Home » Archives for tháng 8 2014
Thứ Hai sau Chúa nhật XXII Thường Niên
20:25 |
THỨ HAI 01.09 - Tuần XXII Thường Niên
1Cr 2,1-5; Lc 4,16-30
1Cr 2,1-5; Lc 4,16-30
Bài đọc xem tại đây: : KTCMN
Tung hô Tin Mừng x. Lc 4,18
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Thần Khí Chúa ngự trên tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 4,16-30
16 Khi ấy, Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người đã được dưỡng dục. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. 17 Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng : 18 Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, 19 công bố một năm hồng ân của Đức Chúa.
20 Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường rồi ngồi xuống. Trong hội đường, trăm con mắt đều đổ dồn về phía Người. 21 Người bắt đầu nói với họ : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh tai quý vị vừa nghe.” 22 Mọi người đều tán thành và thán phục những lời ân sủng từ miệng Người nói ra.
Họ bảo nhau : “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao ?” 23 Người nói với họ : “Hẳn là các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ : Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình ! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào !” 24 Người nói tiếp : “Tôi bảo thật các ông : không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.
25 “Thật vậy, tôi nói cho các ông hay : vào thời ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Ít-ra-en ; 26 thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Xa-rép-ta miền Xi-đôn. 27 Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Ê-li-sa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Ít-ra-en, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri thôi.”
28 Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. 29 Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành –thành này được xây trên núi–. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. 30 Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.
Suy niệm: HÔM NAY ĐÃ ỨNG NGHIỆM LỜI KINH THÁNH*
Năm 1914, hay tin sắp có cuộc tấn công Rôma, ông Riguđô, chỉ huy trưởng
các vệ binh Tòa thánh, trình lên Đức Pi-ô X một kế hoạch đặt đại bác
tại Vatican. Đức Pi-ô X bình tĩnh trả lời: “Vatican không nên được bảo
vệ bằng đại bác, mà chỉ nên được bảo vệ bằng bác ái và tình thương.”
Đức Giê-su nhập thể để khai mở một thời kỳ mới, thời “ứng nghiệm lời
Kinh thánh.” Ấy là thời vui mừng vì kẻ nghèo được nghe Tin mừng, người
bị giam cầm được tha thứ, người mù được sáng mắt, người bị áp bức được
trả tự do…
Kể từ ngày đó, trái đất được thẫm đẫm tình yêu thương
nồng nàn; con người được sống chan hòa với nhau và với muôn vật muôn
loài. Như thế, thật có lý khi nói rằng: “Niềm tin tôn giáo xây dựng nền
văn minh tình thương và đoàn kết dân tộc.”
Ngày nay, nếu có những
“góc khuất” cuộc đời, thì trách nhiệm của mỗi Ki-tô hữu là gieo rắc
tình yêu và hy vọng. Đó là chúng ta đang “hiện tại hoá” Tin mừng trong
thế giới hôm nay.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an
của Chúa. Ðể con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem chân lý vào chốn
lỗi lầm... (Kinh Hòa bình).
----------------
* Nguồn: CNC
Tính Luân Lý Của Việc Tạo Sinh (tiếp theo…) - Một Số Vấn Nạn
17:51 | Tính Luân Lý Của Việc Tạo Sinh (tiếp theo…)
Chương III: Một Số Vấn Nạn
Xem thêm…
Chương III: Một Số Vấn Nạn
I. Bào Thai Ðã Là Sự Sống Con Người Chưa?
Thật
khó mà xác định sự sống của bào thai khởi đầu từ lúc nào. Xưa nay, khoa
học và tôn giáo vẫn có những tranh luận về vấn đề này. Tuy nhiên, có
một sự không hoàn toàn giống nhau về quan niệm giữa khoa học và tôn
giáo. Các nhà khoa học thì quan tâm tới nguồn gốc của sự sống nơi thai
nhi; còn tôn giáo thì lại quan tâm nguồn gốc của sự sống ấy. Hai từ khởi
đầu và nguồn gốc thực ra có ý nghĩa không hoàn toàn đồng nhất. Nếu dùng
từ “khởi đầu” (commencement) thì sẽ đặt câu hỏi: Khi nào sự sống bắt
đầu hình thành trong thai nhi; còn nếu dùng từ “nguồn gốc” (orgine) thì
sẽ đặt câu hỏi về nguồn cội, sự sống phát sinh từ đâu.
Do
đó, ở đây chúng ta sẽ tìm hiểu về vấn đề “phôi thai hay bào thai đã là
sự sống con người chưa?” dựa trên khám phá của khoa học, cách riêng là
của ngành sinh – y học, thứ đến là xem một số quan điểm của các thần học
gia và các học giả, và sau cùng là tiếng nói của Giáo Hội Công Giáo.
1. Những khám phá của ngành sinh – y học
Giới
khoa học gia cũng không thể xác định chính xác sự sống bắt đầu khi noãn
thụ tinh, hay vào tuần thứ 7, thứ 14, thứ 20, thứ 24 sau khi noãn thụ
tinh? Những con số đó do các nhà khoa học đề ra. Tất cả lệ thuộc các
tiêu chí đề ra để định nghĩa sự sống. Tuy nhiên, những khám mới sau đây
của ngành sinh – y học sẽ cho ta một cái nhìn về sự khởi đầu của sự sống
như thế nào.
a. Tiến trình phát triển Mầm Phôi (Pre-embryo)
Tinh
trùng cần phải ở trong đường sinh sản của phụ nữ khoảng 7 giờ đồng hồ
trước khi chúng sẵn sàng đâm xuyên qua các làn vỏ của trứng.
Sự
thụ tinh thường xảy ra ở cuối ống dẫn trứng (fallopian tube) sát bên
buồng trứng. Tinh trùng thường phải tiếp xúc với trứng trong vòng mười
giờ, vì nếu không xảy ra sự thụ tinh trong vòng hai mươi bốn giờ, thì
tinh trùng sẽ chết. Tuy nhiên, thụ tinh không chỉ đơn giản là việc tinh
trùng chọc thủng vỏ của trứng. Hơn thế nữa, nó là một tiến trình sinh
hoá phức tạp, mà qua đó, một tinh trùng chọc thủng dần dần các lớp vỏ
khác nhau của trứng. Chỉ sau khi tinh trùng đơn độc này đã chọc thủng
hoàn toàn trứng và nhân thể đơn bội cái (Haploid female nucleus) chỉ có
một cặp nhiễm sắc thể đã phát triển, làm cho bào tương (cytoplasm) của
trứng và các dung lượng nhân (Nuclear contents) của tinh trùng mới hoàn
toàn hoà lẫn với nhau cho ra một thực thể với nhiễm sắc thể lưỡng bội
(Diploid set of chromosome).
Tiến
trình này được gọi là sự hợp-giao. Phải mất khoảng hai mươi bốn giờ để
hoàn tất và cho ra đời một thực thể (Entity) gọi là hợp tử (Zygote –
trứng thụ tinh). Vì thế, tiến trình này (điều quan trọng chúng ta cần
phải ghi nhận: đây là một tiến trình) nói chung phải mất khoảng 12-24
giờ để hoàn tất và phải mất thêm 24 giờ khác nữa để nhân của hai thể đơn
bội có thể hoà lẫn vào nhau.
Sự thụ tinh hoàn tất với 4 giai đoạn chính:
1/ Cho ra đời một thực thể đầy đủ 46 nhiễm sắc thể
2/ Xác định nhiễm sắc thể giới tính (sex chromosome)
3/ Thiết lập khả năng biến dị di truyền (genetic variability)
4/ Khởi sự tiến trình phân chia (cleavage), phân chia tế bào của thực thể.
Sau
khi tinh trùng đã chọc thủng các lớp vỏ khác nhau của trứng thì bước kế
tiếp là khởi sự tiến trình phân chia tế bào, trứng đã thụ tinh bắt đầu
cuộc hành trình của mình đi từ ống dẫn trứng xuống tử cung. Khoảng 30
giờ sau khi thụ tinh, tế bào sẽ phân làm đôi, khoảng 40 – 50 giờ thì tế
bào sẽ phân làm bốn, và khoảng 60 giờ sau thì tế bào sẽ phân làm tám.
Khi phôi thai tiến vào tử cung thì có 12-16 tế bào ở giai đoạn phôi dâu
(Morula). Các phôi dâu này xuất hiện vào ngày thứ tư. Xung quanh các
ngày thứ sáu và thứ bảy, phôi bào (blatocyst) sẽ tiến tới vách tử cung
(uterine wall) và bắt đầu tiến trình làm tổ (implantation) ở đó, nhờ thế
nó có thể tiếp tục phát triển.
Tiến
trình làm tổ này sẽ hoàn tất vào cuối tuần thứ hai. Có một yếu tố quan
trọng mà chúng ta cần biết, đó là từ tình trạng phôi bào đến khi tiến
trình làm tổ hoàn tất, mầm phôi vẫn có khả năng phân chia thành các thực
thể đa phần (multiple entities) (điều này giải thích tại sao có hiện
tượng sinh đôi). Chúng ta cũng cần ghi nhận rằng: trong các nhiễm sắc
thể của nó, trứng đã thụ tinh không nắm giữ đầy đủ thông tin di truyền
cần thiết để có thể phát triển thành một phôi thai – tiền thân của một
thực thể nhân loại cá biệt. Ở giai đoạn này, hợp tử không tự tích lũy,
cũng không tự cung cấp được gì cho sự phát triển lâu dài của nó. Ðể trở
thành một phôi thai người, điều cốt thiết hơn cả là phải bổ sung thông
tin di truyền vào những gì mà hợp tử yêu cầu.
b. Tiến trình phát triển Phôi Thai (Embryo)
Giai
đoạn phát triển chính yếu kế tiếp là giai đoạn phát triển phôi thai.
