bỏ con đường của nó mà trở lại,
nhưng nó không trở lại, thì nó sẽ phải chết vì tội của nó; còn ngươi,
ngươi sẽ cứu được mạng sống mình.
Bài đọc II (Rm 13,8-10)
8 Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật 9
Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được
giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều
răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình. 10 Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy.
Tin Mừng (Mt 18,15-20)
15
“Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một
mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục
được người anh em. 16 Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem
theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ
vào lời hai hoặc ba chứng nhân. 17 Nếu nó không nghe họ, thì
hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể
nó như một người ngoại hay một người thu thuế.
18
“Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên
trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì,
trên trời cũng tháo cởi như vậy.
19
“Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp
lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban
cho. 20 Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”
CHÚ GIẢI VÀ GỢI Ý SUY NIỆM
Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long, ofm: Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô
1. Ngữ cảnh
Với ch. 18 của TM Mt,
chúng ta đi vào Bài Diễn từ thứ tư, đề cập đến đời sống huynh đệ trong
lòng Hội Thánh, cộng đoàn Kitô hữu. Bài Diễn từ được chia thành hai phân
đoạn, phân đoạn thứ nhất đề cập đến “những kẻ bé mọn” (18,1-14) và phân
đoạn thứ hai liên hệ đến “người anh em phạm tội” (18,15-35). Mỗi phân
đoạn kết thúc với một dụ ngôn: con chiên lạc (18,12-14), và ông vua và
người đầy tớ (18,21-35).
Sau đây là bố cục chung cho cả bài Diễn từ:
I. Mối quan tâm đến những kẻ bé mọn (18,1-14):
A. Người lớn và kẻ bé mọn (cc. 1-5),
B. Đừng khinh những kẻ bé mọn (cc. 6-10),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Quan tâm đến những kẻ lầm đường lạc lối (cc. 12-14)
II. Kỷ luật và Tha thứ (18,15-35):
A. Kỷ luật của Giáo Hội và sự hiện diện của Đức Kitô (cc. 15-20),
B. Tha thứ không giới hạn (cc. 21-22),
C. Kết luận bằng Dụ ngôn: Tha thứ như một sự biết ơn (cc. 23-35).
2. Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Kỷ luật của Giáo Hội (18,15-17);
2) Cầm buộc và tháo cởi (18,18);
3) Sự hiện diện của Đức Kitô (18,19-20).
3. Vài điểm chú giải
- Người anh em (15): Từ ngữ adelphos
này nói về những người có liên hệ huyết thống trong mộtgia đình, nhưng
cũng để gọi những người có tương quan với nhau trong mộtcộng đoàn thiêng
liêng. Cũng như các “con cái Israel” thuộc về cùng một“nhà”, các môn đệ
Đức Kitô, được quy tụ nhân danh Người, làm thành một “nhà thiêng liêng”
(x. 1 Pr 2,5).
- phạm tội (15): TM Mt chưa bao giờ xác định rõ “phạm tội” ([h]amartanô) có nghĩa là gì. Dựa vào ngữ cảnh, một đàng độc giả liên kết động từ này với động từ “làm cớ cho sa ngã” (skandalizô;
cc. 6.8-9), thì hiểu tội là một cái gì nghiêm trọng. Đàng khác, khi
liên kết với truyện con chiên lạc, độc giả biết là tội có thể được tha
thứ. Bản văn ở đây nói riêng đến tội của “người anh em”.
- sửa lỗi nó, một mình anh với nó (15): Đây không phải là mộtlời khuyên mới do sáng kiến của Đức Giêsu. Đọc Lêvi
19,17, chúng ta ghi nhận một quy định tương tự (“Ngươi không được để
lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách người đồng bào,
như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó”). Phái Êxêni ở Qumrân cũng có
những lời dạy tương tự (Thủ bản kỷ luật 5,25 truyền: “Không ai
được nói với anh em với sự giận dữ hoặc hiềm khích hoặc trịch thượng
hoặc với trái tim cứng rắn hoặc tâm trí gian tà”. Xem thêm Văn kiện Đamát 9,2-8).
- chinh phục (15): Động từ kerdainô
có nghĩa là “thủ đắc được, chiếm được” vật gì. Thường các bản văn Hy
Lạp và Kinh Thánh không dùng cho nghĩa bóng là “chinh phục một con
người”. Thế nhưng động từ này được dùng hai lần khi nói về sứ mạng của
Hội Thánh sơ khai (1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1).
- không nghe (17): Động từ parakouô
có nghĩa là “nghe những gì không nhắm cho tai họ; nghe không đầy đủ;
nghe không đúng đắn”, nên cũng có nghĩa là “không nghe; không vâng lời”.
- một người ngoại … một người thu thuế (17):
Ở đây, hai hạng người được nêu ra với giọng miệt thị dưới cái nhìn
thông thường, để làm biểu tượng cho những người ngoan cố, không có tinh
thần phục thiện.
4. Ý nghĩa của bản văn
Đức
Giêsu không coi cộng đoàn các môn đệ như mộthiệp hội các cá nhân, trong
đó mỗi người có thể làm bất cứ điều gì mình muốn và chẳng có ai quan
tâm đến ai cả. Người đã dạy rõ ràng đâu là cách xử sự bắt buộc đối với
những ai đang bước theo Người. Bắt buộc bởi vì cần thiết để vào được
Nước Trời (x. Mt 5,20; 7,21). Trong cộng đoàn các tín hữu, mọi
người đều được liên kết vào các quy tắc chung này và mọi người phải cảm
thấy mình có trách nhiệm về việc không được để mộtai bị hư mất. Khởi đi
từ mối quan tâm huynh đệ này, là mộthình thái cốt yếu của tình yêu đối
với người thân cận tùy thuộc ý muốn của Thiên Chúa, có thể là cần phải
nhắc đến đòi buộc quan tâm đến mộtngười anh em lầm lạc và mời người ấy
hoán cải.
Đi
trước các lời dạy về cách chăm sóc mộtngười anh em có lỗi là mộtđoạn
cho thấy sự quan tâm vô giới hạn của Thiên Chúa đối với mỗi mộttín hữu,
cho dù nhỏ bé nhất và không đáng kể gì (18,10-14). Mỗi con người có
mộtgiá trị vô song, bởi vì họ luôn luôn hiện diện trước mặt Ngài. Không
mộtai bị Thiên Chúa quên lãng mộtlúc nào cả; tình yêu cũng như sự trợ
giúp của Ngài không hề phai nhạt đi.
