Cải cách ruộng đất và các di sản
Nguyễn Hưng Quốc
Lần đầu tiên, cuộc cải cách ruộng đất của đảng Cộng sản ở miền Bắc
được triển lãm tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia ở Hà Nội vào đầu tháng 9
vừa rồi. Bản thân cuộc cải cách ruộng đất đã đầy tai tiếng. Cuộc triển
lãm nhân kỷ niệm 60 năm của cái gọi là vận động cải cách ruộng đất ấy
cũng đầy tai tiếng. Trên rất nhiều diễn đàn, nhất là các diễn đàn mạng,
người ta ôn lại những kỷ niệm kinh hoàng về chiến dịch đầy máu và nước
mắt ấy.
Chính sách cải cách ruộng đất được đảng Cộng sản tung ra vào năm
1946, tức một năm sau khi giành được chính quyền và cũng là năm đầu tiên
của cuộc kháng chiến chống Pháp, lúc đảng Cộng sản chỉ chiếm các vùng
nông thôn và rừng núi. Giai đoạn đầu, Cộng sản chỉ tịch thu đất đai của
Pháp và một số người bị coi là tay sai của Pháp để cấp cho nông dân
nghèo. Giai đoạn sau, từ 1950-1953, họ cắt giảm địa tô, bãi bỏ tiền thuê
ruộng và đánh thuế nặng các địa chủ. Giai đoạn thứ ba, từ năm 1954 đến
1957, mới thực sự là cải cách ruộng đất theo đường lối của Mao Trạch
Đông.
Nội dung chính của cải cách ruộng đất giai đoạn thứ ba này không phải
chỉ là tịch thu ruộng đất của địa chủ để cấp cho nông dân hay giảm tô,
giảm tức như giai đoạn trước. Cuộc cải cách ruộng đất lần này còn nhắm
đến mục tiêu tiêu diệt những thành phần họ cho là địa chủ, cường hào ác
bá, những kẻ vừa theo giặc (Pháp) vừa bóc lột dân nghèo. Hình thức chính
của cuộc cải cách là đấu tố và sau đó, xử tội hoặc tù giam hoặc tử
hình.
Ở đây, có mấy điều đáng nói.
Thứ nhất, dưới sức ép của các đoàn cố vấn Trung Cộng, đảng Cộng sản
Việt Nam quy định một cách máy móc số lượng địa chủ chiếm 5,68% dân số ở
nông thôn. Bởi vậy, ở nhiều địa phương nghèo khổ, những gia đình có một
hai con heo (lợn) và một khoảnh ruộng nho nhỏ đã bị liệt vào thành phần
địa chủ hay phú nông.
Thứ hai, trong việc xét xử, người ta không dừng lại ở phạm vi kinh tế
mà còn mở rộng sang lãnh vực chính trị: Nếu những người gọi là địa chủ
hay phú nông ấy có chút quan hệ với chính quyền Pháp lúc bấy giờ, họ bị
vu tội phản quốc hay phản động bên cạnh tội bóc lột. Để luận tội, người
ta không cần điều tra; người ta chỉ xúi giục những người được xem là bần
nông hay cố nông lên tố cáo và hạch tội. Dựa trên các lời hạch tội và
tố cáo ấy, người ta sẽ xử tội tội nhân.
Thứ ba, hình thức xử tội rất dã man: Có nơi xử bắn, có nơi chôn sống hoặc bắt nhịn đói nhịn khát đến chết.
Bàn về cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc, lâu nay, người ta chỉ tập
trung vào tội ác của đảng Cộng sản trong việc giết oan nhiều người dân
vô tội. Nạn nhân tiêu biểu nhất, được nhiều người nhắc đến nhất là bà
Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Hanh Long ở Hà Nội. Bà giàu, ừ, rất giàu.
Nhưng bà lại là người ủng hộ đảng Cộng sản và Việt Minh một cách nhiệt
tình và tích cực. Ngay sau Cách mạng tháng Tám, vì thiếu ngân sách, đảng
Cộng sản tung ra chiến dịch “Tuần lễ vàng” và kêu gọi dân chúng tham
gia, riêng bà Năm tặng đến mấy trăm lượng, chưa kể nhà cửa và thực phẩm.