Giai đoạn này bắt đầu từ tuần thứ ba của thời kỳ thai nghén. Nó khởi sự
với việc hoàn tất tiến trình làm tổ của mầm phôi ở vách tử cung và việc
phát triển đa dạng các mô liên kết giữa mầm phôi và vách tử cung. Có hai
công việc chính sẽ xảy ra ở giai đoạn này:
Thứ nhất là việc hoàn tất sự hình thành Phôi Vị (gastrulation) tái sắp xếp cách trật tự và phù hợp các tế bào ở phôi thai.
Thứ
hai là tiến trình hình thành Phôi Thai (embryo-genesis) hay hình thành
sinh thể (human organgenesis), bắt đầu từ tuần thứ ba và hoàn tất vào
cuối tuần thứ tám. Tiến trình này dẫn đến kết quả là sự phát triển toàn
bộ cơ quan nội tại và các cấu trúc chính bên trong và bên ngoài bào
thai.
Từ
lúc này, một đứa bé bắt đầu hiện hữu thật sự và kể từ giai đoạn đó, như
lời giáo sư Jérome Lejeune nói: “Một sinh viên ngành Y mà không biết
phân biệt được một con người với một con khỉ tinh tinh (chimpanzé) sẽ bị
đánh trượt trong kỳ thi…”
Ðược
6, 7 ngày sau khi thụ tinh, thân hình đứa bé đo được 1,5 mm và lúc ấy,
đứa bé đã có đủ khả năng chủ trì vận mệnh của nó, bởi vì, bằng một tín
hiệu hoá học được gởi đi, đứa bé làm ngưng kinh kỳ của mẹ nó, bắt mẹ nó
dành cho nó việc bảo vệ nó.
Cuộn
tròn lại như một băng cát-xét tí hon, những sợi dây vi ti – nhìn thấy
rõ qua làn kính hiển vi – là những phân tử ADN chứa đựng một tổng lượng
thông tin lớn lao. Nhờ một cơ cấu tinh xảo và bí ẩn điều động các tế bào
dần dần trở nên chuyên biệt:
- Toán một: lo cấu tạo hệ thống thần kinh và da.
- Toán hai: phụ trách hệ thống tiêu hoá: gan và lá lách (pancreas).
- Toán ba: bộ xương, quả tim, động mạch, cơ bắp.
Ngày
thứ 17 sau khi thụ thai, đứa bé chỉ mới đó được 2mm, và chưa to bằng
hạt lúa mì, tim đứa bé đã đập và sẽ đập mãi mãi cho đến lúc chết… Mẹ đứa
bé chỉ mới trễ kinh cỡ hai hoặc ba ngày và chưa biết là đứa bé đang
sống trong bụng mẹ. Nhưng qua kính hiển vi hiện đại, các chuyên gia có
thể đoán được hai thuỳ bộ não của đứa bé, dưới một chút là khoang tim,
tuỷ sống, nét tổng quát tay, chân của em…
Khoảng
ngày thứ 26, các tay đứa bé xuất hiện. Khoảng ngày 28, đến phiên hai
chân. Chẵn một tháng, thân mình đứa bé đó được 1 cm, nhưng nó đã lớn gấp
10.000 lần cái trứng thụ tinh đầu tiên. Tim nó đập 65 nhịp/phút và máu
nó, hoàn toàn khác biệt máu mẹ nó, truyền đi khắp cơ thể của nó.
Ðến
tuần thứ tư, đứa bé ở tình trạng chồi nụ, đôi tay nó tiến hoá rất
nhanh. Ðược 5 tuần, lòng bàn tay nó tượng hình và chồi 5 ngón tay nó bắt
đầu nhú ra. Ðược 6 tuần lễ, ngón tay cái của đứa bé đã tự lập, các ngón
khác cũng hình thành rõ rệt.
Khi
hai tay em đúng 7 tuần lễ, thì các ngón tay càng lớn dần lên và cứng
cáp trong những tháng tới. Mỗi ngón tay đã có đường vân mạch lạc, làm
cho không ai trên đời có chỉ tay giống nhau.
Khi
đứa bé được đúng 8 tuần lễ, thì thân hình em dài cỡ 3 cm! Cánh tay và
bàn tay của em đã hình thành rất rõ nét, hai chân và bàn chân em đang
phát triển đâu ra đó. Bộ xương của đứa bé được cấu thành với các tế bào
xương dần dần thay thế sụn. Mẹ em đã tắt kinh được một tháng rưỡi rồi.
Qua ống nghe, bác sĩ có thể đếm được nhịp tim của đứa bé và ông cũng có
thể thực hiện điện tâm đồ cho em (électrocardiogramme).
Như
thế, đúng 10 tuần lễ, người ta có thể thấy được đôi bàn chân nhỏ xíu
của em. Sau này, đến tuần thứ 14, dùng một loại kính lúp tốt, có thể
phát hiện rõ ràng những đường chấm chấm của mạng lưới dấu ở đầu các ngón
chân tí hon của em.
Cũng
ở tuần lễ thứ 10, các mí mắt che cặp mắt em hiện rõ. Các mí mắt này vẫn
còn khép chặt lại cho đến lúc em được sáu tháng tuổi. Hai phần của vòm
miệng vẫn còn dính nhau ở khoảng giữa; phần trên cấu tạo ra giải hố mũi
để thở, còn phần dưới cấu tạo ra cái miệng để nuốt. Cơ quan sinh dục
phía ngoài cũng đã được hoàn tất: buồng trứng và tinh hoàn đã tích chứa
được các noãn và tế bào gốc của tinh dịch. Thế là các thế hệ hậu lai đã
được lập trình sẵn ngay từ lúc này.
Ðược
11 tuần lễ, khi mẹ em ngủ, em cũng ngủ. Nhưng em lại có thể đánh thức
mẹ em dậy! Các tiếng động ồn ào bên ngoài có thể làm cho em giật mình
tỉnh giấc! Em uống nhiều ngụm nước màng ối, nếu như nó ngòn ngọt, nhưng
em không thèm uống nữa nếu em cảm thấy nó có vị đắng. Em mới chỉ đo được
6 cm, vậy mà em đã gần như được hoàn thành một cách mỹ miều!
Ðược
12 tuần lễ, em cân nặng 35 g và cao 10 cm ! Nếu bị cù nhẹ vào trán, em
quay đầu lại và cau mày. Nếu ai đụng nhẹ vào môi em, em có phản xạ mút
và nuốt ngay. Thỉnh thoảng tay em lại đưa tới gần miệng để tìm cách mút.
Em có thể xếp khuỷu tay và cổ tay lại được; hơn thế nữa, em còn có thể
víu lấy một vật bé nhỏ. Vẫn tuổi đời 12 tuần lễ, toàn thân em đã có cảm
giác khi bị ai sờ vào, trừ phía sau lưng và hai bên đầu em (có thể để
phòng khỏi bị đau lúc sinh ra qua cửa mình người mẹ). Em uống nước màng
ối và tiêu hoá các chất dinh dưỡng, nhờ các tuyến nước bọt, và hệ tiêu
hoá. Em thở nhờ dây rốn của mẹ chuyền dưỡng khí cho em. Thỉnh thoảng, em
cũng tuỳ nghi xả ra bớt những thứ cặn bã của em.
|
Ðược
14 tuần lễ tuổi đời, em bé đó được 12 – 13 cm. Các đường nét trên cơ
thể của em trở nên ngày một tinh tế sắc sảo hơn. Từ tuần lễ thứ 15 – 16
trở đi, thân mình em sẽ phát triển với nhịp độ chậm lại, vì nếu em cứ
tăng trưởng theo nhịp đó� của các tuần lễ đầu, thì em sẽ cân nặng hơn 80
Kg lúc chào đời.
Lúc
tuổi đời em được 17 tuần lễ, tầm vóc cao của em đo được 20 cm và cân
nặng khoảng 140 – 150 g. Mẹ em cảm nhận rất rõ khi em quay cuồng nhào
lộn trong “buồng phi hành vũ trụ” của em. Ðối với mẹ em, đây là thời kỳ
an nhàn và hạnh phúc nhất trong toàn bộ giai đoạn thai nghén.
Khi
em bé đã tròn 5 tháng tuổi, kích thước của em là 30 cm và cân nặng 500
g! Tóc em bắt đầu mọc. Lông mi xuất hiện và em hình thành cả các tuyến
vú! Ðến lúc này, bác sĩ có thể làm được điện não đồ
(électroencéphalo-gramme) cho em rồi! Mẹ em biết rõ được chính xác vị
trí của em trong bụng mình. Em cũng có thể bị những cơn nấc cụt kéo dài
từ 15 đến 30 phút!