* Kỷ luật của Giáo Hội (15-17)
Vấn đề là người anh em “phạm tội” (ho adelphos hamartêsê).
“Tội” là một điều có tính trầm trọng, nhưng cũng là điều có thể được
tha thứ. Những người có thể lấy sáng kiến can thiệp không phải là vì họ
có trách nhiệm chính thức về cách thức mà các thành viên của Hội Thánh
theo mà cư xử, nhưng bởi vì họ bị trực tiếp liên lụy đến do tội của
người anh em (“đối với anh; chống lại anh”, eis se). Tuy thế,
“tội” mà một thành viên phạm đối với một thành viên khác không phải là
vấn đề riêng tư, không can dự gì đến Hội Thánh. Có một xác tín trong
Kinh Thánh, trong Do Thái giáo và Kitô giáo là mỗi một tội đều ảnh hưởng
đến toàn thể Hội Thánh.
Về
mối quan tâm đến người anh em, phải nói là có nhiều cấp độ; nhưng dù ở
cấp độ nào, sự quan tâm này cũng phải kín đáo, kiên nhẫn và thanh thoát
khỏi mọi kiểu nhìn cá nhân riêng tư. Cách tốt nhất hẳn là tránh mọi cớ
vấp phạm, bằng cách dàn xếp công chuyện giữa hai người: không có người
chứng, người anh em có tội không bị ngượng ngùng. Vấn đề không phải là
đề cập đến những thiếu sót của kẻ khác, nhưng là liên hệ với người đã
sai lầm, để “tranh thủ” người ấy. Vậy, ở đây không được nóng giận (x. Lv 19,17). Câu Lv 19,17 đi trước điều răn về tình yêu đối với người thân cận ở Lv
19,18, để nói rằng việc khuyến cáo một người anh em Israel phải là cách
diễn tả tình yêu đối với người thân cận và tình liên đới bên trong lòng
Dân Thiên Chúa. Cách làm này có thể đạt một kết quả tích cực: “chinh
phục (ekerdêsas) được người anh em” (x. 1 Cr 9,19-22; 1 Pr 3,1). Hẳn đây là đưa người anh em về lại với Dân Thiên Chúa hay với Hội Thánh.
Cấp
độ tiếp theo tiên liệu có nhiều người khác can thiệp vào, khi việc đối
thoại riêng tư không đạt kết quả (c. 16). Họ phải thuyết phục người có
lỗi về sự thiếu sót đã xảy ra. Bằng cách đó, những người này cho thấy rõ
ràng là lời nhắc nhở của người đầu tiên không phải chỉ là cái nhìn
riêng tư cá nhân, nhưng cũng được các anh em khác chia sẻ. Như thế, càng
rõ là cả người lầm lạc cũng như người nhắc nhở đều không được phán đoán
theo các tiêu chuẩn chủ quan. Cả hai đều được tháp vào cộng đoàn các
tín hữu, nên cả hai đều được liên kết vào những quy tắc mà Đức Giêsu đã
ban cho cộng đoàn.
Tính
cách cộng đoàn của đời sống Kitô hữu này và của các quy tắc của cộng
đoàn càng hiển nhiên hơn nữa ở cấp độ thứ ba (c. 17). Nếu vụ việc không
thể làm sáng tỏ giữa vòng ít người, “nếu nó không nghe (parakousê) họ”, thì phải đưa ra trước Giáo Hội (ekklêsia).
Đây là cộng đoàn Kitô hữu địa phương, trong tư cách không tách biệt,
nhưng được tháp vào trong Hội Thánh duy nhất mà Đức Giêsu đã thiết lập
trên “tảng đá” Phêrô (x. 16,18). Không phải là từng người Kitô hữu,
nhưng là Hội Thánh mới có thể tuyên bố mộtphán đoán dứt điểm, nhằm nói
rằng mộthành vi có phù hợp hay không với các quy tắc của Hội Thánh. Ai
không nghe lời có khả năng làm sáng tỏ của Hội Thánh, thì tự đặt mình ra
ngoài Hội Thánh: “hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu
thuế”. Đây không phải là lời kết án chung cuộc, nhưng theo cái nhìn của
các Kitô hữu gốc Do Thái vẫn trung thành với Lề Luật, là không còn gì để
làm với người ấy nữa. Quả thế, người ta không thể cho rằng mình thuộc
về mộtcộng đoàn, đồng thời lại từ chối các quy tắc điều hành và đảm bảo
đời sống cho cộng đoàn ấy. Ở đây vấn đề không chỉ là vi phạm mộtquy tắc,
mà là từ chối chính quy tắc do người ta chống lại phán đoán của Hội
Thánh. Ai nhìn nhận mình sai lỗi và thiếu sót với quy tắc, thì được cứu
(x. c. 15); ai từ khước quy tắc, thì rời bỏ cộng đoàn.
* Cầm buộc và tháo cởi (18)
Rất có thể câu nói về “cầm buộc và “tháo cởi” này đã thuộc về truyền thống có trước Mt.
Nếu Hội Thánh có thể công bố mộtphán đoán dứt điểm về điều gì phù hợp
và điều gì không phù hợp với lối sống của mình, là vì dựa trên quyền
tháo cởi và cầm buộc Đức Giêsu đã ban (c. 18); quyền này phải được thực
thi phù hợp với các cơ cấu mà Người đã ban cho Hội Thánh (x. 16,18t;
10,1-42; 28,16-20). Trong quyền này có hàm chứa khả năng biết cách
thuyết phục bằng các quy tắc của Đức Giêsu, phán đoán cách đáng tin cậy
các trường hợp riêng lẻ và cho thấy các ranh giới của sự thuộc-về Hội
Thánh.
* Sự hiện diện của Đức Kitô (19-20)
Thêm vào nguyên tắc tổng quát của c. 18, một lần nữa (palin)
tác giả nói đến một nguyên tắc về cơ cấu. Lời Đức Giêsu dạy về cầu
nguyện chung và về việc hội họp nhân danh Người lại nêu bật tầm quan
trọng của hành động chung (cấp độ thứ hai ở trên). Ý tưởng ở đây không
phải là việc cầu nguyện chung thì quan trọng hơn việc cầu nguyện cá
nhân. Tác giả chỉ muốn nói đến việc những người cầu nguyện đồng ý với
nhau về điều mà họ đang cầu xin. “Hai” là số người tối thiểu có thể đồng
ý hay không đồng ý về một điều gì. Vậy lời đáp cho việc cầu nguyện tùy
thuộc tương quan giữa các thành viên trong Hội Thánh. Những lời thỉnh
cầu chỉ tập trung vào cá nhân sẽ không được chấp nhận.
