NGỪA THAI NHÂN TẠO VÀ TỰ NHIÊN
Phần
trình bày sau đây, tôi ước muốn được nêu lên một vài ý kiến phê bình về
những vấn nạn luân lý liên quan đến các phương pháp ngừa thai, nhưng
trước tiên, chúng ta cần đề cập đến việc ngừa thai của những người chưa
lập gia đình. Như tin tức thời sự đang lên tiếng cảnh báo cao độ cả hai
hình thức, mang thai và phá thai, nơi những thiếu nữ trẻ tuổi chưa lập
gia đình, điều ấy làm cho cả xã hội quan tâm. Việc giao hợp (ăn ở với
nhau) trước hôn nhân và không kết hôn là một thực tế đáng buồn và lo
ngại; chắc chắn luân lý không chuẩn nhận và khuyến khích. Tuy nhiên, vẫn
cần và cần một sự giáo dục giới tính tốt hơn cho người trẻ, nhưng chỉ
giáo dục cho biết kiến thức thôi mà không đưa ra nhận định về ý nghĩa,
phẩm giá và vẻ đẹp của tính dục con người, cùng với nỗ lực nêu lên các
chuẩn mực đặc thù cho việc biểu lộ giới tính để người trẻ tuân thủ, thì
hầu chắc xã hội sẽ bất lực trong việc ngăn chận những “thử nghiệm” quan
hệ tình dục tiền hôn nhân. Bao lâu vấn đề chưa được giải quyết, giới trẻ
và bất cứ ai vẫn khăng khăng quan hệ tính giao (giao hợp) trước và
ngoài hôn nhân, họ cần được khuyến cáo nên chọn lựa dùng một hình thức
ngừa thai nào đó cho cẩn trọng và hiệu quả.
Trách
nhiệm luân lý hầu như phải chọn nguyên tắc hành động “sự xấu ít hơn”
này, bởi ngừa thai ở đây sẽ đỡ nguy hại về mặt luân lý hơn, là việc
người trẻ chưa lập gia đình mà mang thai, rồi phải đi đến quyết định phá
thai, hoặc phải quyết định lập gia đình vội vã, thiếu suy tính và không
có tình yêu. Và sau cùng, tránh cho người trẻ có con cái khi hoàn cảnh
chưa cho phép với những hậu quả nặng nề cho hạnh phúc mai sau của họ.
I. NGỪA THAI NHÂN TẠO VÀ TỰ NHIÊN: NHỮNG CÁCH THỨC KỸ THUẬT KHÁC NHAU RA SAO.
Ý
định của tôi là nhằm cho thấy những phương pháp ngăn ngừa sự truyền
sinh khác biệt nhau về mặt đánh giá luân lý tính. Hơn nữa, có những
phương pháp thường dùng để ngừa thai, có những cái lại không phải như
vậy trên thực tế. Đúng hơn, đó là các phương tiện phá thai hoặc là những
nhân tố gây ra tác hại phá thai và cần chúng ta thẩm định giá trị cho
đúng đắn.[1]
1.NHỮNG PHƯƠNG THỨC TRIỆT SẢN.
Theo
phúc trình của Tiểu Ban lo về việc kiểm tra dân số, phần lớn người Mỹ,
khi muốn ngừa thai để giới hạn số người trong gia đình, họ sử dụng
phương pháp triệt sản. Trong số 34.6% triệt sản, có 23.2% sử dụng phương
pháp triệt sản bằng cách thắt ống dẫn trứng; hoặc cắt tinh quản 11.4%;
30 % sử dụng thuốc viên ngừa thai; 12.9% dùng bao cao su; 7.9% dùng
vòng tránh thai. Trong khi 14.6% thay đổi các phương pháp như đặt vách
ngăn (màng, mũ chụp tử cung) và các loại kem diệt tinh trùng. Tình hình
triệt sản ở các nước khác: Trung Quốc (50.4%); An Độ (80.%) và châu Mỹ
la-tinh (39.4%), những cuộc tiểu phẫu phần lớn là phương cách triệt sản.[2]
Hiện
tượng triệt sản phổ biến rộng rãi như trên quả đáng báo động, bởi những
phương cách triệt sản, cho dù là buộc hay cắt ống dẫn trứng, hay cắt
tinh quản không phải là những phương thế tạm thời ngừa hoặc tránh thai;
đúng hơn chúng nhằm tránh sinh đẻ trường kỳ. Ngay cả những kỹ thuật này
cho phép có thể tháo gỡ để có thể có con trở lại, nhưng không có gì để
bảo đảm việc trở lại suông sẻ đó; và phần đông những người chọn những
phương pháp này đều được cho biết tính chất trường kỳ và khó đảo ngược
của chúng.
Bây
giờ ta xét đến luân lý tính của những phương pháp này. Theo truyền
thống, Giáo hội Công giáo phân biệt giữa triệt sản “trực tiếp” và triệt
sản “gián tiếp”. Luân lý Giáo hội Công giáo không thừa nhận triệt sản trực tiếp,
được hiểu như những phương thức đặc biệt ngăn chận hướng thẳng đến sự
thụ thai, như nó là mục tiêu nhắm thẳng đến, hay đây là phương tiện cho
một mục tiêu khác. Ví dụ Giáo hội chống lại triệt sản vì lý do không
muốn có con nữa (chỗ này mục tiêu là chính sự thụ thai) hoặc khi người
ta đề nghị cho ai đó sử dụng triệt sản để ngăn ngừa mang thai vốn được
phỏng đoán là sẽ gây nguy cơ đến sự sống hay sức khỏe của phụ nữ đang
mắc bệnh tim hay đau thận (sự thụ thai ở đây trở thành phương tiện cho
một mục tiêu khác đó là để bảo vệ sức khoẻ cho người phụ nữ). Tóm lại,
triệt sản trực tiếp đồng nghĩa với việc có ý định ngừa thai rõ rệt.
Ngược lại, Giáo hội cho phép triệt sản gián tiếp
như một đòi hỏi cần thiết để duy trì sự sống cho người phụ nữ nào đó.
Ví dụ bị ung thư buồng trứng hay tử cung, hoặc tinh hoàn phải cần cắt
đi. Ý định ở đây rõ ràng là vì lý do chữa bệnh, chứ không phải ngừa
thai, hiển nhiên đây là sự kiện bất khả kháng, ngoài ý muốn của bệnh
nhân. Có lẽ cách hay nhất để phân biệt giữa triệt sản gián tiếp hoặc
chữa bệnh và triệt sản trực tiếp bị cấm đoán, bằng cách đặt câu hỏi như
sau: Liệu sự triệt sản được đề nghị còn được xem là đòi hỏi y khoa, buộc
phải có hay được khuyên bảo nên cắt, trong khi việc vô sinh hay tránh
thụ thai không còn là vấn đề trong đời sống của họ nữa. Tỷ dụ như người
đó đã quyết định chọn bậc sống độc thân hoặc đã qua lứa tuổi mang thai
hay có con? Nếu câu trả lời ở thể xác định, thì đây rõ rệt cho thấy
rằng, họ không có ý định chống thụ thai trong việc sử dụng phương pháp
triệt sản và do vậy được phép sử dụng theo luân lý.