Bây giờ em bé đã có thể chào đời rồi đấy, nhưng đó là “sinh non”
Phó Tế Nguyễn Văn Tâm, DCCT
Một nền y học bị chính trị hóa
20:45 |
Bác Sĩ Ngọc
Đảng nhảy vào mọi ngóc ngách của | BV |
Hiếm thấy một thời đại nào mà y giới bị khinh như ngày hôm nay. Những
gì xảy ra ở bệnh viện Năm Căn có lẽ là một sự tức nước vỡ bờ. Có đồng
nghiệp nói đó là một nền “y khoa đổ vỡ”, nhưng tôi cho rằng đó một nền y học bị chính trị hóa. Vâng, chính vì y học bị chính trị hóa nên mới thảm hại như hiện nay.
Cái quá trình chính trị hóa y học ở ta xảy ra một cách toàn diện. Nó
bắt đầu ngay từ khâu tuyển sinh, đến khâu học tập và kéo dài đến khi ra
trường và hành nghề. BS Đỗ Hồng Ngọc trong một bài nói chuyện ở Long Hải
gần đây kêu gọi (ai?) phải quan tâm đến “đầu vào”, “hộp đen” và “đầu
ra”. Nhưng tôi e rằng ông không nói hết hay tránh né không nói đến sự
chính trị hóa trong 3 khâu ông nói đến. Tôi nghĩ rằng những hiện tượng
tiêu cực trong ngành y chúng ta đang chứng kiến ngày nay chính là hậu
quả của quá trình chính trị hóa y học. Nói như nhà thơ Đỗ Trung Quân:
Chúng ta đang gặt một mùa bội thu sự vô cảm
Vì chúng ta gieo nó
Chúng ta phó mặc cho định mệnh vì chúng ta không tin gì cả.
Chúng ta quen nói dối
Chính trị hóa được gieo mầm ngay từ khi tuyển sinh. Chúng ta chưa quên chính sách hồng hơn chuyên sau 1975. Hồng là đỏ, là cách mạnh. Chuyên
là chuyên môn. Hồng hơn chuyên là có nhân thân cách mạng tốt hơn có tài
chuyên môn. Chính sách hồng hơn chuyên thực chất là một sản phẩm của
chủ nghĩa lý lịch. Chủ nghĩa lý lịch hoàn toàn nhất quán với chính sách
chính trị thống lãnh giáo dục. Chúng ta còn nhớ sau 1975, lý lịch sinh
viên học sinh được chia thành 14 bậc. Con cái của “ngụy” ở bậc thứ 13
hay 14. Ở bậc này cũng đồng nghĩa với không được vào học y khoa dù có
điểm cao. Bao nhiêu nhân tài chỉ vì cái tội con cháu của ngụy bị đẩy ra
ngoài. Thay vào đó, con cháu cách mạng dù điểm thấp vẫn được vào học y
khoa. Điểm 2, 3 cũng được vào trường y. Đã có người sửa điểm thành 25,
30. Một xã hội xem thường tài năng thì làm sao khá được. Hậu quả là
chúng ta có vài thế hệ bác sĩ tồi và giáo sư “dỏm” như ngày nay.
Sẽ là rất sai lầm nếu nghĩ rằng chủ nghĩa lý lịch đã chấm dứt. Cái
“đầu vào” mà BS Đỗ Hồng Ngọc không muốn hay không dám nói đến là gì? Tôi
xin nói thay ông, đó là những “cử tuyển”, “chuyên tu”, “bồi dưỡng”. Đó
là những mã ngữ mà nhiều người khó có thể hiểu nổi. Nói thẳng ra, mỗi
năm người ta đưa ra một danh sách “sinh viên”được cử đi học y khoa,
trường đại học không thể từ chối. Không thể từ chối vì đó là lệnh. Chưa
nói đến chuyên tu. Dân gian có câu nhạo báng “dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”,
nhưng trớ trêu thay, chuyên tu và tại chức có quyền hơn chính quy. Có
quyền là vì họ là người của Đảng. Đảng tin họ. Có mấy ai biết rằng chính
những bác sĩ chuyên tu là những người đang nắm quyền sinh sát ngành y.
Hãy nhìn quanh xem, giám đốc các sở y tế là ai, nếu không là chuyên tu.
Họ nắm quyền từ cấp trung ương đến địa phương.
Quá trình chính trị hóa tiếp tục trong trường y. Sinh viên y ngày nay
phải học những môn học xa lạ với y khoa. Chủ nghĩa Mác Lê. Tư tưởng Hồ
Chí Minh, dù ông chưa bao giờ tự nhận rằng mình có tư tưởng. Lịch sử
Đảng CSVN. Tôi không rõ có trường y nào trên thế giới dành một thời
lượng 20% để dạy những môn học như trên. Dĩ nhiên là ngoại trừ Trung
Quốc, cái nước mà giới lãnh đạo chúng ta răm rắp làm theo cứ như là một
học trò bé nhỏ trung thành. Dù ai cũng có thể thấy những môn học đó
chẳng liên quan gì đến nghề y, nhưng nó vẫn được giảng dạy như là những
môn học bắt buộc. Biết được chủ nghĩa Mác Lê, hay tư tưởng Hồ Chí Minh,
hay lịch sử Đảng có làm cho người bác sĩ có tay nghề cao trong việc điều
trị bệnh? Chắc chắn không. Vậy thì đừng hỏi tại sao kiến thức chuyên
môn của bác sĩ ngày nay quá thấp.
Chủ nghĩa Mác Lê dựa vào đấu tranh giai cấp. Do đó, cái giá của sự ưu
tiên cho học chính trị là sự suy đồi đạo đức y khoa. Một sinh viên mới
vào trường y đã được nhồi nhét những thông tin vế đấu tranh giai cấp, về
kẻ thù, về phản động … thì đừng trách sao đầu óc của họ được uốn nắn để
trở thành những kẻ chỉ biết đến Đảng và đấu tranh, chứ chẳng quan tâm
đến bệnh nhân. Vậy thì đừng hỏi tại sao bác sĩ mới ra trường non choẹt
nhưng đã bắt đầu hoạnh họe bệnh nhân và tự xem mình là ông quan, ăn trên
ngồi chốc. Thử hỏi có bác sĩ chân chính nào vô tâm đến nỗi để cho thân
nhân quỳ lạy mà vẫn vô tư bỏ đi ngủ và để cho bệnh nhân phải chết? Đó là
kẻ sát nhân, chứ đâu phải “bác sĩ”. Cũng đừng trách tại sao sinh viên
mới học 1,2 năm trong trường y đã bi bô khoe khám chỗ kín của phụ nữ. Khoe ngay trên mặt báo. Họ còn dùng chữ “chị em”. Thật chưa bao giờ đất nước này có những sinh viên y khoa mất dạy như thế. Tôi khẳng định dùng chữ mất dạy
hoàn toàn chính xác trong tình huống vừa nói trên. Nhớ ngày xưa khi
theo thầy vào phòng mổ, một đứa bạn nay là một nhà phẫu thuật tài ba ở
Mỹ lỡ lời thốt lên một câu khiếm nhã về cái chân của bệnh nhân, sau đó
bị thầy tán cho một bạt tay nhớ đời và cả đám lãnh đủ một bài giảng
moral. Vậy mà bây giờ có những sinh viên y khoa không ý thức được thiên
chức của nghề y và sự tin tưởng của xã hội để lên báo chí thốt lên những
câu chữ chỉ có thể mô tả là mất dạy. Những sinh viên này không nên hành
nghề thầy thuốc vì bộ não của họ đã bị đầu độc bởi những vi khuẩn hạ
tiện.
Thật khó nói có nơi nào trên thế giới mà người ta lẫn lộn giữa cán bộ
y tế và bác sĩ. BS Đỗ Hồng Ngọc nói đến Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
khẳng định mục tiêu đào tạo “Bác sĩ tổng quát hướng về cộng đồng”. Nếu
mục tiêu là hướng về sức khỏe cộng đồng thì tại sao trường có tên là
“Đại học Y khoa”? Tại sao không gọi là Trường cao đẳng y tế cộng đồng
cho phù hợp hơn? Thật ra, tiền thân của trường là Trung tâm đào tạo và
bồi dưỡng cán bộ y tế thành phố, một cái tên rất thích hợp. Khó định
nghĩa khái niệm bác sĩ tổng quát hướng về cộng đồng vì chẳng ai định
nghĩa đó là bác sĩ loại gì. Đối tượng của nghề y là người bệnh — con
người và bệnh. Đối tượng của cán bộ y tế là cộng đồng, sức khỏe cộng
đồng. Bác sĩ có thể là cán bộ y tế, nhưng cán bộ y tế không thể là bác
sĩ. Lầm lẫn giữa y khoa và y tế dẫn đến sai lầm trong triết lý đào tạo.
Trong thực tế, ai cũng biết trung tâm từng là cái nôi dành cho con em
của quan chức, cán bộ. Mang tiếng là phục vụ cộng đồng, nhưng trong thực
tế họ đều quanh quẩn trong các bệnh viện. Hậu quả là chúng ta có 15 thế
hệ nửa thầy (bác sĩ) nửa thợ (cán bộ y tế). Khó tưởng tượng có nơi nào
có hệ thống đào tạo quái gở như thế.