Ở cuối lệnh truyền giáo, Đức Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt
18,19t). Người ta sẽ không còn thấy được Người, nhưng Người sẽ hiện
diện và hỗ trợ mạnh mẽ khi họ đi chu toàn lệnh Người truyền. Các môn đệ
không bị bỏ mặc mộtmình, nhưng được Người để ý cùng đi với và giúp đỡ
hữu hiệu. Người cũng hứa hiện diện như thế với những ai quy tụ lại nhân
danh Người. Nguồn gốc và trung tâm của cuộc quy tụ là “danh Đức Giêsu”.
“Danh” là chính bản thân Đức Giêsu mà các môn đệ đều quen biết; “nhân
danh” có nghĩa là: vì tình yêu đối với Người, trong sự hiểu biết rõ ràng
Người là ai và trong sự tuyên xưng về địa vị của Người. Đây là mộtcuộc
quy tụ với ý thức sống động và tin tưởng vào ý nghĩa của Đức Giêsu và
của tất cả những gì thuộc về Người, của sứ điệp và hành trình của Người.
Các Kitô hữu quy tụ lại trong tinh thần này thì không bao giờ bị bỏ mặc
cho chính mình, nhưng họ có Đức Giêsu ở giữa họ. Chính Người sẽ nâng đỡ
sự hiệp nhất và hoạt động của họ.
+ Kết luận
Tình
huynh đệ chân chính đòi hỏi các môn đệ của Đức Giêsu không được bỏ mặc
mộtngười anh em đi vào cuộc phiêu lưu nguy hiểm (“phạm tội”), nhưng phải
hết sức cố gắng đưa họ trở lại với đường ngay nẻo chính. Đàng khác, do
tôn trọng đặc tính bó buộc và cứu độ của sứ điệp của Đức Giêsu, trong
Hội Thánh, ta không được tùy nghi xử sự theo bất cứ cách nào, nhưng phải
tôn trọng những giới hạn, phải tiến hành theo những cấp độ khác nhau.
Dù sao, tất cả những gì cổ võ sự hiệp nhất nhân danh Đức Giêsu thì đều
có thể chắc chắn là sẽ được Thiên Chúa hỗ trợ đặc biệt, và như thế sẽ
góp phần vào việc kiến tạo Hội Thánh.
5. Gợi ý suy niệm
1.
Như người mục tử không bỏ rơi nhưng đi tìm mộtcon chiên lạc, Thiên Chúa
cũng không bỏ rơi bất cứ người nào. Trên nền tảng là cách hành động đó
của Thiên Chúa, không mộtai được phép nói về mộtngười anh em: Tôi không
quan tâm đến anh/chị ta! Trái lại, chúng ta buộc phải quan tâm đến người
anh em chị em đi lạc. Chúng ta không được phép tránh né vì ích kỷ, lười
biếng hay sợ hãi, hoặc bi quan về kết quả. Cũng không được rơi vào thái
cực kia, đó là chỉ trích, trịch thượng và tự hào mình công chính.
2.
Đức Giêsu tha thiết quy tụ những con người lại quanh Người để làm thành
mộtcộng đoàn tín hữu và huynh đệ. Chúng ta nhớ: Đức Giêsu kêu gọi từng
người để họ sống với nhau và cùng đi thi hành sứ mạng (x. Mt
4,18-25). Cách sống này ngược lại với cách mỗi người đi theo con đường
của mình và không quan tâm đến đặc tính cộng đoàn của đời sống Kitô hữu
(x. 18,15). Đàng khác, mộtnhóm lo lắng săn sóc mộtanh em có tội (c. 16)
thì phải được quy tụ không phải nhân danh chính mình, nhưng nhân danh
Đức Giêsu, để Cha Người sẵn lòng nhận các lời họ cầu xin.
3.
Đức Giêsu không hề có ý đề nghị các thành viên trong cộng đoàn phải
theo giám sát nhau và phân loại con người theo bậc thang giá trị luân
lý. Các cách thức Người đề nghị chỉ là nhằm diễn tả đức bác ái. Chính Mt
18,14 cho ta hướng đúng để hiểu những lời khuyên này: “Cha của anh em,
Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải
hư mất”. Đây là bổn phận săn sóc anh em về mặt thiêng liêng. Giúp đỡ
mộtngười anh em chị em đang gặp khó khăn, chìa tay ra cho mộtngười anh
em chị em đang rơi vào tội lỗi, là mộtđòi hỏi của tình yêu, mộtsự trung
thành với công trình của Đức Giêsu. Chúng ta chịu trách nhiệm về nhau.
4.
Chúng ta đi cầu nguyện để thờ phượng Đức Giêsu hiện diện trong Lời
Người và trong Thánh Thể, nhưng cũng là để gặp anh chị em để hòa với lời
cầu nguyện của họ. Khi chúng ta khiêm tốn và sốt sắng hòa hợp tâm trí
và giọng điệu với nhau mà cầu nguyện, chúng ta nên mộttrong Thân Mình
Chúa Kitô, chúng ta làm thành Nhiệm Thể Đức Kitô.
Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy, hòa hợp với nhau, nêu bật một chủ đề chung: yêu thương đồng loại.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy, hòa hợp với nhau, nêu bật một chủ đề chung: yêu thương đồng loại.
Ed 33: 7-9
Tư
tế Ê-dê-ki-en thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình bên cạnh những người đồng
hương bị lưu đày như ông ở Ba-by-lon (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công
Nguyên); ông cảm thấy mình chịu trách nhiệm về cách ăn nếp ở của anh em
của mình.
Tv 95 (94): 1-2, 6-7, 8-9
Tác giả thánh vịnh mời gọi cộng đồng Dân Chúa hãy tôn thờ Đức Chúa là Chúa Trời cao cả và là Vị Mục Tử nhân lành (cc. 1-7a) với trọn tấm lòng yêu mến Ngài (cc. 7b-11).
Rm 13: 8-10
Thánh
Phao-lô khuyên bảo các tín hữu Rô-ma thực hành tình tương thân tương
ái. Bổn phận duy nhất, món nợ duy nhất mà chúng ta phải có đối với anh
chị em của mình là Đức Ái.
Mt 18: 15-20
Trong
Tin Mừng, thánh Mát-thêu trích dẫn những lời của Đức Giê-su mời gọi các
Kitô hữu đừng để cho một người anh em nào của mình phải lạc mất mà
không tìm cách sửa lỗi cho người ấy, nhiều lần nhiều cách khác nhau với
thái độ tế nhị cần thiết.