Một vài nhà luân lý Công giáo cho rằng cách phân biệt giữa triệt sản trực và gián tiếp như vậy vẫn chưa đủ cơ sở để đáp ứng mọi khía cạnh phức hợp đạo đức nơi đời sống con người.[3] Tuy
nhiên, dường như đã có một sự đồng ý nào đó, từ phiá các thần học gia, cho rằng để có thể được
phép sửdụng
triệt sản vĩnh viễn và bất đảo ngược này, cần phải có nhiều lý do
nghiêm túc đủ sức thuyết phục. Như ví dụ vợ chồng bắt buộc phải dùng
những phương cách này để ngừa thai chứ không thể dùng cách nào khác. Sau
này, trong phần nói về việc phá thai, tôi sẽ đưa ra vài hoàn cảnh có
thể nghĩ tới trong việc sử dụng ngừa thai bằng triệt sản[4] cho bảo đảm, còn bây giờ, chúng ta cần tập
trung và chú ý đến việc nhận định và phân tích các phương pháp ngừa thai
2. GIAO HỢP GIỮA CHỪNG
Giao
hợp giữa chừng – nghĩa là khi đang giao hợp mà dương vật được rút ra
khỏi âm đạo ngay trước lúc xuất tinh – là một trong những hình thức ngừa
thai đã có từ xa xưa. Như chúng ta đã đề cập trước đây, vốn được gọi là
tội Ô-năng. Dĩ nhiên, tính hiệu quả của phương cách này phụ thuộc phần
lớn vào sự tự chủ, có khả năng kiểm soát của chính đương sự. Tuy nhiên,
giả sử cho là người đàn ông có tự chủ được đi chăng nữa, nhưng khoa học
đã chứng minh cho thấy rằng, trong khi giao hợp thì đã có một số tinh
trùng (kèm theo một tí tinh dịch) đã xuất ra trước, ngay cả trước khi
người đàn ông đạt đến điểm cực khoái và phóng tinh. Trong trường hợp
này, vẫn có thể thụ thai cho dù phần lớn tinh trùng đã để chảy ra ngoài
âm hộ người nữ. Hơn nữa, ngoài tính chất ít có hiệu quả trên đây, sự
giao hợp giữa chừng nêu lên mối quan tâm luân lý đặc thù.
Trong
cố gắng thực hiện sự tự chủ, hầu như người chồng cảm nhận sự căng thẳng
tâm lý bởi phải để tâm rút (dương vật) ra cho kịp thời kẻo bị vỡ kế
hoạch. Như vậy, người chồng chú ý nhiều đến mình hơn là làm cho vợ mình
vui thú yêu thương, do vậy chị ta thường cảm thấy dồn nén do đã không
đạt tới sự thỏa mãn cao độ.Vì lý do này, cố thần học gia luân lý người
Đức, cha Bernard Haring,[5]
(DCCT)
cho rằng kiểu giao hợp giữa chừng như vậy, nếu được dùng thường xuyên
như là một cách ngừa thai thì “bất tự nhiên hơn bất cứ phương phương
pháp ngừa thai nhân tạo nào khác.” Vì những phương cách ngừa thai khác
không hề phá vỡ tính toàn vẹn tâm-sinh-lý của hành vi vợ chồng.” [6]
2. THUỐC VIÊN NGỪA THAI [7]
Cách đây vài năm, tôi may mắn được đọc một số vài bài viết trong tuần báo NEWSWEEK, phát hành ngày 2 tháng 10, năm 2000, tr. 51. Tựa đề là: “The Long, Winding Road of RU-486,”[8] do
Erika Check. Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra nhận định rằng: “Theo như những cuộc thử nghiệm thì người ta cho thấy rằng, thuốc viên ngừa thai RU-486 còn đựợc biết dưới một danh hiệu khác nữa, đó là ‘Mifepristone‘,
viên thuốc này có khả năng chấm dứt việc “mang thai” một cách an toàn
trong vòng bảy tuần lễ đầu tiên, khi phát hiện có thai. Tuy nói như vậy,
nhưng tác giả cũng còn cho biết thêm rằng, khi sử dụng thuốc viên
RU-486, không phải là nó không có những hiệu quả phụ, tỷ dụ như việc
xuất huyết từ trong tử cung, khi thuốc này đã thành công trục xuất bào
thai ra khỏi vách tử cung. Hiện nay, vấn đề chế tạo và sử dụng loại
thuốc này đang gây nhiều tranh luận tại Mỹ, cũng như nhiều nơi trên thế
giới, trong suốt 18 năm vừa qua (1982-2000). Sự kiện được bắt đầu sau
khi Dr. Etienne-Emile Baulieu đã thành công bào chế thứ thuốc viên
(“ngừa thai!”) RU-486, tại một phòng thí nghiệm ở Pháp vào năm 1980.
Theo
báo chí cho biết thì có lẽ trong tương lai gần đây, chính phủ Mỹ sẽ
phải quyết định là có nên cho phép thuốc ngừa thai RU-486 được điều chế
tại Mỹ hay không. Muốn biết thêm chi tiết, xin quý vị xem tiếp bài viết
của Anna Quindlen, cũng do tuần báo NEWSWEEK, ngày 9 tháng 10, năm 2000 đăng
tải: tựa đề là: “RU-486 And The Right to Choose” “Tạm dịch là – RU-486
Và Quyền Lựa Chọn,” tr. 4. Quan trọng hơn nữa là bài, “The Abortion
Pill – Thuốc Viên Phá Thai,” tr. 60-64, do Pat Wingert và Heather Won
Tesoriero, cũng được đăng ở số báo trên. Cũng như bài viết của Renata
Maderna, tựa đề: “Non è solo una pillola,” (Tạm dịch: “Không chỉ đơn
giản là thuốc viên”) trong nguyệt san Famiglia Cristiana, số 45, phát hành ngày 12 tháng 11, năm 2000, trang 48-49.
Cho nên, trong bài viết này, tôi muốn đề cập đến vai trò của thuốc viên “ngừa thai”,
điển hình là những chức năng cụ thể và hậu quả của những loại thuốc
này, cũng như một cách hết sức khiêm tốn, tôi xin được đơn cử và đưa ra
một vài nhận định về mặt nguyên tắc luân lý khi chúng ta (nếu phải)
chọn lựa và sử dụng các loại thuốc ngừa thai này.
Thuốc ngừa thai có nhiều loại và sử dụng theo nhiều kiểu cách khác nhau, không đơn thuần chỉ để uống. [9] Trong ấn bản mới về trình dược thư (Physician’s Deck Reference) liệt kê ra bốn loại thuốc căn bản.
- Loại thứ nhất gồm những viên có liều lượng cao, chứa đựng những thể tổng hợp về estrogen và progestogen (nghĩa là hợp nội tiết tố), những viên thuốc này uống nhằm mục đích để ức chế rụng trứng hay ngăn chận chủ yếu tiến trình phóng noãn bình thường và do vậy, theo chức năng, chúng được xem như những nhân tố ngăn chận trứng kết tổ, là hình thức triệt sản tạm thời. Nhưng do có liều lượng cao, chúng có thể kéo theo hai hậu quả:
a) Là làm dầy niêm mạc cổ tử cung, ngăn chận không cho tinh trùng thâm nhập vào tử cung;
b)
Là tác động lên nội mạc tử cung sao cho trứng không thể kết ổ hòng có
thể thụ thai nếu đã tiếp xúc với tinh trùng. Cần ghi nhận là loại thuốc
với liều lựơng cao như thế, ngày nay người ta ít còn sử dụng bởi những
hiệu quả phụ và rủi ro quá lớn.