Bà cũng giúp đỡ rất nhiều cán bộ lãnh đạo của cộng sản. Cả Trường
Chinh, Phạm Đồng và Lê Đức Thọ đều được bà xem như con nuôi. Ngoài ra,
bà có người con ruột tham gia Việt Minh, vào bộ đội, và lên đến chức
trung đoàn trưởng. Vậy mà bà vẫn bị giết. Chỉ vì những lời tố cáo vẩn vơ
đâu đó.
Bên cạnh sự độc ác, đảng Cộng sản còn mắc một lỗi khác: quá lệ thuộc
vào Trung Quốc. Thời ấy, các đoàn cố vấn của Trung Cộng tấp nập sang
Việt Nam (miền Bắc) để huấn luyện cán bộ Việt Nam, thậm chí, để chỉ đạo
giới lãnh đạo Việt Nam. Tỉ lệ hơn 5% dân số ở nông thôn là địa chủ là do
các cố vấn Trung Quốc đặt ra. Nhiều người còn tiết lộ, trong vụ xử tội
bà Nguyễn Thị Năm, giới lãnh đạo miền Bắc, kể cả Hồ Chí Minh, đều biết
các lời tố cáo là sai, nhưng dưới sức ép của các cố vấn Trung Cộng, họ
vẫn nhắm mắt để mặc cho bà Nguyễn Thị Năm chết một cách thảm khốc và oan
ức.
Theo tôi, ngoài hai vấn đề độc ác và lệ thuộc Trung Cộng nêu trên, có
một khía cạnh khác quan trọng không kém trong các di sản của cuộc cải
cách ruộng đất ở miền Bắc: Nó phá nát đạo lý truyền thống Việt Nam,
trước, trong quan hệ làng xã, sau, ngay trong phạm vi gia đình.
Tất cả các nhà nghiên cứu văn hóa truyền thống Việt Nam đều nhận định
giống nhau: làng xã là một đơn vị đặc biệt mang dấu ấn rất Việt Nam.
Trong làng, dĩ nhiên có người giàu và người nghèo, vẫn có bóc lột và áp
bức, nhưng dù vậy, quan hệ giữa người với người, nói chung vẫn tốt đẹp.
Họ đoàn kết với nhau trong việc bảo vệ quyền lợi của làng cũng như trong
việc duy trì những truyền thống văn hóa tốt đẹp của làng. Chính vì vậy,
rất ít người muốn đi xa khỏi làng. Người ta quyến luyến làng và tự hào
về làng. Trong cuộc cải cách ruộng đất, tất cả những quan hệ và tình tự
ấy đều bị phá vỡ. Những người dân nghèo được các cán bộ xúi đứng ra tố
cáo những người giàu có. Có khi là tố cáo những tội thật. Nhưng phần
lớn, căn cứ trên con số trên dưới 80% xử oan, chỉ là những lời bịa đặt
do các cán bộ từ trên xuống mớm vào miệng họ. Qua các cuộc tố cáo và
hảnh quyết dã man ấy, mọi người trở thành kẻ thù của nhau. Không ai còn
tin tưởng ai nữa. Nhà có con gà chết dịch, muốn làm thịt ăn, người ta
cũng phải ăn giấu ăn giếm, lông phải chôn thật kỹ, để khỏi bị tố cáo là
địa chủ hay phú nông.
Không những phá vỡ quan hệ trong làng, các cuộc vận động cải cách
ruộng đất còn phá vỡ quan hệ trong gia đình với cảnh con tố cha, vợ tố
chồng. Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, để bảo vệ truyền thống đạo lý
trong gia đình, vua chúa thường ra lệnh cấm không cho cảnh vợ tố chồng
hay con cái tố cáo cha mẹ. Ở miền Bắc, ngược lại, ngay sau khi vừa nắm
chính quyền, đảng Cộng sản đã xúi giục những người thân nhất trong gia
đình tố cáo nhau. Cuối cùng, không ai còn tin tưởng ai nữa.
Theo tôi, một công trình nghiên cứu nghiêm túc về các di sản của cuộc
cải cách ruộng đất ở miền Bắc trong mấy năm, từ 1954 đến 1957, là điều
rất cần thiết. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết tổng số các nạn nhân
bị giết chết cũng như tổng số những người bị bắt bỏ tù và tịch thu tài
sản. Chúng ta cũng chưa biết thật rõ những tác hại tinh thần của nó
trong đời sống xã hội cũng như trong quan hệ giữa người và người.
Còn có rất nhiều điều chúng ta chưa biết.
0 Nhận xét