BÀI ĐỌC I (Ed 33: 7-9)
Ngôn
sứ Ê-dê-ki-en sống vào cuối thế kỷ thứ bảy và đầu thế kỷ thứ sáu sau
Công Nguyên. Vào lúc đó, hoàn cảnh đất nước thật bi thảm. Vương quốc
Giu-đa bị họa diệt vong bởi đế quốc Ba-by-lon. Vua Na-bu-cô-đô-nô-so bao
vây thành đô Giê-ru-sa-lem lần thứ nhất, vào năm 598-597, tiếp đó một
phần dân cư bị lưu đày, nhất là thành phần ưu tú. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en
thuộc vào số những người lưu đày đầu tiên nầy. Ông thi hành sứ vụ ngôn
sứ của mình chủ yếu bên cạnh những người lưu đày cho đến khi ông qua
đời, vào năm 571 trước Công Nguyên.
Ê-dê-ki-en
trước khi ngôn sứ, đã là tư tế, vì thế, ông mang lấy ở nơi mình vừa
tinh thần ngôn sứ vừa tinh thần tư tế. Bản văn mà chúng ta đọc vào Chúa
Nhật nầy làm chứng điều nầy. Trách nhiệm ngôn sứ và trách nhiệm tư tế
hợp nhất bất khả phân ly ở nơi ông. Khung cảnh là làng Tel-Avi bên bờ
sông Cơ-va không xa kinh thành Ba-by-lon, ở đó vị ngôn sứ cùng với một
số người đồng hương bị lưu đày. “Tel-Avi” nghĩa là “đồi lúa mì”.
Từ
những biến cố, ngôn sứ Ê-dê-ki-en biết rút ra bài học. Các ngôn sứ đã
kêu gọi vua, các bậc vị vọng và toàn thể dân chúng hoán cải, nhưng lời
của các ngài không được lắng nghe, vì thế sự trừng phạt bất ngờ xảy đến.
Nét độc đáo của sứ điệp mà ngôn sứ Ê-dê-ki-en gởi đến nhấn mạnh “trách nhiệm của mỗi cá nhân”. Đó là ý nghĩa lời kêu gọi của Đức Chúa mà chúng ta đọc trong đoạn văn nầy.
1. “Hỡi con Người”:
“Hỡi con người” (dịch sát từ: “con của con người”), chữ “con người” là đặc ngữ Sê-mít, có nghĩa đơn giản là “một con người”, “một cá nhân”, như trong câu: “Hỡi con người, Ta đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en”, ở đây, danh xưng “con người” quy chiếu đến vị ngôn sứ. Đặc ngữ nầy thường xuất hiện trong các sấm ngôn của Ê-dê-ki-en với một nét nghĩa tiêu cực: “Ngươi chỉ là một phàm nhân”.
Mỗi lần Thiên Chúa giao phó cho ông sứ điệp của Ngài, Ngài đặt ông vào
vị thế của ông để ông khỏi phải tự cao tự đại về những thị kiến hay xuất
thần mà Thiên Chúa gởi đến cho ông. Vị ngôn sứ phải xoá mình thành một
loại vô danh tiểu tốt.
2. “Người canh gác cho nhà Ít-ra-en”:
Những hình ảnh: “người canh gác”, “người canh thức”, “truyền lệnh sứ”, được dùng để nói về sứ vụ ngôn sứ thì rất quen thuộc trong Cựu Ước. Ở đây, vị ngôn sứ được Thiên Chúa công bố đích danh là “người canh gác cho nhà Ít-ra-en”
chứ không là người canh gác ở trên vọng đài tường thành nào đó. Ông sẽ
là người canh gác ở giữa một đám dân, như bao nhiêu những phàm nhân
khác, thậm chí như một người lưu đày trong số họ, không hơn không kém.
Xa hơn một chút, chính Ê-dê-ki-en gợi lên hình thức đơn giản của sứ vụ mình: “Phần
ngươi hỡi con người, con cái dân ngươi bàn tán về ngươi dọc theo các
bức tường và trước các cửa nhà. Chúng bảo nhau, người nọ nói với người
kia: ‘Nào chúng ta đến nghe xem Đức Chúa phán thế nào!’. Chúng đến với
ngươi đông như trẩy hội. Dân Ta ngồi trước mặt ngươi; chúng nghe các lời
ngươi nói…” (Ed 33: 30-32). Trong những cuộc chuyện trò thân mật
nầy, trong bầu khí thân quen của những cuộc giao tiếp gần gũi giữa người
với người này, vị ngôn sứ có thể gởi đến cho từng người những lời cảnh
báo đậm đà tình nghĩa huynh đệ.
3. Trách nhiệm cá nhân:
Đối
với dân Thiên Chúa, “sống” tức là đón nhận những phúc lành của Thiên
Chúa và “chết” chính là đánh mất ân huệ của Thiên Chúa, bởi vì Ngài là
nguồn mạch của mọi thiện hảo đối với dân Ít-ra-en. Đây là kiểu nói quen
thuộc của Cựu Ước để trình bày những huấn lệnh của Thiên Chúa trong viễn
cảnh của một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết, hạnh phúc và bất
hạnh, lời chúc phúc và lời nguyền rủa.
“Nếu
Ta bảo đứa gian ác: ‘Tên gian ác kia, nhất định mi phải chết’, mà ngươi
không nói để cảnh cáo nó phải từ bỏ con đường gian ác, thì chính nó,
đứa gian ác ấy, sẽ chết vì tội của nó, nhưng còn máu của nó, Ta sẽ đòi
ngươi”. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en nhấn mạnh trách nhiệm của người biết
huấn lệnh của Thiên Chúa và luật luân lý của Ngài, người ấy phải giúp
anh em mình được hiểu biết ngọn nguồn. Vả lại, ông là vị ngôn sứ đầu
tiên và vĩ đại nhấn mạnh sự thưởng phạt cá nhân: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con”
(Ed 18: 20). Tuy nhiên, số phận của mỗi người không bất di bất dịch như
đinh đóng cột: người công chính có thể trở thành tội nhân; kẻ tội lỗi
cũng có thể hoán cải để trở thành một vị thánh. Sứ vụ của vị ngôn sứ
được định vị ở nơi hành động nầy mà chính Đức Giê-su sẽ khuyên bảo các
môn đệ của mình.