Quá trình chính trị hóa nghề y còn diễn ra sau khi sinh viên tốt
nghiệp trường y. Cũng như bất cứ cơ quan công nào, bệnh viện cũng có chi
bộ của Đảng. Chi bộ đảng dĩ nhiên chỉ dành cho Đảng viên. Chi bộ có bác
sĩ nhưng cũng có những người ngoài y giới, như tài xế lái xe. Những
người ngoài y giới cũng có tiếng nói như bác sĩ khi họ ngồi trong chi
bộ. Người có quyền nhất trong bệnh viện không hẳn là giám đốc mà là bí
thư chi bộ. Bí thư chi bộ trên danh nghĩa là chính trị viên, nhưng lại
can thiệp vào những vấn đề chuyên môn liên quan đến y khoa! Tiếng nói
chuyên môn không có giá trị bằng tiếng nói của Đảng. Thật trớ trêu. Thật
quái đản. Một nền y khoa bị chính trị hóa.
Y khoa không phân biệt thù hay bạn. Người thầy thuốc chân chính không
phân biệt bệnh nhân mình là phía bên kia hay bên này, không phân biệt
người đó theo đạo gì, hay theo chủ nghĩa gì, không phân biệt thành phần
xã hội. Tất cả đều được đối xử như nhau. Nhưng rất tiếc cái lý tưởng cao
cả và phổ quát đó đã bị chính trị vứt bỏ một cách không thương tiếc.
Chính vì thế mà ngày nay chúng ta có những khu đặc trị dành cho cán bộ
cao cấp, biệt lập với khu dành cho thường dân. Đó không phải là ăn trên
ngồi chốc thì là gì? Đó có phải là lý tưởng cách mạng? Nhưng sự phân
biệt này đâu chỉ xảy ra mới đây. Nó còn tàn nhẫn hơn ngay từ ngày
30/4/1975. Hãy nhớ rằng ngày 30 tháng Tư năm 1975 bệnh nhân trong Quân y
viện Cộng Hoà bị đuổi ra khỏi viện. Anh mù cõng anh què. Anh đổ ruột
vịn vai anh cụt tay. Đó là thời điểm người Sài Gòn biết được y đức của
nền y học mới. Đó là loại y đức bị chính trị hóa.
Hậu quả của quá trình chính trị hóa từ khâu tuyển sinh, giảng dạy và
tốt nghiệp là nhiều thế hệ bác sĩ có trình độ chuyên môn thấp. Mấy năm
trước tôi đọc thấy ở Mỹ mỗi năm có hàng trăm ngàn bệnh nhân chết do sai
sót trong y khoa. Một nền y học tuyệt vời và nhân bản như Mỹ mà còn như
thế thì ở nước ta câu hỏi là đã có bao nhiêu người chết vì sự phân biệt
trong điều trị? Những gì xảy ra ở bệnh viện Năm Căn và hàng ngày trên
khắp nước chỉ là những “thành quả” đã được gieo giống từ rất lâu. Hậu
quả cũng là hàng ngàn giáo sư dỏm, tiến sĩ dỏm, dỏm đến độ người dân
khinh.
Chính trị hóa y khoa đã xảy ra rất lâu chứ không phải mới đây. Nó còn được luật hóa. Điều 41 trong Hiến pháp ghi: “Đoàn
Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình và xã hội cùng với nhà trường
có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng”. Điều 37 ghi: “Chủ
nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt
Nam. Nhà nước tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin, đường
lối chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam […] chống các tư
tưởng phong kiến, tư sản và ảnh hưởng của văn hóa đế quốc, thực dân; phê
phán tư tưởng tiểu tư sản; xây dựng nếp sống xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ
nếp sống lạc hậu, bài trừ mê tín, dị đoan”. Như thế, việc chính trị
hóa y khoa không có gì đáng ngạc nhiên vì nó nằm trong chính sách của
Đảng được hiến pháp quy định. Do đó, nếu muốn làm cho nền y khoa của
chúng ta tốt hơn thì hãy thay đổi từ cái gốc, chứ không nên kêu gọi
chung chung về y đức. Y đức chỉ là một sản phẩm của cái triết lý giáo
dục bị chính trị hóa. Nguyên nhân chính dẫn đến nền y khoa nước ta bị
suy thoái nằm ngay trên những dòng chữ tôi trích trên đây.
Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?
20:33 |TMSS: Bài viết rất hay và ý nghĩa của vị giáo sư gần bóng mặt trời. Bài hơi dài nhưng đáng để đọc vì cho thấy mọt cái nhìn tổng thể và giả thích những bước thụt lùi về quuyền căn bản của con người cũng như của những ai ngồi xổm trên hiến pháp!
--------------------
Hiến pháp 2013 – Sửa nhầm hay đổi thiệt?
GS Hoàng Xuân Phú |
Vậy là nó đã được
Quốc hội khóa XIII thông qua vào ngày 28/11/2013 và cóhiệu lực từ ngày 1/1/2014. Nếu coi là “Hiến pháp mới”,
thì e rằng ăn quá non nên gạo còn sống sượng. Còn nếu gọi là “Hiến pháp sửa
đổi”, thì có lẽ hâm quá đà nên cơm cũ đã cháy khê.
Dù muốn hay không, Hiến pháp 2013 cũng
chi phối cuộc sống của Nhân dân ta và sự phát triển của Dân tộc ta trong thời
gian tới. Do đó, thay vì ca ngợi ngất trời hay chê bai triệt để, nên tìm hiểu
những biến đổi về nội dung của Hiến pháp, để đoán biết hệ quả mà phòng xa hay
tận dụng, đồng thời để thấy rõ hơn tâm và tầm của bộ máy lập hiến. Theo
tinh thần ấy, bài này trao đổi về hệ quả của một số thay đổi trong Hiến
pháp 2013.
Phần 1 nhận diện mấy
nội dung vốn tồn tại trong Hiến pháp 1992, nay bị Hiến pháp buông rơi,
mặc dù vẫn còn cần thiết. Chẳng hạn:
·
Đòi hỏi “Các cơ
quan Nhà nước… đơn vị vũ trang nhân dân… phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp,
pháp luật”;
·
Qui định trách
nhiệm của công an nhân dân là phải “bảo đảm… các quyền tự do, dân chủ của công
dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân”;
·
Cam kết “Những
nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ”.
Phần 2 điểm mặt ba
thay đổi theo hướng tiến bộ liên quan đến quyền sau song sắt, mà
những người dính vòng lao lí nên biết để đấu tranh đòi thực hiện.
Phần 3 đề cập đến
hiện tượng rộ nở thuật ngữ “công khai” trong Hiến
pháp 2013. Đáng lưu ý là hai khoản hiến định mà công dân quan tâm đến vận nước
nên tận dụng, đó là:
·
“Ngân sách nhà
nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác…
phải được sử dụng… công khai” (Khoản
1 Điều 55 Hiến pháp 2013),
·
“Quốc hội họp
công khai” (Khoản 1 Điều 83 Hiến pháp 2013).
Phần 4 cảnh báo nguy
cơ quyền con người và quyền công dân có thể bị khước từ hay cản trở bởi mệnh
đề: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” – Một mối họa
chỉ tương xứng với chính trường hoang dã và xa lạ với nhà nước pháp quyền đích
thực. Buồn thay, căn cứ vào nguyên tắc lập hiến và lập pháp, thì mưu mô đó
thuộc loại mánh lới bất thành.
Phần 5 phân tích sai
lầm tai hại trong việc dùng Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013
để hiến định khả năng hạn chế quyền con người và quyền công dân. Sơ sẩy khi
hiến định “quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở” tại Điều 22 Hiến pháp 2013
là ví dụ điển hình, cho thấy có những thay đổi chưa chắc đã phản ánh đúng dụng
ý của tác giả. Do đó, thay vì ghi nhận một số thể hiện có vẻ tiến bộ trong Hiến
pháp 2013, ta lại phải băn khoăn với câu hỏi: Thực ra họ sửa nhầm
hay đổi thiệt?
1. Hiến pháp buông rơi
Chẳng nhất thiết và cũng
chẳng thể ghi hết mọi điều quan trọng vào Hiến pháp. Nhưng khi Lời nói đầu
khẳng định rằng Hiến pháp 2013 “kế thừa… Hiếnpháp năm 1992”, thì việc nó buông rơi một số nội dung vẫn
còn hợp lý và cần thiết của Hiến pháp 1992 có thể bắt nguồn từ dụng ý sâu xa,
mà ta không thể làm ngơ.
1.1.
Lạm dụng quyền lực là xu
hướng mang tính bản năng của thế lực cầm quyền. Do đó, với tư cách là công cụ
pháp lý cơ bản để điều khiển hoạt động của Nhà nước, một trong những mục tiêu
quan trọng nhất của Hiến pháp phải là kiểm soát và kiềm chế bộ máy Nhà nước.
Trong hoàn cảnh nhà cầm quyền hay hành động bất chấp Hiến pháp và pháp luật,
thì khoản hiến định sau đây tại Điều 12 Hiến pháp 1992
là rất cần thiết:
“Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã
hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp, pháp luật.”
Tiếc rằng, như đã trao đổi
ở bài “Uẩn khúc trong Điều 4 Hiến pháp”,
khi liệt kê những đối tượng “phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp
luật”, cả Hiến pháp 1992 lẫn Hiến pháp 2013 đều chừa lại thế lực “siêu
nhà nước”, cần phải kiềm chế nhất, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Điều
ấy cũng phi lý như chỉ nhìn nhận cái “nhà” (“nhà ngói” thay vì “nhà
nước”) từ “trần giả” trở xuống và cố tình bỏ qua cái “nóc”,
rồi khi bị “dột” thì lại giả vờ ngu ngơ “không rõ nước rơi từ đâu”.