- Loại thuốc thứ hai và thứ ba, gồm những viên thuốc với liều lượng thấp và những viên thuốc liều lượng trung bình; theo tên gọi, cả hai loại chứa đựng liều lượng của estrogen và progestogen ở mức độ thấp. Những viên thuốc này hoạt động giống như những viên thuốc với liều lượng cao, như đã được mô tả ở trên, trừ sự khác biệt là chúng cho phép sự rụng trứng (phóng noãn) xảy ra đều đặn. Sau đó, sự thụ thai được ngăn chặn, phần lớn nhờ bờ thành dầy niêm mạc cổ tử cung bịt kín lối vào tử cung, cũng như nhờ việc trứng bị động không thể kết ổ trong tử cung để hy vọng được đậu thai.
- Loại thuốc thứ tư gồm những viên nhỏ xíu chỉ chứa chất progestogen tác động lên nội mạc tử cung làm cho trứng dầu đã thụ tinh cũng không thể kết tổ.
Mục
tiêu của chúng ta, trong bài này, là xem xét đến những tác dụng khác
nhau của những viên thuốc này trong việc ngừa thai; ví dụ những thuốc
viên thật sự ngăn chận sự rụng trứng được xem như những tác nhân gây nên
sự triệt sản tạm thời, vì chúng can thiệp vào khả năng truyền sinh tổng
quát của người nữ, chứ không ngăn cản trực tiếp đến chính hành vi vợ
chồng. Lẽ đó, những viên thuốc ngăn chận tạm thời tiến trình phóng noãn,
chứ không phải trường kỳ, việc sử dụng nó (thuốc ngừa thai) cần đòi hỏi
sự lý giải về mặt luân lý, như vẫn cần cho việc sử dụng bất cứ hình
thức ngừa thai nào khác. [10] Tuy nhiên, nhiều loại thuốc, đặc biệt những viên bé xíu dầu “được xem là thuốc ngừa
thai”,
nhưng thực chất thay vì ngăn chặn tiến trình thụ thai xảy ra, nó lại
trực tiếp phá hủy trứng đã thụ tinh bằng cách không cho nó định vị vững
chãi trong tử cung; do vậy, những viên thuốc này phải được xem như thuốc phá thai hay là những nhân tố gây nên sự phá thai.
Nói cho chính xác, chỉ có những viên thuốc được gọi là ngừa thai, khi
chức năng thật sự của chúng là vẫn cho sự rụng trứng xảy ra, rồi can
thiệp vào sự thụ thai bằng cách làm dày phần mô mềm của cửa tử cung làm
cho tinh trùng không thể xâm nhập vào bên trong tử cung để gặp trứng.
Người
ta vẫn đặt nhiều kỳ vọng vào những cuộc nghiên cứu nhằm tìm ra những
phương pháp ngừa thai mới. Ở Pháp, một loại thuốc ngừa thai mới đang
trên đà phát triển và đã được thử nghiệm tại dăm bảy quốc gia khác kể cả
Hoa Kỳ. Dưới tên gọi RU-486, viên thuốc này không nhắm mục tiêu ngăn
cản sự phóng noãn, nhưng đúng hơn nó được xếp vào loại “chống hóc-môn
sinh dục” (anti-progesterone), tức là thứ thuốc gây cản trở cho hóc-môn
(= nội tiết tố) có nhiệm vụ lót tử cung để chuẩn bị đón nhận trứng đã
được thụ tinh và giữ trứng đó lại, trong những giai đoạn đầu của thời kỳ
mang thai. Nó ngăn ngừa việc sản xuất và hoạt động của hóc-môn sinh
dục, như thế ngăn cản không cho trứng đã được thụ tinh bám vào thành tử
cung, hoặc đẩy hợp tử đã bám vào thành tử cung ra khỏi đó. RU-486 đang
được coi như phát minh mới của ngành y học. Từ nay, người phụ nữ chỉ cần
uống thuốc ấy bốn ngày trong tháng thôi thì có thể đảm bảo cho việc
ngừa thai, bất kể là trứng đã được thụ tinh hay chưa. Trong khi những
loại thuốc viên ngừa thai thông thường khác, cần phải được uống liên
tiếp từ 21 hay 28 ngày mỗi tháng. Ngược lại, người phụ nữ có thể dùng
thuốc viên ngừa thai “RU-486″ chỉ khi nào nghi ngờ và nghĩ rằng mình có
thai.
Công
việc miêu tả cách thức hoạt động của thuốc viên RU-486 cho thấy rõ
rằng, viên thuốc này không phải là thuốc ngừa thai thực thụ, cũng chẳng
phải là một hình thức triệt sản tạm thời; viên thuốc này không ngăn cản
việc trứng thụ tinh, đúng hơn, nó ngăn chận không cho trứng đã thụ tinh
bám vào thành của tử cung để thực hiện việc làm tổ.
Như thế, RU-486, có thể coi như thuốc phá thai tự bản chất. [11] Về mặt luân lý, phải đánh giá
các loại thuốc như thế cho thích hợp.
Sau
cùng, còn phải đề cập đến sự kiện nhiều quốc gia, trong đó có cả Hoa Kỳ
đang thử nghiệm loại thuốc tiêm ngừa thai, được gọi dưới cái tên Norplant (nội
tiết tố đặt dưới da), vốn khởi phát từ Phần Lan. Norplant gồm 6 ống cao
su hàm chứa 6 liều hợp chất progestin; những ống này được cấy vào cánh
tay của phụ nữ sao cho chất progestin dần dà và tuần tự được tiết ra
trong khoảng thời gian năm năm. Việc làm này có hai hiệu qủa:
1) Ngăn chận sự phóng noãn;
2) Làm dày phần mô mềm cổ tử cung, do vậy ngăn chận tinh trùng không cho vào tử cung.
Người
ta phỏng đoán Norplant sẽ được chấp thuận cho dùng cách rộng rãi với
chi phí phỏng chừng 60 đô la mỹ mỗi năm, như vậy xét về mặt kinh tế thì
người ta chỉ phải chi phí rất ít cho phương pháp ngừa thai này, nếu
đem so sánh thì ước lượng tổn phí trong vòng 5 năm, vỏn vẹn chỉ bằng số
tiền trong vòng 6 tháng, nếu sử dụng những loại thuốc uống ngừa thai
đang có trên thị trường hiện nay.