THÁNH VỊNH 95 (94)
Về hình thức, thánh vịnh này là một “thánh vịnh hỗn hợp”
bao gồm một thánh thi (cc. 1-7a) và một sấm ngôn (cc. 7b-11). Về nội
dung, thánh vịnh này thường được xếp vào loại các thánh vịnh ca ngợi
vương quyền của Đức Chúa, cũng có thể liệt vào số các thánh vịnh phụng
vụ ngôn sứ. Về bối cảnh, thánh vịnh có lẽ được dùng trong cuộc rước kiệu
tiến về Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đoàn rước kiệu khởi hành chẳng hạn từ
Ghi-khôn nằm trong thung lũng Kít-rôn (x. 1V 1: 33), rồi tiến lên núi
Xi-on (Tv 95: 1-5). Trước Nơi Cực Thánh diễn ra nghi lễ thờ lạy Thiên
Chúa và cầu nguyện (Tv 95: 6-7a), rồi đoàn người rước kiệu nghe đọc và
diễn giải Sách Thánh. Nghi lễ kết thúc với lời tuyên sấm của một viên
chức phụng tự hay một phát ngôn viên của Lời Chúa trong Đền Thờ (Tv 95:
7b-11). Thánh vịnh này được cấu trúc như sau:
A.Mời gọi tôn thờ Đức Chúa là Chúa Trời cao cả và là Vị Mục Tử nhân lành (cc. 1-7a)
B.Mời gọi trọn một lòng trung thành với Đức Chúa (cc. 7b-11)
1-7a.
Những đề tài về Đức Chúa như Đấng Cứu Độ và Đấng Sáng Tạo được đan
quyện vào nhau: a.Đấng Cứu Độ (c. 1), b.Đấng Sáng Tạo (cc. 4-5), b’.Đấng
Sáng Tạo (c. 6), a’.Đấng Cứu Độ (c. 7a). 1. “Tung hô Người là Núi Đá độ trì ta”: “Núi Đá”
ở đây và ở câu 8 ám chỉ tảng đá mà ông Mô-sê đã đập vào theo lệnh Chúa
để từ đó nước chảy ra cho dân uống (x. Xh 17: 16; Ds 20: 11). 3. “Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả (“El”)”: El là vị thần đứng đầu các thần linh của dân Ca-na-an và là tên của vị thần tối cao. “Đại Vương trổi vượt chư thần”: “Đại Vương” là tước hiệu mà các hoàng đế Cận Đông xưa xưng tụng mình (Tv 47: 3; 48: 3). 7a. “Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt”: X. Tv 79: 13; 100: 3. 7b-11.
Thánh vịnh bất ngờ chuyển giọng sang lời cảnh báo về sự bất trung với
Đức Chúa ở đây (x. Tv 81, trong đó cũng xảy ra một chuyển giọng như
thế). 8. “Tại Mơ-ri-va…ở Ma-xa”: Theo Tv 81: 8, chính Thiên Chúa thử lòng dân tại Mơ-ri-va (x. Xh 17: 1-7). Hai địa danh này có nghĩa “gây chuyện” và “thử thách” hay “thách thức”. 11. “Chúng sẽ không được vào chốn an nghỉ của Ta”:
Đặc biệt theo truyền thống đệ nhị luật, đất hứa là đất Thiên Chúa ban
cho dân Ngài được nghỉ ngơi sau một cuộc hành trình dài lâu và đầy cam
go (Đnl 12: 10; 25: 19; Gs 22: 4), vì thế đất này được Thiên Chúa quy
chiếu là “chốn yên nghỉ của Ta”.
BÀI ĐỌC II (Rm 13: 8-10)
Chúng
ta tiếp tục đọc phần luân lý của thư gởi tín hữu Rô-ma. Thánh Phao-lô
vừa mới nêu lên những bổn phận công dân mà người tín hữu phải phục tùng:
vâng lời chính quyền dân sự, nộp thuế. Dù tất cả những nghĩa vụ nầy
phải chu toàn, chúng ta vẫn phải là những kẻ mắc nợ đối với anh em đồng
loại: món nợ tương thân tương ái không bao giờ trả hết được. “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì yêu mến người, thì chu toàn lề luật”.
Thập Giới mời gọi phải tôn trọng nhân phẩm của tha nhân và của cải của
họ, nhưng không đề cập cách minh nhiên bổn phận yêu thương đồng loại.
Bổn phận yêu thương đồng loại được sách Lê-vi 19: 18 công bố và thánh
Phao-lô cũng trích dẫn: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình”.
Theo Cựu Ước, anh em đồng loại trước hết những người cùng chung một chủng tộc, một quốc gia, như chữ “đồng bào”
của người Việt Nam. Đức Giê-su đã mở rộng tầm mức của huấn lệnh yêu
thương đến tất cả mọi thành viên của cộng đồng nhân loại, không có bất
kỳ ngoại trừ nào, thậm chí phải yêu thương kẻ thù nữa. Thánh Phao-lô nêu
lên không chỉ luật Mô-sê, nhưng cũng luật mới của Đức Ái Kitô giáo nữa.
Ở đây, thánh nhân không đề cập đến huấn lệnh thứ nhất, huấn lệnh yêu
mến Thiên Chúa, vì lời khuyên bảo của thánh nhân nhắm đến đức ái huynh
đệ, vì thế huấn lệnh yêu thương đồng loại bất khả phân ly với huấn lệnh
yêu mến Thiên Chúa: từ yêu mến Thiên Chúa mà yêu thương đồng loại được
khơi nguồn. Nếu yêu thương đồng loại là vô giới hạn, vì mẫu gương của
tình yêu Thiên Chúa đối với con người thì vô cùng. Ở đây, vị sứ đồ nhấn
mạnh tình tương thân tương ái, đó là “chu toàn lề luật”.
TIN MỪNG (Mt 18: 15-20)
Trong
chương 18 nầy, thánh Mát-thêu tập hợp lại những huấn lệnh của Đức
Giê-su được ngỏ lời với nhóm Mười Hai, hoa trái đầu mùa của Giáo Hội
Ngài. Diễn từ nầy cũng được gọi “diễn từ về Giáo Hội”.
1. Sửa lỗi anh em:
Việc
sửa lỗi anh em mà Đức Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài thực hành cho nhau
được nhắm đến trong luật Mô-sê, được ghi trong sách Lê-vi: “Ngươi
không được để lòng ghét người anh em, nhưng phải mạnh dạn quở trách
người đồng bào, như thế, ngươi sẽ khỏi mang tội vì nó” (Lv 19: 17). Câu trích dẫn nầy đi gần sau huấn lệnh: “Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình” (Lv 19: 18). Như vậy, việc sửa lỗi cho anh em thuộc về luật đức ái.