Đáng tiếc hơn nữa, đòi hỏi “Các cơ quan Nhà nước… đơn vị vũ trang nhân
dân… phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật” (trong Hiến pháp 1992) đã bị
bỏ rơi, và được nới lỏng trong Hiến pháp 2013 như sau:
“Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ.” (Khoản 1 Điều 8 Hiến pháp 2013)
Điều tệ hại là, sau khi cố
tình bỏ đi chữ “phải”, điều khoản trên không còn thể hiện trách nhiệm
hiến định, bắt buộc Nhà nước phải thực hiện, mà trở thành mệnh đề khẳng định,
công chứng cho một trạng thái phi thực tế, như thể nó đã mặc nhiên tồn tại. Hơn
nữa, cho dù hiểu đó là một yêu cầu, thì các cơ quan Nhà nước “muốn theo” hay “theo
được” bao nhiêu thì “theo”, không nhất thiết phải “chấp hành”, càng không cần
phải “nghiêm chỉnh”. Vậy là tấm gương xấu của Điều 4 dành cho
ĐCSVN đã phản chiếu sang Điều 8 dành cho các
cơ quan Nhà nước.
Vốn dĩ đã
quen hành động bất chấp pháp luật, nay được Hiến pháp “giải thoát” khỏi nghĩa
vụ “nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật”, thì các “con trời” sẽ còn
lộng hành đến mức nào nữa?
Từ lúc Hiến pháp 2013 có
hiệu lực, các vụ tử vong trong khi hoặc sau khi “làm việc” với công an
diễn ra dồn dập hơn, mặc dù “đang xét xử 5 công an… đánhchết anh Ngô Thanh Kiều” (vào ngày13/5/2013 tại Phú Yên). Nếu không có thương tích đầy mình
làm bằng chứng, như trường hợp Huỳnh Nghĩa (39
tuổi, ở tỉnh Đắk Nông, chỉ vì bị nghi là hái trộm hạt tiêu mà tử vong sau khi “làm
việc” với công an vào ngày 13/2/2014), thì lý do tử vong được công bố “đương
nhiên” là do “tự tử”. Chẳng hạn, Huỳnh Nhất Trung (20 tuổi, ở
tỉnh
Bình Định) “treo cổ tự tử chết trong nhàtạm giữ công an huyện Vân Canh”
vàotối 11/3/2014. Sáu ngày sau (tức 17/3/2014), Bùi Thị Hương (42
tuổi) “được công an phường Tân Đồng
(thị xã Đồng Xoài, Bình Phước) mời lên trụ sở làm việc vì nghi ngờ liên quan
đến việc đem đi bán 2 chỉ vàng giả… chết trong tư thế treo cổ bằng áo gió
trên cửa phòng tạm giữ hành chính.”
Phải chăng, sự gia tăng tử
vong do “làm việc” với công an là hệ quả của việc Hiến pháp 2013 bỏ rơi đòi hỏi
“Các cơ quan Nhà nước… đơn vị vũ trang nhân dân… phải nghiêm chỉnh chấp hành
Hiến pháp, pháp luật”?
1.2.
Vốn dĩ, Hiến pháp 1992 quy
định về lực lượng công an như sau:
“Điều 47 Nhà
nước xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân
để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định
chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài
sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống
các loại tội phạm.”
Điều này được “đơn giản
hóa” đáng kể trong Hiến pháp 2013 như sau:
“Điều 67
Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia
và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.”
Vậy là, khi đã được nuôi no
đủ, có vũ khí tối tân, thậm chí sắp được trang bị cả máy bay, tàu thủy, thì
cũng qua cái thời hiến định “công an nhân dân” phải “dựa
vào nhân dân”. Đồng thời, Hiến pháp 2013 cũng “giải phóng” công
an khỏi trách nhiệm “bảo đảm… các quyền tự do, dân chủ của công
dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa”.
Thực ra, thiên hạ vẫn
thường chứng kiến công an xâm phạm “các quyền tự do, dân chủ của công dân”,
còn chuyện công an “bảo đảm” các quyền đó thì nghe giống như cổ tích.
Cho nên, có lẽ sẽ trung thực hơn nếu xóa bỏ chuyện hoang đường ấy ra khỏi Hiến
pháp.
Nhưng tại sao lại “giải
phóng” lực lượng công an khỏi cả trách nhiệm “bảo vệ tính mạng, tài sản
của nhân dân”, trong khi họ sống và hành nghề bằng tiền của Nhân dân? Đừng
ngụy biện rằng nội dung ấy đã chứa đựng trong nhiệm vụ “bảo vệ an ninh quốc
gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm”. Bởi
vì nhiệm vụ còn sót lại này cũng đã từng tồn tại song song trong Hiến pháp 1992
cùng với nội dung vừa bị bỏ rơi. Hơn nữa, đối với những tay súng “chỉ biết
còn Đảng, còn mình” (xem Ảnh 1) thì “trật tự, an toàn xã hội”
trước hết là sự an toàn của lãnh đạo, của chế độ, và “chống
tội phạm” trước hết là chống những người mà giới cầm quyền không ưa nên
quy kết là “thù địch”.
Ảnh 1: “CÔNG AN NHÂN DÂN CHỈ BIẾT CÒN ĐẢNG, CÒN MÌNH” (Nguồn: Internet) |
Nếu có biểu tình, dù chỉ
lác đác mươi người thực thi quyền hiến định và chỉ nhằm bảo vệ chủ quyền biển
đảo hay phản đối tham nhũng, thì họ cũng coi đó là hành động đe dọa sự an
toàn của chế độ, và ngay lập tức huy động lực lượng đông đảo để giải tán,
thậm chí để đàn áp. Còn nếu tính mạng và tài sản của Nhân
dân bị đe dọa, thì điều động lực lượng “mỏng” và can thiệp “thận
trọng” đến mức… trật tự xã hội ngày càng thêm hỗn loạn. Viết
như vậy, bởi tin rằng: Nếu thực sự muốn thì lực lượng công an thừa sức để điều
tra và khống chế nhiều tệ nạn xã hội đang hoành hành.
Thay vì bảo vệ, họ lại cư
xử với nạn nhân như với kẻ thù của chế độ. Họ đang tâm xả đạn như mưa vào nhà dân, để mở
đường cướp tài sản hợp pháp của dân, như đã diễn ra ở Tiên Lãng ngày 5/1/2012.
Coi người dân như hình nộm để tập bắn, nên gọi cuộc xả đạn về phía người dân
là “diễn tập”, và cao hứng tự ca rằng “không có cuộc diễn tập nào
thành công bằng cuộc diễn tập lần này”. Rồi còn công khai tuyên bố rằng: “Tôi
nghĩ là rất hay, có thể viết thành sách… rất là đẹp, đâm ra không có gì phải
phàn nàn về cái chuyện ấy cả.” Cứ tưởng, hành động và phát
ngôn như vậy trong Nhà nước của Nhân dân thì bị cách chức, thậm chí bị loại
khỏi ngành công an và bị truy tố trước pháp luật. Ai dè sau một thời gian ngắn còn được
vinh danh bởi quân hàm Thiếu tướng.
Chưa đầy năm tháng sau trận
xả đạn ở Tiên Lãng, vào ngày 24/4/2012, họ lại điên cuồng đánh đập dã man cả
hai phóng viên Đài tiếng nói Việt Nam
đến tác nghiệp ở Văn Giang, vì tưởng đó là dân đen, dám đứng
nhìn bầy quân cướp đất.
Những hành
động ngạo ngược hại dân diễn ra nơi nơi, nhiều không kể xiết… Khi còn hiến định
trách nhiệm “bảo đảm… các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng,
tài sản của nhân dân” mà họ còn hành động như vậy, thì rồi đây sẽ còn tệ hại
đến mức nào nữa?
1.3.
Hiến pháp 1992 quy định về
quyền bầu cử và ứng cử như sau:
“Điều 54
Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi
trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử
vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo quy định của pháp luật.”
Điều này được viết lại
trong Hiến pháp 2013 như sau:
“Điều 27
Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở
lên có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này
do luật định.”
Nghĩa là bỏ đi mệnh đề “không
phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ
văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú”, vốn dĩ đã xuất hiện tại Điều 23 Hiến pháp 1959,
sau đó được tiếp tục duy trì trong Điều 57 Hiến pháp 1980
và Điều 54 Hiến pháp 1992.
Thuở còn quy định “không
phân biệt… thành phần xã hội…” thì đã rất phân biệt, đến mức khó
lòng tự ứng cự nếu không thuộc “thành phần xã hội”
được bộ máy cầm quyền lựa chọn và đề cử. Vậy thì rồi đây sẽ ra sao?
1.4.
Về quyền khiếu nại, tố
cáo, Điều 74 Hiến pháp 1992
quy định:
“Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem
xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.”
“Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm
minh.”
Nội dung trên được thay
bằng một câu gọn lỏn như sau trong Điều 30 Hiến pháp 2013:
“Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp
nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo.”
