Chương IX
CON NGƯỜI TRỞ THÀNH HÌNH ẢNH
CỦA THIÊN CHÚA QUA SỰ HIỆP THÔNG NGÃ VỊ
1.
Qua chuyện kể của sách Sáng Thế, chúng ta đã nhận thấy rằng con người
được tạo dựng cách “dứt khoát” trong cuộc tạo dựng nên sự hợp nhất của
hai hữu thể. Sự hợp nhất (unity) hay duy nhất tính của họ biểu thị trước hết ở sự đồng nhất của nhân tính; ngược lại, lưỡng thể tính (duality) thì lại biểu thị qua cái làm nên nam tính và nữ tính
của con người được tạo dựng trên cơ sở sự đồng nhất nhân tính đó. Chiều
kích hữu thể học của duy nhất tính và lưỡng thể tính này cũng đồng thời
có một ý nghĩa về giá trị học. Từ đoạn St 2,23 và toàn thể ngữ
cảnh, người ta thấy rõ ràng con người đã được tạo dựng như một giá trị
đặc biệt trước mặt Chúa («Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là
rất tốt đẹp»: St 1,31). Nhưng con người cũng là một giá trị đặc
biệt cho chính con người: trước hết bởi vì con người là «người»; thứ
đến bởi vì “người nữ” là cho người nam, và ngược lại, “người nam” là để
cho người nữ. Trong khi chương đầu của sách Sáng thế diễn tả giá trị này
theo hình thức thuần túy thần học (và một cách gián tiếp theo bình diện
siêu hình), thì ngược lại, chương hai, có thể nói được là, biểu lộ kinh nghiệm sống của con người xét như là một giá trị.
Kinh nghiệm này đã được ghi khắc trong ý nghĩa của sự đơn độc nguyên
thủy, và kế đến trong toàn bộ trình thuật sáng tạo con người, nam cũng
như nữ. Đoạn văn St 2,23, tuy ngắn ngủi nhưng súc tích và chứa
đựng những lời thốt lên từ miệng người đàn ông thứ nhất khi người ấy
nhìn thấy người phụ nữ vốn được tạo dựng bằng cách «được rút từ mình ra».
Đoạn văn ấy có thể được coi như là nguyên mẫu thánh kinh của (sách)
Diễm tình ca, bản tình ca của mọi bản tình ca. Và nếu ta có thể đọc thấy
những ấn tượng và cảm xúc qua những lời lẽ ấy, những lời vốn cách xa
chúng ta là thế, thì ta cũng có thể dám nói rằng cái cảm xúc đầu tiên và
«nguyên thủy» ấy, khi người đàn ông đứng trước mặt người phụ
nữ xét như một con người khác (nhân tính) và như một người khác giới (nữ
tính), thật mạnh mẽ và sâu sắc, và như là một điều gì duy nhất và độc
đáo.
2. Như thế, sự hợp nhất nguyên thủy bộc lộ ý nghĩa như là một sự vượt qua biên giới của nỗi cô đơn nhờ có giới tính khác biệt (nam tính và nữ tính), và đồng thời, đó như là một lời khẳng định đối với cả hai người nam-nữ về tất cả những gì là cốt yếu làm nên «con người» trong đơn độc. Trong trình thuật kinh thánh, sự đơn độc là lối dẫn đến sự hợp nhất, mà theo Vatican II chúng ta có thể định nghĩa như là sự hiệp thông các ngôi vị[1]. Như chúng ta đã nhận xét trước đây, trong sự đơn độc nguyên thủy của mình con người nhận thức được mình là một ngôi vị trong tiến trình «phân biệt» mình với tất cả các sinh vật (animalia) và đồng thời, trong nỗi cô đơn này, con người mở ra đón nhận một hữu thể khác giống như mình, được sách Sáng thế (2,18.20) xác định như là «trợ tá tương xứng với nó». Để con người thành như là nhân vị, việc mở ra ấy có tính quyết định không kém, thậm chí còn hơn sự «phân biệt». Trình thuật yahvit cho chúng ta thấy sự đơn độc của con người không chỉ như là một sự khám phá đầu tiên về tính chất siêu việt đặc biệt độc đáo của một ngôi vị, mà còn như là sự khám phá về một tương quan đầy đủ “với” ngôi vị. Và bởi thế, sự đơn độc biểu lộ một nỗi khao khát và mở ngỏ hướng đến sự «hiệp thông các ngôi vị».