Theo
truyền thống Do thái giáo, người ta không được truy tố kẻ phạm tội mà
không cảnh báo trước trong chốn riêng tư. Vào thời Đức Giê-su, các kinh
sư phàn nàn là người ta không thực hiện tập tục tốt đẹp nầy. Đức Giê-su
phục hồi tập tục nầy trong tinh thần yêu thương. Ngài đề nghị ba giai
đoạn trong việc sửa lỗi huynh đệ:
- Sửa lỗi anh em trong chỗ riêng tư kín đáo, không ai hay biết.
-
Nếu lần đầu tiên không có kết quả, tiếp tục lần thứ hai với sự hiện
diện của một hay hai người khôn ngoan để kẻ sai lạc thấu tình đạt lý.
Biện pháp nầy tránh cho tội nhân khỏi bị sỉ nhục ở nơi cộng đoàn.
-
Nếu lần nầy cũng thất bại nữa, lúc đó mới thưa với cộng đoàn. Nếu người
anh em nầy không chịu nghe cộng đoàn, chỉ lúc đó người nầy mới có thể
bị loại trừ hay bị kể như một người dân ngoại hay một người thu thuế,
nghĩa là một người mà người ta tránh mọi giao tiếp.
Đức
Giê-su dự phòng các môn đệ của Ngài – sau họ, các cộng đoàn Kitô hữu –
tránh tất cả mọi hình thức loại trừ một thành viên quá tàn nhẫn. Nhưng
Ngài còn muốn hơn nữa rằng chúng ta noi gương vị mục tử nhân lành ra đi
tìm kiếm con chiên lạc. Chắc chắn không phải là ngẫu nhiên khi những lời
khuyên sửa lỗi anh em nầy được xếp đặt ngay liền ngay dụ ngôn “con chiên lạc” (Mt 18: 12-14). Giáo Hội phải bày tỏ sự ân cần như thế đối với người sai phạm.
2. Viễn cảnh Giáo Hội:
Đức
Giê-su định vị bổn phận sửa lỗi anh em và những biện pháp kỷ luật mà
cộng đoàn Kitô hữu áp dụng trong khung cảnh thiết lập Giáo Hội của Ngài.
Chính như vậy mà Ngài mở rộng quyền năng cho Tông Đồ Đoàn, mà trước đây
Ngài đã trao phó cho thánh Phê-rô: “Tất cả những gì dưới đất anh em
cầm buộc, trên trời cũng cầm buộc như vậy; tất cả những gì dưới đất anh
em tháo cởi, trên trời cũng tháo cởi” (Mt 16: 19). Và Ngài sẽ lập lại quyền năng nầy cho họ sau khi Ngài phục sinh (Ga 20: 23).
Đức
Giê-su thêm vào ở đây một lời hứa khác: Ngài sẽ luôn luôn hiện diện ở
giữa các tín hữu của Ngài khi họ họp nhau lại mà cầu nguyện, dù chỉ hai
hay ba người đi nữa. Cha Ngài, Đấng ngự trên trời sẽ lắng nghe và đáp
trả lời cầu xin của họ, bởi vì Đấng cầu bầu cho họ không ai khác ngoài “Đức Giê-su đích thân ở giữa họ”.
Xem ra Đức Giê-su ám chỉ đến truyền thống kinh sư, theo đó khi hai hay
ba người Ít-ra-en họp nhau lại để học hỏi Lề Luật, Thiên Chúa ở với họ.
Nhưng ở đây Đức Giê-su đặt mối liên hệ của các Kitô hữu với Chúa Cha nhờ
và trong lời cầu nguyện. Sự hiện diện của Thiên Chúa được đảm bảo qua
sự hiện diện của Ngôi Lời làm người, gần gũi với con người hơn bao giờ
hết.
Chú giải theo Fiches Dominicales: CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI NHAU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Giáo Hội, một cộng đoàn huynh đệ.
Sau
lần thứ nhất loan báo cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cùng các môn đệ rời miền
“Cêsarée Phiìipphê” đi lên Giêrusalem. Sau cuộc biến hình trên núi, giờ
đây Ngài tới Capharnaum, tại đó, theo Matthêô Ngài đã loan báo diễn từ
thứ tư trong Phúc âm Matthêu “diễn từ về đời sống Giáo Hội”. Những hướng
dẫn, giúp cho cộng đoàn mà Ngài sáng lập phản ảnh được hình ảnh của
“Cha trên trời”.
J.
Potin báo trước: “Trong chương 13 này, Matthêu đã tập họp lại những lời
nói khác nhau của Đức Giêsu về đề tài cộng đoàn. Rất nhiều lời đã được
Đức Giêsu nói với các môn đệ trong tình thân mật, nhất là trong những
tháng ngày Ngài bỏ Galilê để chuẩn bị lên Giêrusalem. Đức Giêsu chuẩn bị
cho các môn đệ sống trong một bầu khí yêu thương huynh đệ, khi phải xa
lìa Ngài sau cuộc khổ nạn. Bất kể tương lai có ra sao, tinh thần quan
tâm tới những kẻ bé nhỏ, yếu ớt tinh thần tha thứ lẫn cho nhau này phải
tràn ngập cộng đoàn. Bốn mươi năm sau, lúc Matthêô viết Phúc âm, những
lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn hiện thực. Cộng đoàn mà Ngài nhắn nhủ
gồm các Kitô hữu gốc Do Thái lẫn gốc dân ngoại, thuộc nhiều tầng lớp xã
hội khác nhau. Đời sống cộng đoàn giữa anh chị em đôi lúc có khó khăn.
Tới những lời Đức Giêsu nói với nhóm các môn đệ vẫn còn là thực tế.
Chính vì thế, tác giả Phúc âm đã gom chúng vào trong một diễn từ, quảng
diễn một chút cho phù hợp với Giáo Hội “của ông”, nghĩa là cộng đoàn của
ông. Trước tiên, Đức Giêsu miêu tả cộng đoàn các môn đệ của Ngài như
một cộng đoàn đặc biệt quan tâm tới những kẻ “bé nhỏ” tin vào Chúa,
những Kitô hữu mà đức tin còn rất mỏng manh (18,1-10) và lo lắng cho
những “con chiên lạc, người Kitô hữu tránh xa cộng đoàn và liều mình hư
mất (18,12-14). Ngài trình bày một cộng đoàn sống động thực hành sự nâng
đỡ và tha thứ lẫn cho nhau. Đó là thái độ phải có đối với một người
“anh em” đã “phạm tội”.. Đó là thái độ phải có khi anh chị em bất hoà,
xung khắc.