Nghĩa là đòi hỏi “xem
xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định” và “kịp thời
xử lý nghiêm minh” bị loại bỏ ra khỏi Hiến pháp 2013. Để thấy rằng việc
loại bỏ này không phải là vô tình, hay do các tác giả của Hiến pháp 2013 muốn
lược bớt tất cả các ràng buộc về thời gian, chỉ cần lưu ý rằng quy định những
người bị chất vấn “có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu Quốc hội
yêu cầu trong thời hạn luật định” tại Điều 98 Hiến pháp 1992
vẫn được bảo lưu nguyên vẹn tại Điều 80 Hiến pháp 2013.
Bấy lâu nay, khiếu nại, tố
cáo của công dân hay bị ngâm tôm quá lâu, khiến nhiều người phải lang thang
khiếu kiện suốt chục năm trời. Rồi đây, khi ràng buộc về thời gian xử lý
đã bị xóa khỏi Hiến pháp, thì người dân sẽ phải mòn mỏi chờ đợi thêm bao lâu
nữa?
1.5.
Đáng lưu ý là quy định
« Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được
pháp luật bảo hộ »
tại Điều70 Hiến pháp 1992 đã bị loại bỏ ra khỏi điều hiến định về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp 2013 (tức là Điều24). Tại sao lại như vậy? Chẳng nhẽ quy định ấy không còn cần thiết trong chế
độ đã từng diễn ra phong
trào đập phá đền chùa nhân danh chống mê tín dị đoan? Hay là để tránh mâu
thuẫn với thực tế chiếm đất tôn giáo vẫn xảy ra đó đây?
Mấy vị
Hòa thượng, Thượng tọa, Linh mục… trong Quốc hội có đấu tranh đòi
bảo lưu điều hiến định bảo hộ nơi thờ tự hay không? Hay vì quá mải lo
thực hiện sứ mạng bảo vệ chế độ, mà quên mất vai trò
phải đóng trong Quốc hội, là đại diện và bảo vệ tín ngưỡng, tôn giáo?
Điều đáng lo ngại là: Liệu việc chiếm đất của các cơ sở
tôn giáo có gia tăng sau khi xóa bỏ hiến định « nơi thờ tự… được pháp luật
bảo hộ » hay không?
2. Quyền sau song sắt
Một trong những tên gọi trớ trêu nhất trong tiếng Việt thời nay là « cơ
quan bảo vệ pháp luật », vì chính các cơ quan đó lại hay vi phạm pháp
luật nhất. Vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn
chỉ là một ví dụ điển hình trong muôn vàn vụ việc, đã và đang xảy ra thường
xuyên trên mọi miền Tổ quốc. Tại sao nhân danh bảo vệ pháp luật mà lại vi phạm
pháp luật như vậy? Chắc hẳn, pháp luật chỉ là thứ mà họ vin vào, chứ
không phải là cơ sở pháp lý mà họ tôn trọng và tuân theo khi thao túng quyền
lực.
2.1.
Những người bị bắt, bị giam
“thân cô thế cô” trong chốn ngục tù, dù “đúng người đúng tội” cũng
rất cần được luật sư bảo vệ và trợ giúp pháp lý. Nếu bị bắt oan thì lại càng
cần luật sư bênh vực. Thế nhưng, bộ máy điều tra, giam giữ thường cô lập
nghi can, bị can, bị cáo, không cho họ có điều kiện lựa chọn và tiếp xúc với
luật sư, đặng dễ bề tra hỏi, ép cung, dàn dựng… Thậm chí, nhiều người bị
ép buộc phải khước từ luật sư do người nhà đứng ra mời và chấp nhận luật sư do
bên điều tra áp đặt, nên dù có bào chữa cũng bằng… âm.
Về “quyền bào chữa”,
Hiến pháp 1992 quy định như sau, trong khuôn khổ hiến định trách nhiệm của Tòa
án:
“Điều132 Quyền bào
chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa cho mình…”
Như vậy, Hiến pháp 1992 chỉ
đề cập đến “quyền bào chữa của bị cáo”, tức là của “người đã
bị Toà án quyết định đưa ra xét xử” (theo định nghĩa tại Điều 50 Bộ luật tố tụng hình sự).
Nếu Hiến pháp chẳng hề đề cập tới “quyền bào chữa” thì có thể cũng chẳng
hề chi, nhưng khi đề cập một cách không đầy đủ thì lại trở thành tai hại, vì có
thể tạo ra cách nghĩ sai lầm là người bị bắt, người bị tạm giam giữ
(theo định nghĩa tại Điều 48 Bộ luật tố tụng hình sự)
và bị can (tức là “người đã bị khởi tố về hình sự” – theo định
nghĩa tại Điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự)
không có “quyền bào chữa”.
Tuy nhiên, hạn chế của Hiến
pháp 1992 không phải là lý do duy nhất khiến “quyền bào chữa” của “người
bị tạm giữ, bị can” bị xâm phạm tràn lan. Bởi vì Điều 11 Bộ luật tố tụng hình sự
đã quy định rõ ràng rằng:
“Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự
bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.”
“Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ
bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa
của họ theo quy định của Bộ luật này.”
Hạn chế kể trên của Hiến
pháp 1992 được khắc phục một phần bởi Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp 2013,
trong khuôn khổ hiến định trách nhiệm của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân:
“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo
vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.”
(Tức là ngoài “bị cáo”
thì thêm đối tượng “bị can” cũng được bảo đảm “quyền bào chữa”.)
Và nó được khắc phục nhiều hơn bởi Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013,
trong khuôn khổ hiến định quyền con người:
“Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.”
Như vậy, theo
quy định của Hiến pháp 2013, kể từ khi “bị bắt” đến khi “bị xét xử”, mọi người
đều “có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”.
Có điều, một khi đã đề cập
đến quyền con người trong vòng lao lí, thì Hiến pháp viết như vậy vẫn
chưa đầy đủ. Từ “bào chữa” khiến người ta chỉ chú tâm vào việc “bênh vực cho đương sự trước tòa án”, tức
là khi xét xử, và cùng lắm là mở rộng ra lúc điều tra, khi công
an thẩm vấn đối tượng để xác định tội phạm. Nhưng lúc ở sau song sắt, ngoài
giờ hỏi cung hay xét xử, dù trước khi ra tòa hay đang thi
hành án, thì đương sự vẫn cần được luật sư trợ giúp và bảo vệ trước
sự cư xử trái pháp luật của bộ máy điều tra và giam giữ. Vậy nên cần sửa
lại Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp 2013,
bằng cách bổ sung thêm thời gian “thi hành án” cũng như “quyền được luật sư bảo
vệ và trợ giúp pháp lý”, đại loại có thể viết như sau:
“Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, hoặc thi hành án có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc
người khác bào chữa, có quyền được luật sư bảo vệ và trợ giúp pháp lý.”
2.2.
Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013
hiến định:
“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của
Thẩm phán, Hội thẩm.”
Vốn dĩ, quy định “xét
xử độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” đã có trong Điều 130 Hiến pháp 1992,
song khoản hiến định đó tỏ ra vô dụng trên thực tế. Các thẩm phán vẫn hay bị
các loại cấp trên chi phối.
Nay có thêm quy định “nghiêm
cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử”, liệu nó có
thể góp phần kích hoạt lòng tự trọng của các thế lực quen thói lộng quyền và
đánh thức lương tâm nghề nghiệp của các thẩm phán quen phán xử theo lệnh trên
hay không?
Ít nhất, về
mặt pháp lý, các thẩm phán không thể biện hộ cho hành vi uốn cong cán cân công
lý để xử sai, và các tầng thượng cấp không thể chối tội nếu bất chấp Hiến pháp
để can thiệp vào việc xét xử của tòa án. Và họ không thể dùng pháp luật hiện
hành để gỡ tội khi đứng trước vành móng ngựa trong chế độ kế tiếp.
2.3.
Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013
hiến định:
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm.”
« Nguyên tắc tranh tụng » là gì? Trong bài « Bảo
đảm tranh tụng tại phiên tòa, cơ sở hình thành phán quyết của Tòa án », Tiến sĩ Nguyễn Sơn –
Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao – đã giải thích:
« Tranh tụng trong tố tụng
hình sự: là sự tranh luận của bên buộc tội và bên bào chữa, dựa trên những
chứng cứ được đưa ra trước phiên tòa do các bên thu thập theo quy định của pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là cơ sở để Tòa án ra phán quyết
có hiệu lực thi hành, nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con người. »
Khi viết « là cơ sở… »,
chứ không phải « là một trong những cơ sở… », thì có nghĩa đó là « cơ
sở duy nhất ». Tức là: Khi phán quyết, Tòa án phải dựa và chỉ được dựa
trên kết quả tranh luận trước tòa giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Không
được khăng khăng bám vào những chứng cứ hay lời khai nhận do bên điều tra và
công tố đưa ra, bất chấp lập luận của bên bào chữa. Càng không thể phán quyết
theo « bản án bỏ túi », được thế lực nào đó ấn định từ trước khi diễn
ra tranh luận tại phiên tòa.
Hệ quả của Điều
103 Hiến pháp 2013 là: Những thẩm phán chân chính có thêm cơ sở pháp
lý để phán xử tử tế, theo đúng lương tâm nghề nghiệp. Còn những thẩm phán bù
nhìn thì mất bớt đường biện hộ cho bản lĩnh kém cỏi và hành động vô lương của
mình. Số phận dân oan sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào việc họ có được thẩm
phán chân chính xét xử và được luật sư đủ tài năng bào chữa hay không.