Do sự đa dạng của nhiều loại thuốc ngừa thai và do tính chất thiếu khẳng định một cách chắc chắn về tác dụng chính xác của chúng[12], cho nên người ta cảm thấy khó lòng nhất trí đánh giá về mặt
luân
lý cho phù hợp. Tuy nhiên, nhờ vào sự khảo-sát cách thận trọng, các bác
sỹ chuyên khoa có thể thẩm định được, viên thuốc loại nào là “thuốc
viên ngừa thai”, nếu quả thực chức năng của nó rõ rệt chỉ là chống lại
sự phóng noãn và ngừa thai thuần túy mà thôi. Do đó, việc sử dụng thuốc
viên ngừa thai, xét về mặt luân lý, không đơn giản, vì như tôi đã dẫn
chứng ở trên là trong số các thuốc viên ngừa thai, có loại trong đó các
chức năng phần lớn của nó vốn là nhằm phá thai, thì theo nhận định của
tôi, là việc không thể chấp nhận về mặt luân lý. Điều mà ta cần phải lưu
ý là hầu hết trong các loại thuốc ngừa thai, đều có tiềm năng phá thai
ít hoặc nhiều, ẩn chứa trong các loại thuốc đó. Tỷ dụ, gần đây các thành
viên thuộc Hội ĐồngY Khoa Hoa Kỳ (American Medical Association = AMA),
phần đông đã bác bỏ đề nghị về việc thông báo cho giới phụ nữ biết rằng
thuốc viên “ngừa thai” RU-486, thực sự có tiềm năng hủy diệt trứng đã
thụ tinh (= hợp tử) bằng cách ngăn cản nó không cho làm tổ nơi vách tử
cung, và vì thế trứng mặc dầu đã thụ tinh nhưng vẫn bị trục xuất ra
ngoài. Thuốc viên RU-486, đầu tiên được nghiên cứu chế tạo tại Pháp, vào
năm 1980 do hãng “Groupe Ruossel Uclaf”, và đến năm 1992 thì loại thuốc
này đã được tung ra ở các thị trường của một số quốc gia, tỷ dụ như:
Pháp, Anh Quốc và Thụy Điển.[13]
Đứng
trước sự kiện này, Ủy Ban Nghiên Cứu về Gia Đình đã chỉ trích Hội Đồng Y
Khoa Hoa Kỳ về hành động thiếu trung-thực và có ý che dấu sự thật về
tiềm năng của loại thuốc viên “ngừa (phá) thai” RU-486. Bác sĩ John
Diggs, một trong những cố vấn của Uy Ban Nghiên Cứu về Gia Đình đã lên
tiếng cảnh báo, và đã đưa ra những lời lẽ như sau: Hội Đồng Y Khoa Hoa
Kỳ đã xúc phạm đến phẩm giá của người phụ nữ, khi họ không thành-tâm chỉ
dẫn cách sử dụng và phân tích rõ ràng về hiệu quả của các loại thuốc
viên ngừa thai. Làm như thế, xét về mặt luân lý, thì họ đã vi phạm lương
tâm nghề nghiệp. [14]
Riêng quí vị nào muốn biết thêm chi tiết liên quan đến những vấn đề
này, tôi đề nghị quí vị nên tham khảo các tin tức mới nhất được đăng tải
trên vietcatholic.net. [15]
Vì
thế, tôi thiết nghĩ, ta nên khuyến khích các cặp vợ chồng cố gắng đi
tìm những phương pháp kế hoạch hóa gia đình khác, hơn là việc sử dụng
thuốc “ngừa thai”, nếu như họ xét thấy (với những lý do chính đáng và
tương xứng, đồng thời với một lương tâm hết sức ngay thẳng), và sau khi
hai vợ chồng đã bàn bạc kỹ lưỡng với nhau, họ đi đến quyết định rằng,
trong hoàn cảnh hiện tại họ cần phải giới hạn việc sinh sản.
Nói tóm lại, tôi cho rằng mọi phương-thức hoặc kỹ-thuật phá thai
phải tránh dùng như là những phương-pháp thông dụng để kế hoạch hóa gia
đình, mặc dầu, như ta sẽ thấy trong phần trình bày về việc phá thai (mà
tôi hy vọng sẽ bàn đến sau này), có những lý lẽ và chứng-cứ y-khoa cho
thấy trong vài ngày hoặc trong 2 tuần lễ đầu tiên, sau khi thụ thai, hợp
tử (trứng đã thụ tinh) đang phát triển chưa thể hoàn toàn trở thành một
nhân vị cá thể. [16] Còn giờ đây, chúng ta hãy xác định với nhau là chính thời khắc thụ tinh, lập tức hợp tử đã có tiềm năng trở thành một nhân vị, và do vậy về mặt luân lý ta không thể coi thường hoặc xem nhẹ tiềm thể đó
(xem Thông điệp Evangelium vitae, số
60), như chúng ta đã từng khẳng định khi nói về noãn (trứng), một khi
đã được thụ tinh, thì người ta không được phép ngăn cản không cho nó kết
tổ, mà bất hạnh thay điều ấy lại là mục tiêu nhắm đến của nhiều phương
pháp ngừa thai.
Cần
ghi nhận thêm ngoài những mối phức tạp và mơ hồ liên hệ đến việc sử
dụng thuốc viên ngừa thai, xét về phương diện luân lý. Vợ chồng cần tìm
ra những lý do đủ để thuyết phục, hầu chọn cho mình một phương thức điều
hòa sinh sản thật hiệu nghiệm. Tranh luận xoay quanh vấn đề an toàn của
thuốc viên ngừa thai thì chưa cấm dứt, dầu vậy, dường như người ta đã
nhất trí cho rằng những phụ nữ trẻ và khỏe mạnh có thể dùng thuốc mà
không gặp trở ngại nào. Dầu vậy, thuốc viên vẫn kéo theo những hậu quả
khó lường, như đôi khi tạo nên đông huyết cục, đau tim, nghẹt thở, và
bác sĩ đã khẳng định mạnh mẽ rằng, phụ nữ hút thuốc và trên 35 tuổi nên
dùng các phương pháp khác để hạn chế sinh sản. Hiển nhiên là các bác sĩ
không thể chỉ định, hoặc cho phép dùng bất cứ loại thuốc viên ngừa thai
nào, nếu chưa biết rõ trước đây – những thân chủ của mình – họ đã sử
dụng những loại thuốc nào, cũng như, nếu chưa khám và theo dõi ít lâu
bệnh nhân của mình. Sau cùng, đôi khi loại thuốc nào đó, được chỉ định
để sử dụng chỉ trên cơ sở ngắn hạn để tránh thai mà thôi, ví dụ để điều
hòa chu kỳ kinh nguyệt, hoặc như là phương thế tạo ra một “kinh kỳ nhẹ
nhàng” hoặc để giảm thiểu chứng co thắt. Những cách dùng thuốc viên
trong những trường hợp nêu trên, không gây ra bất cứ rắc rối luân lý nào
nơi những người phụ nữ vốn không có quan hệ tình dục nào; ngược lại, họ
chỉ cần quan tâm là những viên thuốc ấy chắc chắn không phải là nhằm
phá thai.
4. DỤNG CỤ NGỪA THAI TRONG TỬ CUNG
Việc đặt các dụng cụ ngừa thai khác nhau trong tử cung, I.U.D viết tắt của Intra Uterine Devices,
đang là đề tài bàn cãi sâu rộng, cũng như đang được quan tâm về mặt an
toàn y tế của nó. Rõ ràng đôi khi những dụng cụ này đã tạo ra những hiệu
quả phụ (side effects) khó chịu, tỷ dụ như làm co thắt tử cung hoặc gây
chảy máu nhiều; cũng như hay kéo thêm nguy cơ làm viêm tấy âm hộ
(Pelvic Inflammatoty Disease – PID) dẫn đến làm hư các ống dẫn trứng
khiến phụ nữ bị vô sinh. Do vậy, những dụng cụ này, đặc biệt, được cấm
sử dụng đối với các phụ nữ chưa có con. Cách thức hoạt động chính xác
của những dụng cụ này thì chưa được biết; tuy nhiên thông thường người
ta giải thích như sau: dụng cụ là nguyên nhân khiến cho trứng vừa rời
khỏi buồng trứng di chuyển trong ống dẫn trứng quá mau lẹ đến độ, cho
dẫu đã được thụ tinh, trứng vào trong tử cung mà không thể ở lại lâu
dài; hoặc có thể là dụng cụ đã kích thích nội mạc tử cung (endometrium),
đến độ nó không để yên cho trứng có đủ cơ hội để kết tổ. Cả hai
cách giải thích trên cho thấy dụng cụ ngừa thai trong tử cung không
ngăn cản tiến trình thụ thai hay việc thụ tinh của trứng; nó chỉ ngăn
chận trứng kết tổ tại tử cung, để rồi bất cứ trứng nào cho dẫu đã thụ
tinh vẫn bị tống khứ ra ngoài trong lần có kinh tới.