2. …Thực hành sự tương trợ và tha thứ lẫn cho nhau
Sửa
đổi anh em: một việc làm có tính chất Tin Mừng. Chỉ có sự âu yếm của
Người Mục Tử tốt lành mới làm ta hiểu được hết chiều sâu của đoạn Phúc
âm nói về người “anh em” đã “phạm tội” này. Bản văn không nói về tính
chất của tội, nhưng lời Đức Giêsu cho thấy đó là một xúc phạm đến Thiên
Chúa và xúc phạm đến một người anh em, đó cũng là một việc liên quan đến
Giáo Hội, cộng đoàn Kitô hữu. Qua những luật lệ và các thực hành ít
nhiều phịu ảnh hưởng của Do Thái giáo, việc xoá lỗi anh em vừa giúp duy
trì sự hài hoà trong Giáo Hội vốn bị đe doạ vì lỗi của một thành viên
trong cộng đoàn, vừa giúp che chở tội nhân khỏi những biện pháp khắc
nghiệt, vội vã. Vì thế tác giả Phúc âm nhấn mạnh trên yếu tố xem ra nền
tảng nhất đối với Ngài: đòi hỏi của Phúc âm về việc nâng đỡ, lòng thương
xót và sự tha thứ lẫn cho nhau. Chính tinh thần ấy đã làm phát sinh ra
những cuộc vận động tiệm tiến nhiều đợt nhằm chinh phục người anh em lầm
lạc mà nếp sống làm tổn tưởng sự duy nhất và chứng tá của toàn thể cộng
đoàn Kitô hữu. Mục đích không phải để hoà giải với một anh em như trong
Luca 17,3, nhưng là để “chinh phục”người anh em này, để đưa người ấy về
với Chúa, đồng thời cũng về với cộng đoàn mà anh đã xa lìa vì tội lỗi.
Sửa lỗi anh em: một cuộc vận động tiệm tiến. Bước 1, nói chuyện riêng,
kín đáo giữa một người anh em với một người anh em mà anh có quyền mong
đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta lầm lỗi. Đó không
phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhận ra lầm lỗi. Bước
2: nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi sẽ đến bước 2: gặp gỡ có 2
hoặc 3 chứng nhân, theo đề nghị của sách Đệ Nhị luật 19, 1 như đã từng
dược thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu
tại Côrintô (2Cr 13,l). Sự hiện diện của các chứng nhân báo đảm cho tính
khách quan, đồng thời đưa vào đó 1 yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín
đáo. Bước 3: nếu vẫn không có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng:
đưa ra trước Giáo Hội: “trình bày sự việc trước cộng đoàn Giáo Hội”. Nếu
tội nhân từ chối nghe Giáo Hội, thì, theo như bài Phúc âm, “ta hãy coi
họ như người ngoại và người thu thuế”. Một công thức dứt khoát không
phải là một khinh miệt hoặc kết án: Đức Giêsu đã trở nên “bạn bè với
những người thu thuế kia mà. Công thức ấy chỉ tuyên bố rằng người tội
lỗi tự loại trừ mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo Hội chỉ chứng nhận sự
tách lìa này và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào đó, hy vọng
thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng sửa lỗi anh em: một cuộc vận
động từ đầu đến cuối đều nhờ lời cầu nguyện của cộng đoàn. Lời cầu
nguyện theo dõi và yểm trợ tiến trình này từ đầu đến cuối. Lời cầu
nguyện vẫn tiếp tục cả khi tội nhân đã lìa xa Giáo Hội, van nài cho
người anh em lầm lạc được ơn hối cải. Đó là một lời cầu nguyện có sức
nặng của sự hiện diện của Đấng đã hứa: “Khi có 2, 3 người tụ họp lại
nhân danh Ta, Ta ở giữa họ”? C. Tassin bình luận: “Vì chính danh thánh
Đức Giêsu đã qui tụ các tín hữu lại, nếu họ thực sự tụ họp lại chỉ để
hành động nhân danh Ngài trong những vấn đề khó, họ chắc chắn họ sẽ có
sự hiện diện chủ động và hiệu quả của Ngài. Vậy một coi sự thực hành
việc “sửa lỗi anh em” là một bổn phận của các cộng đoàn tín hữu Ngài
nhấn mạnh đến bầu khí cầu nguyện và ý chí hành động “nhân danh” Đức
Kitô. Chính Đức Kitô sẽ nối kết mọi người đã tham dư cuộc vận động này”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Việc sửa lỗi anh em (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, DDB )
Đoạn
Phúc âm này đưa ra một tiến trình hoà giải một trường hợp tế nhị trong
đời sống các cộng đoàn: “Phải lành gì khi anh em ngươi phạm tội”. Câu
trả lời không dễ Đức Giêsu nói gì? Hãy đi tìm nó và trách móc! Đó không
phải là cách hành động. Ta thường cho rằng đó là việc cá nhân của người
đó “vấn đề của nó” và rằng nó có tự do! Can thiệp, tìm gặp và trách móc,
chẳng phải là tôi đã pha mình vào những việc không có liên hệ đến tôi,
xen vào đời tư cá nhân; không kín đáo, không khoan nhượng, và liều mình
gây gổ với anh ta sao? Ngay trong mối tương quan giữa tín hữu với nhau,
ta vẫn thường hành xử như người đời quen làm trong xã hội. Ta không muốn
pha mình vào công việc của người khác, ta né tránh. Dĩ nhiên trước khi
can thiệp ta phải kiểm chứng xem có nên trách móc không, làm cách nào
cho có kết quả. Hơn nữa xã hội ta đang sống khác với xã hội thời Đức
Giêsu. Ta ít cảm thấy liên đới hơn. Tự do cá nhân là một cuộc chinh phục
tương đối mới, và tuyên ngôn Nhân quyền là một hiến chương phần lớn dựa
trên những tự do cá nhân này. Ta không muốn phá huỷ nó vì người khác và
ta cũng không muốn người khác can thiệp vào đời sống, tư cách của ta.