Người ta cũng có thể dùng từ “cộng đồng” ở đây, nếu như nó không khái quát và không mang quá nhiều nghĩa. Từ «hiệp thông» diễn tả được nhiều hơn và chính xác hơn, vì nó chỉ đúng «sự trợ giúp», theo một nghĩa nào đó từ này xuất phát từ chính sự kiện hiện hữu như một người «bên cạnh» một người. Trong trình thuật kinh thánh tự thân sự kiện này trở thành hiện hữu của một người «cho» một người, bởi lẽ trong sự đơn độc nguyên thủy, con người, cách nào đó, đã ở trong tương quan này rồi. Điều này đã được chính sự đơn độc xác nhận theo một nghĩa tiêu cực. Hơn nữa, sự hiệp thông ngã vị ấy chỉ có thể hình thành dựa trên cơ sở hai kẻ đơn độc, một nam và một nữ, nghĩa là như một cuộc gặp gỡ nhau giữa hai người trong khi họ nhận ra mình «khác biệt» với thế giới muôn loài (animalia), đó là điều đã cho cả hai người cái khả năng hiện hữu đặc biệt cho nhau. Ý niệm «trợ tá» cũng diễn tả tính tương trợ này trong cuộc sống con người, điều mà không có loài sinh vật nào khác có thể bảo đảm có được. Tất cả những gì làm nền tảng cấu thành nên sự đơn độc của mỗi người đều cần thiết cho sự tương trợ này, bởi thế khả năng tự nhận thức chính mình và tự xác định bản thân mình, tức là chủ thể tính và khả năng nhận thức ý nghĩa của thân xác mình, cũng hết sức quan trọng.
3. Trình thuật tạo dựng con người trong chương thứ nhất ngay từ đầu khẳng định trực tiếp rằng con người được tạo dựng có nam có nữ theo hình ảnh của Thiên Chúa. Ngược lại, trình thuật của chương thứ hai không nói đến «hình ảnh của Thiên Chúa», mà theo cách riêng của mình cho thấy rằng việc tạo dựng con người (trước hết phải qua kinh nghiệm cô đơn nguyên thủy) cách trọn vẹn và dứt khoát được biểu lộ qua việc sinh ra sự «hiệp thông các ngôi vị» do người nam và người nữ tạo nên. Như thế, trình thuật yahvit ăn khớp với nội dung của chương thứ nhất. Ngược lại, nếu ta cũng muốn rút ra từ trình thuật yahvit ý niệm «hình ảnh Thiên Chúa», thì ta có thể suy diễn rằng con người trở nên «hình ảnh và họa ảnh» của Thiên Chúa không chỉ qua nhân tính của mình, mà còn qua sự hiệp thông các ngôi vị, mà người nam và người nữ đã hợp thành ngay từ ban đầu. Hình ảnh có chức năng phản chiếu người mẫu, tái tạo lại nguyên mẫu của mình. Con người trở nên hình ảnh của Thiên Chúa không chủ yếu do yếu tố đơn độc cho bằng do nơi sự hiệp thông. Thật vậy, ngay «từ thuở ban đầu» con người không chỉ là hình ảnh phản chiếu một Ngôi vị đơn độc thống trị thế giới, nhưng còn là, và chủ yếu là hình ảnh của một sự hiệp thông các Ngôi vị thần linh khôn dò.
Như thế, trình thuật thứ hai có lẽ cũng chuẩn bị giúp cho ta hiểu khái niệm tam vị «hình ảnh của Thiên Chúa», mặc dù khái niệm hình ảnh này chỉ xuất hiện trong trình thuật thứ nhất. Hiển nhiên điều này không phải là không có ý nghĩa đối với thần học về thân xác, nói cho đúng, nó tạo nên khía cạnh thần học sâu xa nhất hơn tất cả những gì người ta có thể nói về con người. Trong mầu nhiệm tạo dựng – trên cơ sở sự đơn độc nguyên thủy và căn bản của mình – con người đã được phú ban cho một sự hợp nhất sâu xa qua thân xác giữa những gì nơi mình là nam tính và những gì nơi mình là nữ tính. Ngay từ thuở ban đầu Thiên Chúa đã tuôn đổ phúc lành của sự phong nhiêu liên hệ đến sinh sản trên tất cả những điều đó (x. St 1,28).
4. Như thế, chúng ta gần như đang ở ngay trung tâm của thực tại nhân học có tên gọi là “thân xác”. Câu St 2,23 lần đầu tiên nói trực tiếp về điều ấy với những lời sau đây: «xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi». Người đàn ông thốt lên những lời đó, như thể chỉ khi nhìn thấy người phụ nữ thì anh mới có thể xác định và gọi đích danh cái điểm chung rõ rệt làm họ tương xứng với nhau, và đồng thời nó cũng biểu thị nhân tính. Nhờ sự soi sáng của phân tích trước đây về mọi «thân xác» mà con người đã tiếp xúc và xác định bằng cách gọi tên chúng («animalia» - các sinh vật), diễn ngữ «thịt bởi thịt tôi» có nghĩa chính xác là: thân xác biểu lộ con người. Công thức cô đọng ấy đã hàm chứa tất cả những gì mà các khoa học nhân văn có thể nói đến, như về cấu trúc của thân xác xét như cơ thể, về sức sống của thân xác ấy, về sinh lí học đặc thù của nó ... Trong lời diễn tả đầu tiên «thịt bởi thịt tôi» ấy của người đàn ông, còn hàm chứa sự tham chiếu đến một yếu tố nhờ đó thân xác ấy đích thực là người, và bởi đó nó quyết định con người là một ngã vị, nghĩa là một hữu thể với thân xác toàn vẹn của mình «giống» Thiên Chúa [2].