Việc
dụng cụ ngừa thai trong tử cung không ngăn chận tiến trình trứng thụ
tinh, đã được minh chứng bằng sự xuất hiện của hormon màng ối (Human
Choriogonic Gonadotrophin – HCG), vốn được phát hiện thấy có nơi nước
tiểu của phụ nữ đang bắt đầu có thai. Do vậy ta có thể kết luận là phụ
nữ mang vòng tránh thai vẫn có khả năng để thụ thai, vì trứng vẫn có khả
năng để được thụ tinh khi giao hợp, nhưng việc kết tổ của trứng đã thụ
tinh thì không thể thực hiện được. Như vậy ta phải xem những vòng tránh thai này là dụng cụ phá thai, chứ không phải thuần túy ngừa thai.
Tuy nhiên, nhiều bác sĩ phản bác lại ý kiến này. Theo thiển ý của tôi,
họ đã nhận định không trung thực lắm, khi cho rằng: không thể gọi các
dụng cụ ngừa thai ấy là nhằm phá thai, bao lâu nó chưa trục xuất trứng
đã hoàn toàn kết tổ ra khỏi vách tử cung của người phụ nữ. Cho dầu giới
bác sĩ có lập luận như thế nào đi nữa, thì đa số các thần học gia luân
lý vẫn xem các loại vòng tránh thai là những dụng cụ phá thai và do vậy,
xét về mặt luân lý thì không thể cho phép dùng để kế hoạch hóa gia
đình. Như chúng ta sẽ đề cập đến trong phần nói về vấn đề phá thai,[17] có đủ lý do nghiêm túc để tự hỏi xem, liệu cái trứng vừa mới thụ tinh, có thể được đánh giá như là một nhân vị cá biệt hay chưa.[18]
Đây là một vấn đề đã và đang được tranh luận sôi nổi từ bấy lâu nay
trong các giới thần học gia, và cho đến nay, vẫn chưa có câu trả lời cho
thỏa đáng. Tuy nhiên về câu hỏi này, tôi vẫn cho rằng, chúng ta không
được phép quên rằng: ngay từ lúc thụ tinh, đã xuất hiện một hữu
thể có đủ tiềm năng để trở nên một con người, và chúng ta phải tôn
trọng, bảo vệ và chăm sóc cho hữu thể đầy tiềm năng này. Nếu
chẳng may có gì xảy ra, thì phải cân nhắc cho cẩn thận, họa hiếm lắm mới
được tự ý phế bỏ hay hủy đi; như thế khi sử dụng vòng tránh thai, thái
độ để làm triệt tiêu một khả thể con người đã quá rõ rệt, không cần cân
nhắc hơn thiệt, thì rõ ràng người ta đã chủ động chọn giải pháp tống khứ
trứng cho dù đã thụ tinh vào kỳ kinh nguyệt sắp tới. Một thiệt hại như
thế không thể được luân lý chuẩn nhận.
5. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP NGỪA THAI KHÁC.
Những
dụng cụ ngừa thai còn lại, bao gồm những dụng cụ làm ngăn chặn tại cổ
tử cung không cho tinh trùng có thể gặp trứng để có thể thụ tinh, như
bao cao su, màng chắn, mũ chụp cổ tử cung và những loại thuốc có dạng
kem đặc hay chất lỏng nhằm để diệt tinh trùng. Những dụng cụ khác nhau
này có tiện ích là khi được sử dụng cẩn thận và kiên trì, chúng mang lại
hiệu quả khá cao (90-95%), và hiệu quả còn có thể đạt đến mức tuyệt
đối, khi biết đồng thời phối hợp chúng với nhau (ví dụ dùng bao cao su
hay màng chắn với loại kem diệt tinh trùng); trừ màng và bao chụp cổ tử
cung phải dùng sao cho vừa vặn, thích hợp riêng từng phụ nữ, còn các
loại khác đều tiện lợi, không cần phải chỉ bảo phức tạp gì thêm, nói
chung, chúng đều an toàn và ít kéo theo những hiệu quả hay phản ứng phụ.
Thường
thường người ta có thể phàn nàn về những dụng cụ ngăn chận này, là
chúng bất tiện quá, hoặc chúng làm giảm khoái cảm, hoặc chúng quá máy
móc đối với tính tự phát của mối liên hệ tính giao, như người nữ cần
được chuẩn bị kỹ trước và người nam cần đạt tới sự cương cứng trước khi
xỏ bao cao su. Mặc dầu có những than phiền này. Tuy nhiên, những phương
pháp ngăn chận kể trên ít gặp những điểm khó khăn về mặt luân lý và y
học, cho những người vốn cho rằng: chúng được biện minh đầy đủ về mặt
luân lý nhằm ngăn chận khả năng truyền sinh của hành vi giao hợp. Do hai
lý do: một là khi được sử dụng đúng cách, những phương pháp ngăn chận
này tránh cho người ta gặp nhiều phản ứng phụ, nhưng lại đạt được những
hiệu quả cao; thứ hai những phương pháp này rõ rệt có chức năng ngừa
thai, ngăn chận trực tiếp sự thụ thai, và do vậy chúng ít nêu lên vấn đề
luân lý như những dụng cụ ngừa thai được đặt trong tử cung hay thuốc
viên vốn chức năng được xem như để phá thai. Ước mong rằng mỗi vợ chồng
khi phải chọn lựa một phương pháp ngừa thai, họ cần tự vấn lương tâm và
cố gắng tránh xa bất cứ dụng cụ hay loại thuốc nào là nguyên nhân dẫn
đến việc phá thai.
6. KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH CÁCH TỰ NHIÊN
Như
đã được trình bày trước đây, nhiều nhà thần học Công Giáo vẫn tin rằng,
vợ chồng có thể tự mình mang trách nhiệm và được luân lý cho phép việc
giao hợp có ý ngừa thai. Hơn nữa, có người xem sự tiết dục định kỳ như
là một cảm nghiệm dồn nén lên tâm lý và cảm xúc của vợ chồng, có nguy cơ
gây đổ vỡ cho đời sống hôn nhân của chính họ và do vậy ảnh hưởng lên
hạnh phúc của con cái. Đây không phải là điều quan tâm không chính đáng,
dầu vậy, phương pháp tiết dục định kỳ này vẫn xứng đáng để chúng ta
quan tâm đặc biệt hơn nữa.