3. Rộ nở «công khai»
Một trong những nét đặc biệt trong Hiến pháp 2013 là từ « công khai »
đột nhiên « nở rộ ». Từ này vốn chỉ xuất hiện hai lần trong Hiến
pháp 1946 và đúng một lần trong mỗi bản Hiến
pháp 1959, Hiến
pháp 1980 và Hiến
pháp 1992. Nhưng nó xuất hiện đến 7 lần trong Hiến
pháp 2013.
3.1.
Về cơ bản, đó là một triệu chứng tốt. Nhưng đôi khi, ý nghĩa của từ « công
khai » lại khá khó hiểu, chẳng hạn:
« Nhà nước tạo điều kiện để
công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong
việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân. » (Khoản
2 Điều
28 Hiến pháp 2013)
« Công khai… trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công
dân » có nghĩa là thế nào? Nếu công dân « kiến nghị » về vấn đề
gì đó, thì cứ việc lặng lẽ mà « tiếp nhận », xem xét và giải
quyết nghiêm túc, rồi « phản hồi » trực tiếp cho người có kiến
nghị. Như vậy đã có thể coi là đủ. Có nhất thiết phải « công khai »,
công bố với thiên hạ, rằng ông nọ bà kia kiến nghị cái ấy, nhưng
chẳng được chấp thuận vì lý do nào đấy, khiến người đó bị cười chê, hay
không? Đặc biệt, khi công dân muốn kiến nghị, tố cáo một cách kín đáo về hành
vi tham nhũng của quan chức, thì có nên « công khai » cho tham
quan biết để trả thù hay không?
Và đây nữa:
« Nhà nước thu hồi đất do tổ
chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi
thường theo quy định của pháp luật. » (Khoản 3 Điều
54 Hiến pháp 2013)
Tại sao lại đưa ra đòi hỏi « phải công khai » (khi đã có
yêu cầu « minh bạch ») trong hoàn cảnh này? Nếu không hiến
định « công khai », thì người dân có thể chấp nhận để cho « việc
thu hồi đất » diễn ra kín đáo, vụng trộm hay không? Và « phải
công khai » đến mức độ nào? Điều mà người dân muốn biết là danh tính
của các thế lực nấp sau « việc thu hồi đất » để chia chác lợi
lộc, vậy thì có định « công khai » về chúng hay không?
3.2.
Có một yêu cầu « công khai » đã trở thành kinh điển, đó là:
« Tòa án nhân dân xét xử
công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần
phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư
theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín. »
(Khoản 3 Điều
103 Hiến pháp 2013)
Nội dung « Tòa án nhân dân xét xử công khai » đã xuất hiện
trong tất cả các hiến pháp của chế độ này, tại Điều
67 Hiến pháp 1946, Điều
101 Hiến pháp 1959, Điều
133 Hiến pháp 1980 và Điều
131 Hiến pháp 1992. Tiếc rằng, cái đòi hỏi chính đáng đó đã trở thành
hiện thân của sự dối trá trắng trợn. Tuyên bố là « xét xử công
khai », nhưng lại tung ra lực lượng dày đặc để ngăn cấm những người
quan tâm tiếp cận khu vực xử án, đến mức cả bố mẹ, anh chị em ruột của bị cáo cũng
không được vào phòng xét xử. Thực tế đó diễn ra triền miên, ngang nhiên… Ấy vậy
mà các cấp lãnh đạo vẫn cứ làm ngơ, như thể không hề hay biết. Trớ
trêu hơn, với tư cách « đại biểu cao nhất của Nhân dân », « thực
hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp » và « giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước » (Điều
69 Hiến pháp 2013), đại biểu Quốc hội vẫn bỏ qua, không đòi hỏi Thủ
tướng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Công an (là
những chức vụ do Quốc hội « bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm » hoặc « phê
chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức » theo quyền hạn được
hiến định tại Điều
84 Hiến pháp 1992 và Điều
70 Hiến pháp 2013) ra lệnh thuộc hạ chấm dứt cái tệ nạn vi hiến, phi
pháp ngang nhiên ấy.
Lần này, bên cạnh đòi hỏi « xét xử công khai » trong khuôn
khổ hiến định trách nhiệm của tòa án, Hiến pháp 2013 còn bổ sung thêm
quy định « xét xử công khai » vào quyền con người, là
« được… xét xử công khai »:
« Người bị buộc tội phải
được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công
khai. Trường hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải
được công khai. » (Khoản 2 Điều
31 Hiến pháp 2013)
Hy vọng rằng, khi được nhấn mạnh đến hai lần trong Hiến
pháp, nhà cầm quyền sẽ không tiếp tục coi quy định « xét xử công khai »
như một trò đùa pháp lý. Và người dân cũng ý thức rõ hơn quyền hiến định của
mình, để mà cương quyết đấu tranh, đòi nhà cầm quyền phải tôn trọng và thực
hiện nghiêm chỉnh.
3.3.
Đòi hỏi « công khai » mới mẻ sau đây kéo theo một hệ quả
quan trọng:
« Ngân sách nhà nước, dự
trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do
Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công
khai, minh bạch, đúng pháp luật. » (Khoản 1 Điều
55 Hiến pháp 2013)
Có nghĩa là từ nay, các cơ quan Nhà nước phải « công
khai » mọi khoản chi tiêu thuộc « ngân sách nhà nước, dự trữ quốc
gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính công khác do Nhà nước thống
nhất quản lý ».
Cơ sở chính đáng của quy định này là: Tiền bạc và của cải mà Nhà nước đứng
ra quản lý chính là của Nhân dân, nên Nhân dân có quyền biết và phải biết để
giám sát xem Nhà nước chi tiêu có hợp lý hay không. Biết để còn can thiệp,
hay ngăn chặn trong trường hợp cần thiết, chứ không phải biết chỉ để mà tức… Vì
thế, Nhân dân phải biết đủ sớm, chứ không phải đợi đến lúc mọi chuyện
trôi qua, khi tiền bạc, của cải của Nhân dân đã « không cánh mà bay »,
và thủ phạm đã « hạ cánh an toàn »… Quy định « phải được sử
dụng… công khai » cần được hiểu là phải « công khai »
từ trước khi « sử dụng », tức là từ khi lập kế hoạch « sử
dụng ». Điều đó cũng giống như việc người điều khiển phương tiện giao
thông phải có tín hiệu báo hướng rẽ từ trước khi rẽ, chứ không phải rẽ xong rồi
mới phát tín hiệu rẽ. Muộn nhất thì cũng phải « công khai » trong
khi đang « sử dụng », chứ không thể đợi đến lúc xong xuôi hay sau
một thời gian thì mới « công khai ».
Cần phải nhấn mạnh, rằng Điều
55 Hiến pháp 2013 quy định phải « công khai »
tất cả các khoản chi tiêu đó, không có ngoại lệ. Nghĩa là phải
« công khai » cả các khoản chi cho đảng cầm quyền, cũng như chi cho
bộ máy quốc phòng và bộ máy an ninh…
Hệ quả hiển nhiên là: Không được coi những thông tin ấy
là « bí mật Nhà nước » và không được phép đóng dấu « mật »
hay « tuyệt mật » lên các tài liệu liên quan, bởi vì như vậy là vi
hiến. Hơn thế nữa, không được kết tội những công dân lưu trữ hay công bố tài
liệu liên quan là « chiếm đoạt bí mật Nhà nước » hay « làm lộ bí
mật Nhà nước » (theo Điều
263 Bộ luật hình sự).
3.4.
Với việc thông qua Hiến pháp 2013, Quốc hội đã tự dành cho mình một cam kết
« công khai », đó là:
« Quốc hội họp công khai.
Trong trường hợp cần thiết, theo đề nghị của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu
Quốc hội, Quốc hội quyết định họp kín. » (Khoản 1 Điều
83 Hiến pháp 2013)
Việc hiến định « Quốc hội họp công khai » không phải là
ngoại lệ hiếm hoi, mà là thông lệ khá phổ biến trong hiến pháp của các nước
trên thế giới, ví dụ như Hiến pháp Ba Lan (Điều 113), Hiến
pháp Bỉ (Điều 47), Hiến pháp Bồ Đào Nha (Điều 116), Hiến pháp
Đan Mạch (Điều 49), Hiến
pháp Đức (Điều 42), Hiến pháp Hungari (Chương Nhà nước,
Điều 5), Hiến pháp Hy Lạp (Điều 66), Hiến
pháp Na Uy (Điều 84), Hiến pháp Nhật (Điều 57), Hiến pháp Pháp (Điều 33), Hiến
pháp Thụy Điển (Chương 4, Điều 9)…
Ở Việt Nam, nội dung Quốc hội « họp công khai » đã xuất
hiện trong Hiến
pháp 1946 (Điều thứ 30), nhưng nó bị thủ tiêu trong ba bản hiến pháp
kế tiếp (từ năm 1959), để rồi sau 54 năm mới lại được tái hiện trong Hiến
pháp 2013.