Ta khó chịu khi có ai đến cho ta một bài học luân lý! Còn nữa, thường
thường điều mà ta không muốn nói trước mặt người khác, ta lại ít tế nhị
khi nói sau lưng họ…
Đức
Giêsu đã nêu lên thái độ phải giữ trong cộng đoàn môn đệ của Ngài. Ta
không thể rập khuôn cách làm của ta theo những gì diên ra chung quanh.
Cảm thấy có liên hệ đến những hành vi của anh em, đó là chuyện bình
thường. Chính vì thế mà Đức Giêsu nói: Nếu anh em ngươi phạm tội… Anh em
ngươi, đâu phải là người xa lạ, ngươi không thể nói rằng tội lỗi của nó
không liên hệ gì tới ngươi. Vì sự sống của anh em ngươi, sự sống vĩnh
cửu của anh ta, liên đới ngươi lắm chứ. Khi yêu ai, ta đâu dửng dưng để
mặc người ấy lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, giúp đỡ không
làm anh ta phật lòng, không la mắng anh. Lỗi khuyên dạy của Đức Giêsu
giả thiết ta phải có mối liên lạc huynh đệ. Phải chăng đó là vấn đề cần
đặt ra cho đời sống cộng đoàn chúng ta? Có tình thân rồi, ta có thể nói
với nhau nhiều chuyện, giúp đỡ nhau nhiều việc. Trách móc không có nghĩa
là nói nặng lời, hung hăng, dữ tợn. Trái lại lời khuyên của Đức Giêsu
kêu gọi ta hành động với sự tế nhị: “Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đi
gặp và trách móc nó giữa hai người với nhau. Sự kín đáo của cuộc vận
động tránh đưa tội lỗi ra công khai. Điều này hoàn toàn phù hợp với một
mối liên lạc cá nhân, huynh đệ. Và Đức Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của
cuộc vận động: đó là cứu lấy anh em, chinh phục anh em, để nó đừng hư
mất: nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được một người anh em. Đó không
phải là lời nói gắt gỏng, của thói phê bình chỉ trích, hay đối nghịch.
Đó không phải là từ ngữ hạ nhục, là sự dò xét chế tài của kẻ bề trên. Ai
tiến hành cuộc vận động ấy cũng phải sẵn sàng đón nhận sự trách móc
ngược lại.
2) Mô hình của mọi cuộc hoà giải trong Giáo Hội.
Trong
chương 18 mà ta quen gọi là “diễn từ về cộng đoàn các môn đệ”, là sự
miêu tả một tiến trình hoà giải trong Giáo Hội tạo nên, một cách nào đó,
mô hình căn bản cho mọi hoà giải trong Giáo Hội. Đó là một tiến trình
bao gồm cả gặp gỡ của cá nhân lẫn vận động của cộng đoàn. “Nếu anh em
ngươi phạm tội, hãy đến nói với nó…” (Mt 18,15). Một cuộc hoà giải thực
sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó. Giáo Hội luôn
ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi thời, dù
phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho
một đối thoại cá nhân. Một đối thoại như thế thường rất khó khăn – Chính
Đức Giêsu đã có kinh nghiệm đau đớn về điều đó – nhưng không phải vì
thế bỏ cuộc: “nếu nó không nghe ngươi, hãy nhờ 1 hoặc 2 ngươi khác đi
với ngươi… nếu nó từ chối nghe họ, hãy đưa ra cộng đoàn Giáo Hội…” (Mt
18,16-18). Hãy ghi nhận sự tiệm tiến của những phương thế được sử dụng
để thoát ra khỏi tình trạng gãy dỗ: đó là phối hợp những cố gắng để nối
lại đối thoại, nói lên sự thực và tìm lại được sự hiệp thông. Chính nhờ
cộng đoàn mà quyết định được thi hành, trước mặt cộng đoàn mà sự hoà
giải phải được ký kết. Trong trường hợp sự hoà giải thất bại, Phúc âm
nói tiếp: nếu nó từ chối nghe Giáo hội, hãy coi nó như người ngoại hoặc
như người thu thuế…. Rất nhiều nhà bình luận đã chú giải lời nói như kết
án, loại trừ này: nhưng ta có thể hiểu một cách hoàn toàn khác hẳn,
dưới ánh sáng của Phúc âm: vào thời Đức Giêsu, từ ngữ “ngoại đạo” chỉ
những người, tuy theo một đạo (thời đó ai mà không có đạo?) nhưng vẫn
chưa quay trở về với Thiên Chúa Hằng Sống và Chân thật còn về “những
người thu thuế vào thời chiếm đóng của đế quốc La-mã, họ khép mình trong
một hệ thống bất công. Tuy nhiên, trong Phúc âm ta thấy Đức Giêsu, dù
người Do Thái đạo đức lấy làm vấp phạm, vẫn ăn uống với những người thu
thuế, dưới ánh sáng của thái độ của Đức Giêsu, đối xử ai như “kẻ ngoại
đạo và người thu thuế là một lời mời gọi hãy có thái độ đồng hành với
những người, mà vì lý do nào đó, vẫn chưa có đức tin hoặc đóng kín trong
sự bất công và không thể tự mình thoát ra. Họ chưa đón nhận được Tin
Mừng của một Thiên Chúa “không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó
ăn năn ám hối và được sông (Ez 18, 23). Chính trong bối cảnh cầu nguyện
cộng đoàn mà sự hoà giải có thể được thực hiện. Điểm cốt yếu trong cuộc
vận động không gì khác hơn là ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ở đây ta gặp
lại lời tuyên bố long trọng: “Thật, Ta bảo thật các người, điều gì các
con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và điều gì các còn cởi mở
dưới đất, trên trời cũng cởi mở (Mt 18,18). Lời nói đó được sử dụng để
nói lên uy quyền của Phêrô là đầu Giáo Hội (Mt 15,19). Nhưng Đức Giêsu
nói thêm: “… Ta lại bảo các ngươi: nếu hai người dưới đất hiệp ý với
nhau” và xin sự gì, Cha Ta trên trời sẽ ban cho họ (Mt 18,19-20). Đây
không đơn thuần là một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng
nhau đến trước tình yêu Thiên Chúa, chỉ mình Ngài có quyền Trong một bối
cảnh như thế, người thi hành tác vụ hoà giải phải cư xử không phải như
chủ nhân của sự tha thứ nhưng phải như tôi tớ của sự tha thứ của Thiên
Chúa mà chính đương sự là kẻ đầu tiên được thụ hưởng. Trong lịch sử, mô
hình Phúc âm này có lẽ đã được ứng dụng nhiều cách khác nhau mà chúng ta
đã phần nào được thừa kế.
0 Nhận xét