Ta
không thể chối cãi là ngày nay những phương pháp nhằm đánh giá chính
xác thời gian người nữ có thể mang thai đã được đẩy tới mức tối tân và
hiệu quả. Nếu vợ chồng muốn chậm có có con, muốn biết khi nào có thể thụ
thai, khi nào không, họ có thể đặt kế hoạch hay dự trù trước bằng một
cách thức đơn giản, ngang qua việc tham chiếu chu kỳ kinh nguyệt của
người vợ, bằng cách ghi chú những ngày trong tháng mà người vợ bắt đầu
xuất hiện có kinh và khi kết thúc. Sau đó, có thể đem so sánh với những
chu kỳ cũ trước đây, để xem có sự trùng hợp hay thay đổi về chu kỳ kinh
nguyệt của vợ mình, và do vậy sẽ khám phá ra những thời gian mà vợ
mìnhcó thể thụ thai được. Nếu như vợ chồng muốn tránh thụ thai thì trong
thời gian này, cần phải kiêng cữ việc giao hợp.
Ngày
nay, tính đều đặn hay không điều hòa của chu kỳ kinh nguyệt không còn
là việc quá phải bận tâm để thực hành tiết dục định kỳ nữa. Bởi người
phụ nữ có thể khám phá ra ngay, bằng việc tự theo dõi hàng ngày, dựa
theo những thay đổi khác nhau của cơ thể, đặc biệt những trạng thái thay
đổi khi đang có tiến trình rụng trứng. Nhiều kỹ thuật đa dạng cho phép
người nữ tự làm quen với những dấu hiệu sinh lý xảy ra giữa những kỳ có
thể thụ thai và những thời kỳ vô sinh. Một kỹ thuật tạo nhiều thanh thế
và rất uy tín, mà ta quen gọi là phương pháp xác định ngày rụng trứng
hay “Phương pháp Billings”. Các bác sĩ John và Evelyn Billings
đã quan sát và sau nhiều cuộc nghiên cứu họ đã đưa ra nhận định như thế
này: “hễ khi thấy nơi màng nhầy trong âm hộ phụ nữ có chất nhờn, là dấu
chỉ đáng tin cậy cho những thay đổi nội tiết khi xảy ra hiện tượng rụng
trứng.” Người phụ nữ được chỉ bảo cách rành rọt và đơn giản để làm sao
có thể dùng phương pháp này, và hiện nay có một nhóm thiện nguyện quốc
tế, của bác sĩ Billings (viết tắt là WOOMB) tình nguyện nhằm để phổ biến
và thông tin về Phương Pháp Quan Sát Trứng Rụng.
Mô tả cơ bản của phương pháp xét ngày trứng rụng để khám phá ra thời gian có thể thụ thai dựa trên mấy điểm sau :
1)
Lúc bắt đầu có kinh là khởi đầu cho một chu kỳ mới, được xem là lúc có
thể thụ thai. Lý do là vì người nữ có thể có một chu kỳ kinh nguyệt
không điều hòa hoặc quá ngắn ngủi, đến độ tiến trình rụng trứng đã bắt
đầu ngay trước lúc chấm dứt ra kinh. Người đó có thể không nhận ra rõ
rệt tiến trình này bởi vì đang hành kinh, làm cho người ấy khó quan sát
sự xuất hiện của chất nhờn. Vì thế, theo sự khôn ngoan, ta nên cẩn mật
và đề phòng xem giai đoạn đang có kinh, là thời gian có thể thụ thai.
2) Sau kinh kỳ, người nữ cảm nhận một sự khô ráo rõ rệt. Trong thời gian này, người nữ vô sinh tự nhiên.
3)
Sau thời kỳ khô ráo, nơi cửa mình, người phụ nữ cảm thấy sự xuất hiện
của một thứ chất nhờn dinh dính, trong suốt, tựa như lòng trắng trứng.
Chất nhờn ra nhiều nhất, đạt tới “đỉnh điểm” là ngày cuối cùng của thời
gian rụng trứng. Dầu vậy, người ta thường xác định thời gian dễ thụ
thai, được bắt đầu vào ngày thứ nhất khi chất nhờn mới xuất hiện và kéo
dài thêm ba ngày sau, là lúc mà chất nhờn ra nhiều nhất.
4)
Và sau cùng, kể từ ngày thứ tư sau ngày ra chất nhờn nhiều nhất cho tới
kỳ kinh nguyệt sau, lại là thời kỳ vô sinh.
Tóm
lại, hiểu biết ý nghĩa những thay đổi của nội tiết âm đạo, người nữ tự
khám phá ra những khác biệt trước lúc rụng trứng, ngay lúc trứng rụng và
sau khi rụng trứng nơi chính vị trí cửa tử cung của mình. Quen quan sát
và tường tận để ý, người nữ sẽ nắm vững thông tin về thời khắc dễ thụ
thai của mình. Dĩ nhiên, cần lưu ý là không người nữ nào dám mạo hiểm sử
dụng phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên này (Phương pháp Billings)
trừ phi họ đã được các chuyên gia chỉ bảo cho tinh tường. Dẫu sao,
phương pháp này cũng dễ học, và nhiều giáo phận (ở các nước Tây phương)
đã cho mở nhiều khóa học, bao gồm hai giai đoạn, cách nhau sáu tuần lễ.
Hiểu biết phương pháp này sẽ giúp ích rất nhiều, không chỉ cho những cặp
vợ chồng muốn làm chậm lại tiến trình thụ thai, mà nó còn giúp ích cho
những cặp vốn đã khó đậu thai. Đối với những cặp vợ chồng khó thụ thai,
việc hiểu biết thời gian trứng rụng sẽ giúp họ tập chú và cố gắng để làm
sao có thể thụ thai.
Bởi
thành công và hiệu quả của phương pháp này, phần lớn dựa trên mục tiêu
nhắm đến và sự cộng tác chặt chẽ giữa hai vợ chồng, cho nên cần khuyến
khích họ tham dự các khóa học hỏi. Riêng đối với cá nhân tôi, tôi mong
ước phải chi chúng ta có thể tổ chức học hỏi về phương pháp này cho các
khóa dự bị hôn nhân. Một khi những người này đã hiểu biết phương pháp,
và nếu giả như họ có dăm bảy tháng trước khi kết hôn mà thủ đắc được
những kinh nghiệm quí báu của phương pháp này. Tôi tin rằng những người
trẻ mới lấy nhau sẽ biết ứng dụng phương pháp và cảm thấy tự tin trong
thực hành. Đương nhiên, có thể xảy ra do tình hình “sung mãn” của tình
yêu đôi lứa mới vừa kết hôn, cho nên những ngày, tháng, năm đầu tiên rất
khó thích hợp cho họ ứng dụng phương pháp tiết dục tự nhiên này. Tuy
nhiên, tôi vẫn nghĩ phương pháp trên (The Billings Method) vẫn sinh ích
và những cặp bạn trẻ mới cưới nhau vẫn đủ quảng đại để hoàn thành.
Những tiền đề của những phương pháp tân thời để kế hoạch hóa gia đình cách tự nhiên mang đến một số nhận định thuận lợi như sau:
(1)
Bởi vợ chồng phải biết cân nhắc hơn thiệt và biết cùng nhau cộng tác
trong việc sử dụng những phương pháp như trên, điều ấy cho thấy rõ rệt
trách nhiệm gia đình đều phụ thuộc vào cả hai vợ chồng.