5. Chúng ta gần như ở ngay trung tâm điểm của thực tại nhân học mang tên là «thân xác», thân xác con người. Tuy nhiên, như chúng ta cũng dễ thấy, điểm trọng tâm ấy không chỉ có tính nhân học, nhưng về bản chất còn có tính thần học. Thần học thân xác, vốn ngay từ ban đầu liên kết với sự sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, cách nào đó cũng trở thành thần học về giới tính, hay đúng hơn là thần học về nam tính và nữ tính, mà khởi điểm của nó ở đây là sách Sáng thế. Những lời St 2,24 cho thấy ý nghĩa nguyên thủy của sự hợp nhất sẽ có một viễn tượng rất xa rộng trong mạc khải của Thiên Chúa. Sự kết hợp nhờ thân xác («và cả hai sẽ nên một xác thịt») có một chiều kích đa dạng. Nó có chiều kích đạo đức học (như được xác nhận bởi câu trả lời của Đức Kitô với những người Pharisêu trong đoạn Mt 19 (hoặc Mc 10)), mà cũng có chiều kích bí tích, rất thần học (như những lời của thánh Phaolô trong thư gởi các tín hữu Êphêsô [3] xác nhận, những lời ấy cũng tham khảo đến truyền thống các tiên tri (như Hôsê, Isaia, Êzêkiel)). Sở dĩ thế là vì sự kết hợp đó, vốn được thực hiện qua thân xác, tự ban đầu không chỉ hướng đến thân xác, nhưng còn biểu lộ sự hiệp thông các ngôi vị (communio personarum), một sự hiệp thông “được nhập thể”, và việc kết hợp đó ngay từ đầu đòi phải có sự hiệp thông đó. Nam tính và nữ tính diễn tả hai mặt cấu thành của thân xác con người («Này đây, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi»), và hơn nữa, cũng qua những lời St 2,23, chúng cho thấy con người cảm nhận thêm được ý nghĩa của thân xác mình, có thể nói, ý nghĩa đó là: đôi bạn làm phong phú thêm cho nhau. Chính ý thức đó, ý thức mà nhờ đó nhân tính lại được hình thành như là sự hiệp thông các ngôi vị, xem ra nằm ở một tầng trong trình thuật tạo dựng con người (và trong mạc khải về thân xác bao hàm trong đó) sâu hơn cả cấu trúc thân xác có giới tính. Dẫu sao, cấu trúc này được giới thiệu ngay từ đầu với một ý thức sâu xa về thân xác và về tính dục con người, và điều đó thiết lập một quy chuẩn không thể thay thế để hiểu con người trên bình diện thần học.
********************
[1] «Nhưng Thiên Chúa đã không dựng nên con người đơn độc: bởi vì từ thuở ban đầu “Ngài đã tạo dựng họ có nam có nữ” (St 1,27) và mối liên kết giữa họ tạo nên một hình thức đầu tiên của sự hiệp thông các ngôi vị» (Gaudium et Spes 12) (đôi khi còn được gọi vắn tắt hơn: hiệp thông ngã vị).
[2]Trong những sách kinh thánh cổ xưa nhất không có quan niệm đối lập nhị nguyên giữa “hồn” và “xác”. Như đã được lưu ý (x. ghi chú 1, bài VII), tốt hơn người ta nên nói đến tổ hợp từ ngữ «thân xác-sự sống» có tính bổ sung cho nhau. Thân xác diễn tả ngã vị tính của con người, và nếu như nó không diễn tả được hết khái niệm này, người ta cần phải đặt nó vào trong bối cảnh của ngôn ngữ kinh thánh và hiểu như «một phần thay mặt cho toàn thể» («pars pro toto»). Chẳng hạn như: «không phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho anh, nhưng là Cha Ta ...» (Mt 16,17). Ở đây, chữ «xác thịt» (hay «máu huyết») ám chỉ con người (ý muốn nói không phải phàm nhân đã mạc khải nhưng là Thiên Chúa).
[3] «Quả vậy, có ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi nấng và chăm sóc thân xác mình, cũng như Đức Kitô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh, vì chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người. Bởi thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh !» (Ep 5,29-32).
**********************
[1]
Bản văn này, giống như bao đoạn tương tự đi trước, không nên được hiểu
theo hướng có hai giai đoạn thời gian khác nhau trong tiến trình tạo
dựng con người. Đúng hơn nó xác định có hai cấp độ ý nghĩa của hữu thể
thân xác con người. Người ta muốn nhấn mạnh rằng thân xác và tính dục
không hoàn toàn đồng nhất với nhau, nhưng có một ý nghĩa của thân xác
xét về bản thể «có trước» hữu thể được phân giới tính của con người, dẫu
yếu tố phân giới tính này cũng rất tất yếu. Ý nghĩa đó chính là sự đơn
độc nguyên thủy chỉ đơn giản nói đến con người «trước khi» lưu ý đến
giới tính nam hay nữ của con người.
0 Nhận xét