(2)
Như hiệu quả của ý thức được gia tăng cùng với sự nhạy cảm chú ý tới
thân xác về những chu kỳ sinh học tự nhiên của mình, nhiều người nữ cảm
nhận mình được tăng cường bởi ý thức về nhân phẩm phụ nữ. Mặt khác, cũng
cần ghi nhận có vài phụ nữ than phiền là nhu cầu cần phải để ý đến chất
nhờn nơi âm đạo hoặc dò tìm chính xác vị trí cổ tử cung ở đâu khiến cho
họ ngại ngùng về phương diện thẩm mỹ; bao lâu thái độ ấy vẫn còn, thì
bấy lâu những phụ nữ trẻ này khó lòng mà ứng dụng phương pháp trên cho
hiệu quả được.
(3)
Vì nhu cầu cần phải tiết dục định kỳ trong cuộc sống của ho, khiến cho
vợ chồng biết khám phá và đào sâu chiều kích yêu thương trong cuộc sống
chăn gối của họ, đến độ họ cảm nhận ra sự hoàn thiện của cuộc sống sinh
lý đích thật và của con người. Ngay cả khi những biểu lộ yêu thương của
họ cố ý không dính dấp gì tới khía cạnh sinh dục vốn tạo ra những cảm
giác cực khóai.
(4)
Sau cùng, sự tiết dục định kỳ có thể cho phép vợ chồng không phải rơi
vào tình trạng nạn nhân của thói quen đều đặn hưởng thụ sinh lý cách mù
quáng. Sự hòa nhập vui tươi nối lại các liên hệ “tính giao” sau thời
gian tiết dục, có thể gợi cho vợ chồng càng thêm hứng khởi và những hành
vi yêu thương của họ trở nên sống động và không ngừng sáng tạo thêm nữa[19].
Những
điều dè dặt cần nói về phương pháp ngừa thai tự nhiên này , không phải
trên vấn đề hiệu quả, nhưng đúng hơn là trên những bất ưng khó lường
thấy trước trong cuộc sống thường nhật khiến cho “tiết dục định
kỳ/cóthời hạn” trở thành “vô thời hạn”. Nói cách khác, trong những thời
gian vô sinh, xảy ra hoàn cảnh, là vợ chồng cảm thấy sinh hoạt “chăn
gối” là điều không thể được, không thích hợp hay không thể nghĩ đến. Ví
dụ, một trong hai người phối ngẫu bị ốm, hay họ phải chú ý chăm sóc con
cái bệnh hoạn hoặc gặp rắc rối tại sở làm hay tại nhà; hoặc có thể do
một trong hai người phải vắng mặt do phải đi làm xa, hoặc bà con đột
xuất đến thăm và sự sắp đăt ngủ nghỉ như trước bị xáo trộn. Khả thể thì
có nhiều đấy, nhưng hậu quả thì chỉ có một: thời gian vô sinh qua đi,
lại tới thời kỳ dễ bị thụ thai đang tới, và vợ chồng phải chờ cho đến
giai đoạn “an toàn” sắp tới.
Vài
nhà luân lý cho rằng những nhận định thực tế kiểu như trên, là không
xứng hợp cho quá trình dấn thân quyết định luân lý, mà vợ chồng phải
tiến hành trước khi chọn bất cứ phương pháp kế hoạch hóa gia đình nào.
Hơn nữa, họ cho rằng những kiểu ngừa thai tự nhiên tân thời là rất hiệu
quả cho những cặp vợ chồng biết cân nhắc chính chắn. Tuy nhiên, những
nhà luân lý đó lại không lấy làm ngạc nhiên, là đối với nhiều vợ chồng
“sự hiệu quả đó” được xem như đã phải trả giá quá đắt, trong mức độ nó
tạo nên sự căng thẳng quá mức trên mối thông hiệp hôn nhân và cuộc sống
hòa hợp gia đình của họ. Chính vì lý do đó, mà một số các thần học gia
luân lý khác đã nhận định rằng: nhiều cặp hôn nhân thích dùng môt trong
những phương pháp ngừa thai nào đó, hơn là những cách được Giáo Hội
chuẩn nhận chính thức, và do vậy họ phải chịu cảnh sống vô kỷ luật hoặc
bị coi như là những con chiên lạc.
L.mục. Trần Mạnh Hùng, C.Ss.R
Goody Bioethics Centre, Western Australia.
Email: phtran-ljgbc@iinet.net.au
PHẦN PHỤ LỤC: Sau đây là lời phi lộ, của một bác sĩ đã từng thực tập tại bệnh viện phụ sản Từ Dũ ở Sài Gòn, đã được ghi chép lại.
NẠO PHÁ THAI
I) ĐỊNH NGHĨA:
- Điều hòa kinh nguyệt: thực chất đây là phương pháp phá thai sớm và được gọi bằng nhiều tên khác nhau: hút điều hòa kinh nguyệt (menstrual regulation), hút tối thiểu (minisuction), hút tạo kinh nguyệt (menstrual extraction).
- Nạo phá thai: đây là phương pháp đình chỉ thai nghén, chủ động qua đường âm đạo. Thủ thuật được tiến hành bằng cách nong cổ tử cung để gắp thai và nhau thai, sau đó, nạo sạch buồng tử cung. Trên nguyên tắc, chỉ được nạo phá thai khi thai còn nhỏ dưới 12 tuần.
II) TAI HẠI:
1) Ngay khi vừa nạo thai xong:
- Băng huyết;
- Vỡ tử cung;
- Nhiễm khuẩn tử cung, gây tổn thương đường sinh dục.
2) Lâu dài sau lần nạo thai:
- i. Có thể gây ra tình trạng triệt sản, không thể có thai nữa.
- ii. Nếu có thai, thì tử cung đã bị chai và đơ, rất khó sanh.
- iii. Có thể gây băng huyết sau khi sanh.
Trong
các tại hại nêu trên, nổi bật lên nguy cơ bị băng huyết sau khi nạo
thai hoặc băng huyết sau khi sanh, vì nạo thai chính là nguyên nhân chủ
yếu gây ra băng huyết. Chúng ta khảo sát kỹ các biến chứng do băng huyết
gây ra như sau:
- Tăng thể tích phần đáy tử cung lên cao dần, to bề ngang và mềm nhão, rất dễ bị tổn thương.
- Nguy hiểm nhất là chảy máu. Có thể máu vừa chảy ra ngoài vừa đọng lại trong buồng tử cung. Máu đỏ tươi lẫn với máu cục hoặc chảy từng giọt, cứ mỗi cơn co lại thì lại tống máu cục ra ngoài. Sản phụ sẽ bị mất máu cấp tính. Da và niêm mạc xanh hay trắng bệch, tay chân lạnh, khát nước vật vã, vẻ mặt hoảng hốt, mạch tim đập nhanh, huyết áp tụt. Nếu không phát hiện kịp thời, sản phụ sẽ bị trụy tim mạch, choáng nặng đưa đến tử vong, hoặc do lượng máu mất quá nhiều sẽ đưa đến rối loạn đông máu.
- Hội chứng Shechan: gầy ốm, rụng tóc, mất sữa, mất kinh nguyệt do hoại tử tuyến yên.
- Nhiễm trùng hậu sản.
- Suy thận trầm trọng.
- Viêm tắt tĩnh mạch.
- Nhiễm khuẩn máu đưa tới 100% tử vong vì ung thư máu.
- Viêm tử cung toàn bộ đưa tới 100% tử vong vì ung thư tử cung.
- Viêm phúc mạc toàn bộ: xảy ra trong khoản ba tới bốn ngày sau khi nạo do bị nhiễm khuẩn bộ phận sinh dục. Mắt trũng, môi khô,
mạch
tim đập nhanh, thân nhiệt cao, nôn mữa, đau bụng dữ dội, bí trung đại
tiện, âm đạo viêm to, hết sức đau đớn. Từ đó, vùng bị viêm sẽ tạo ra mủ,
mủ lại chảy ngược vào ổ bụng gây ra viêm phúc mạc, đưa tới thủng tử
cung đột ngột, rất dễ bị tử vong.
III) THẢM TRẠNG:
Tại khoa sản, phòng khám nạo thai bệnh viện Từ Dũ, trung bình
mỗi
ngày có trên 30 phụ nữ đến nạo phá thai. Số nạo phá thai gấp ba lần tỷ
lệ số sinh. Có khi thai bị phá quá trễ, tình trạng giống như sinh non,
đứa bé bị trục xuất ra ngoài bất khóc to, liền bị úp mặt xuống một chiếc
gối cho chết ngạt. Lại có những đứa bé như linh cảm sẽ bị giết, đã
không chịu bị trục ra ngoài tử cung, bác sĩ đã điềm nhiên dùng kềm, kéo
và dao đưa vào tử cung, cắt vụn em bé để gắp ra từng phần.
Đa
số những phụ nữ phá thai tỏ ra rất dững dưng, cho đây là một phong trào
tốt cần phải làm, hơn nữa, còn được … thưởng! Lương tâm họ đã thành
chai đá, có người đã nạo đến 5, 6 lần. Đặc biệt phải kể đến tình trạng
phá thai của các cô gái vị thành niên. Hiện tại trong một năm, ở Việt
Nam có gần 30.000 vụ phá thai của riêng độ tuổi từ 13-17.
Bản
thân tôi (bác sĩ thực tập) đã phỏng vấn 3 người vào nạo thai (một người
mang thai 3 tháng, và hai người mang thai 2 tháng). Tôi hỏi: “Tại sao
chị lại đi nạo thai?” Chị thứ nhất trả lời: “Vì tôi sợ lại sanh con
gái”. Một chị khác: “Gia đình tôi nghèo quá, sợ không nuôi nổi”. Chị thứ
ba thì thản nhiên bảo: “Vì tôi thích nạo, quen rồi!
[1] . Xin xem lời phi lộ của một bc sĩ đ từng lm việc tại một bệnh viện ở Si Gịn, ở phần phụ luc – cuối bi viết.
[2]. Những con số trn trích trong Tuần bo Newsweek, 11 thng 3 năm 1985, tr. 70.
[3] John P. Boyle, The Sterilization Controversy, A New Crisis for the Catholic Hospital? (New York, 1976).
[4]
. Giáo hội Công Giáo chủ trương rằng, những người chưa lập gia đình mà
hiện nay đang áp dụng phương thức triệt sản, có thể hợp pháp kết hôn,
miễn là trước ngày kết hôn người ấy buộc theo lương tâm phải cho người
phối ngẫu tương lai biết về tình trạng đang triệt sản của mình.
[5]
. Cha Bernard Haring, C.Ss.R, trước khi qua đời tại Đức (thng 7 năm
1997), từng l cựu giảng sư thần học lun lý lỗi lạc tại Alphonsian
Academy, Roma, trong suốt gần 3 thập nin (1960 – 19990).
[6]. Bernard Haring, C.Ss.R., Love is the Answer. (New Jersey, 1970), tr. 91-2.
[7] . Bài này đã được đăng trên vietcatholic.net – hôm thứ hai, ngày 17.12.2001
http://vietcatholic.net/news/data/10405.htm. Và đã được phổ biến trên Nguyệt San Dân Chúa Úc Châu, số 89, tháng 2 & 3, năm 2002, trang 86 – 88 & 96.
[8] . Tơi mạn php phỏng dịch l: “Hnh trình cam go của thuốc vin RU-486.”
[9]
. Muốn biết thm chi tiết xin quí vị tham khảo bi viết của Kristine M.
Severyn, R.Ph., Ph.D. “Abortifacient Drugs and Devices: Medical and
Moral Dilemmas,” Linacre Quarterly 57(August 1990): 50 – 67.
[10]
. Điều này, tôi sẽ trình bày tỉ mỷ hơn, khi chúng ta đề cập đến những
phương pháp và kỹ thuật ngừa thai – tự nhiên cũng như nhân tạo, trong
bài viết về Ngừa Thai – Phần IV.
[11] . Xem Erika Check, “The Long, Winding Road of RU-486.” Trong tuần bo: NEWSWEEK, pht hnh ngy 2 thng 10, năm 2000, tr. 51.
[12]
. Theo nguồn tin của Vietcatholic News, trích dẫn từ CWNews.com, loan
bo hơm thứ năm, ngy 13 thng 12, 2001, thì một số thnh vin của Hội Đồng Y
Khoa Mỹ (American Medical Association = AMA) đ đưa ra lập luận nhằm
biện minh cho hnh động chống lại việc thơng bo cho cc phụ nữ biết l
thuốc “ngừa thai” (RU-486) cĩ tc dụng ph thai, viện lẽ như sau: l hiện
nay khơng cĩ đủ bằng cớ chứng minh khoa học để cho rằng thuốc ngừa thai
cĩ khả năng thực sự, hũy hoại cc phơi.
[13] . Xem NEWSWEEK, phát hành ngày 2 tháng 10, năm 2000, tr. 51. Tựa đề là: “The Long, Winding Road of RU-486.” Do Erika Check.
[14]
. Xem “Hội Y Sĩ Hoa Kỳ bỏ phiếu chống việc cho phụ nữ biết thuốc ngừa
thai cĩ tc dụng ph thai.” Trang thơng tin của Vietcatholic News – Thứ
năm ngy 13 thng 12, 2001. http://vietcatholic.net/news/displaynews.asp?ID=10334.
[15] . “Các Đức Giám Mục Hoa Kỳ chỉ trích việc chuẩn y cho bán thuốc phá thai – http://vietcatholic.net/news/displaynews.asp?ID=3387; Các Giám Mục Gia nã Đại mô tả thuốc phá thai là thuốc giết người -http://vietcatholic.net/news/displaynews.asp?ID=3297; Viện Bào Chế Searle có thể ngăn cản thuốc phá thai RU-486 -
[16]. Quí vị đọc giả nào muốn tìm hiểu sâu xa hơn nữa, xin tham khảo bài viết : Mầm Phôi: và khía cạnh luân lý của nó? Do Linh muc Trần Mạnh Hùng, C.Ss.R., đăng trên http://vietcatholic.net/news/data/9295.htm
[17] . Tơi hy vọng sẽ trình by với quí vị đọc giả trong những bi viết kế tiếp.
[18]
. Tơi đ đề cập đến vấn đề ny trong một bi khảo luận, tựa đề l “Mầm Phơi
v Khía Cạnh Lun Lý của Nĩ?” m tơi đ cho đăng trn bo Nguyệt San Dn Cha
Mỹ Chu, số 286, pht hnh vo thng 12, năm 2000. Trang 16-20.
[19]. Benedict M. Ashley, O.P. v Kevin D. O’Rourke, O.P. Health Care Ethics : A Theological Analysis. (St Louis: The Catholic Hospital Association, 1978), tr. 278.
0 Nhận xét