« Quốc hội họp công khai » có nghĩa là thế nào? Có thể tìm
thấy câu trả lời rõ ràng ngay trong Hiến
pháp 1946 của chính chế độ này:
« Điều thứ 30 Nghị
viện họp công khai, công chúng được vào nghe. Các báo chí được
phép thuật lại các cuộc thảo luận và quyết nghị của Nghị viện. Trong những
trường hợp đặc biệt, Nghị viện có thể quyết nghị họp kín. »
Vâng, đặc điểm tối thiểu của « họp công khai »
là « công chúng được vào nghe »…
Hiển nhiên phải là như vậy! Vì « Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của
Nhân dân », do Nhân dân bầu ra, để
thay mặt Nhân dân đóng vai trò « cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất » trong đất nước mà « tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân », nên tất nhiên Nhân
dân có quyền chứng kiến « cơ quan đại biểu » của mình họp hành, hoạt động
như thế nào.
Nếu muốn thì công chúng phải được chứng kiến trực tiếp. Tức
là « vào nghe » trực tiếp ngay trong phòng họp của Quốc hội,
chứ không phải gián tiếp, qua thông tin tường thuật của tivi, đài, báo,
đã bị biến dạng qua lăng kính chủ quan của nhà báo và bị bóp méo bởi cái gọi là
« định hướng tuyên truyền ». Kể cả xem « truyền hình
trực tiếp » trong phòng cách biệt (với phòng họp Quốc hội) hay qua
chương trình TV cũng không phải là « chứng kiến trực tiếp »,
vì tín hiệu truyền hình có thể « bị trục trặc » đúng những lúc
gay cấn, hay ống kính ghi hình có thể bị quay lệch khỏi hướng đáng quan tâm.
Ảnh 2: Phòng họp toàn thể của Quốc hội Đức, với 6 khán đài dành cho công chúng, khách và nhà báo chứng kiến trực tiếp các phiên họp công khai của Quốc hội (Nguồn: mitmischen.de) |
Liệu Nhà Quốc hội Việt Nam đang được xây dựng có phù hợp với tinh thần « Quốc hội họp công khai » (nghĩa là có chỗ cho công chúng « vào nghe ») hay không? Nếu không phù hợp, thì nhân dịp đề nghị bổ sung hơn 2.000 tỷ đồng cho Dự án Nhà Quốc hội, với lý do « thiết kế công trình Nhà Quốc hội được điều chỉnh theo hướng điều chỉnh lại công năng cho phù hợp với yêu cầu sử dụng mới », phải nhanh chóng tạo dựng thêm chỗ cho công chúng « vào nghe ». Nếu phớt lờ, không chịu hiệu chỉnh theo tinh thần của Hiến pháp mới được thông qua, thì những người chịu trách nhiệm xây dựng Nhà Quốc hội và điều khiển các cuộc họp Quốc hội trong tương lai sẽ bị coi là vi phạm Hiến pháp.
Điều đáng lo hơn là liệu những người lãnh đạo Quốc hội đã thực tâm chấp
nhận việc « Quốc hội họp công khai » hay chưa? Vốn dĩ, nhân
danh « bảo vệ an ninh », họ có thể chặn cả đường giao thông
công cộng, ngăn không cho dân chúng đi qua khu vực mà Quốc hội họp. Thậm
chí, họ từng ngang nhiên đưa ra lệnh cấm: « Phóng
viên không được phỏng vấn và chụp ảnh đại biểu Quốc hội trong khu vực sảnh
trước của hội trường – nơi đại biểu Quốc hội giải lao ». Phóng viên của báo chí
chính thống, vừa thực hiện nhiệm vụ của bộ máy tuyên truyền « lề đảng »
và thực thi quyền tự do báo chí, vừa đáp ứng yêu cầu truyền tải thông tin để cử
tri cả nước theo dõi và giám sát hoạt động của Quốc hội, mà còn bị cản trở thô
bạo như vậy, thì làm sao người lao động chân quê có thể len vào chốn « Quốc
hội họp công khai »?
Đây là một trong những thử thách đầu tiên đối với Quốc hội sau khi Hiến
pháp 2013 có hiệu lực. Người dân có thể kiểm nghiệm thái độ tôn trọng và chấp hành
Hiến pháp của chính bản thân Quốc hội, bằng cách sớm đăng ký tham gia chứng
kiến trực tiếp các cuộc « họp công khai » của Quốc hội. Để
tránh ngụy biện về hoàn cảnh chật chội, do chưa xây xong Nhà Quốc hội mới, có
thể viết thẳng vào đăng ký rằng sẵn sàng đứng nghe hoặc mang theo ghế xếp để
ngồi nghe.
Nếu Quốc hội viện cớ quanh co, không chịu thi hành cái điều
khoản hiến định có thể dễ dàng thực hiện ngay lập tức, chẳng bị ai cản trở
ngoài chính bản thân, thì chứng tỏ họ coi Hiến pháp vừa thông qua chỉ là trò
đùa. Và nếu cơ quan lập hiến nhìn nhận như vậy thì đừng có hy vọng hão huyền
vào sự tôn trọng Hiến pháp của bộ máy cầm quyền.
Ngược lại, nếu Quốc hội thực sự chấp nhận để người dân nào « vào
nghe » các cuộc họp được hiến định là « công khai »,
thì đó là một tín hiệu tốt, chứng tỏ Quốc hội cũng muốn xây dựng nhà nước pháp
quyền.
4. Mánh lới bất thành
Trong Hiến pháp 2013, có ba điều hiến định về quyền công dân được kèm theo
câu « Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định » hay
« … do luật định », đó là:
« Điều
23 Công dân có
quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước
ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. »
« Điều
25 Công dân có
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội,
biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. »
« Điều
27 Công dân đủ
mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền
ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Việc thực hiện các quyền này do luật
định. »
Câu kèm theo đó mang dụng ý gì?
4.1.
Để trả lời câu hỏi trên, ta điểm lại quá trình thay đổi, biến dạng của điều
hiến định về quyền « tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông
tin, hội họp, lập hội, biểu tình » qua các đời Hiến pháp của chế độ
này.
Trong hai bản hiến pháp đầu tiên (Hiến
pháp 1946 và Hiến
pháp 1959), các quyền công dân thuộc thể loại này được
hiến định một cách vô điều kiện, không bị hạn chế (xem Phụ lục I).
Có lẽ, đó là biểu hiện của thế hệ cầm quyền mới thoát thân từ cương vị bị
trị, chưa kịp lĩnh hội đầy đủ kỹ năng quản lý xã hội, và cũng chưa bị
nhiễm nặng « hội chứng cầm quyền ».
Hiến pháp thứ ba được thông qua vào năm 1980, giữa lúc đất nước đã thống nhất
dưới sự lãnh đạo độc quyền của ĐCSVN. Trên đỉnh cao quyền lực, nhà cầm quyền
không cần lấy lòng dân chúng như thời kỳ còn phải tranh chấp, nên một số quyền
tự do của công dân trong Hiến pháp 1980 được hiến định kèm theo ràng buộc:
« Điều
67 Công dân có các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự
do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu tình, phù hợp với lợi ích của chủ
nghĩa xã hội và của nhân dân.
Nhà nước tạo điều kiện vật chất cần thiết để công dân sử
dụng các quyền đó.
Không ai được lợi dụng các quyền
tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. »
Tức là « các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự
do lập hội, tự do biểu tình » của công dân phải « phù hợp với lợi
ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân », trong đó « lợi ích
của chủ nghĩa xã hội » chiếm vị trí hàng đầu, còn « lợi ích của nhân
dân » chỉ đứng hạng hai. Cả hai loại lợi ích đó và cái gọi là « lợi
ích của Nhà nước » đều trừu tượng, nên dễ quy chụp những hành động của dân
chúng mà nhà cầm quyền không thích là « không phù hợp » hay « xâm
phạm » các lợi ích đó.
Hiến pháp thứ tư – Hiến pháp 1992 – ra đời vào lúc Liên Xô và hệ thống xã
hội chủ nghĩa ở châu Âu đã sụp đổ đồng loạt, « chủ nghĩa xã hội »
trở nên tai tiếng. Vì vậy, các nhà lập hiến Việt Nam đã xóa bỏ điều kiện « phù
hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội » và thay bằng ràng buộc « theo
quy định của pháp luật »:
« Điều
69 Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có
quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của
pháp luật. »
Việc đột nhiên hủy bỏ nội dung « Nhà nước tạo điều kiện vật chất
cần thiết để công dân sử dụng các quyền đó » (vốn có trong Điều
67 Hiến pháp 1980 và Điều
25 Hiến pháp 1959) cho thấy: Ngay từ khi ban hành Hiến pháp 1992 nhà cầm
quyền đã không muốn chấp nhận người dân thực thi các quyền hiến định ấy. Trên
thực tế, họ đã dựa vào điều kiện « theo quy định của pháp luật »
để « câu giờ », cố tình không ban hành các luật liên quan, để
lập luận rằng: Khi chưa có pháp luật quy định cụ thể thì chưa thể hành động « theo
quy định của pháp luật ».
Nguy hiểm tiềm tàng của thuật ngữ « theo quy định của pháp luật »
ẩn chứa trong không gian bao la của cái gọi là « pháp luật ». Theo Điều 2
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 172008/QH12, thì trong « Hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật » không chỉ có Hiến pháp và các luật,
mà còn có cả « Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân”. Hơn nữa, Điều 2
Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân
số 31/2004/QH11 cho phép.
« Hội đồng nhân dân ban hành
văn bản quy phạm pháp luật trong những trường hợp… quyết định những chủ trương,
chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp… »
và cho phép
« Uỷ ban nhân dân ban hành
văn bản quy phạm pháp luật… để thi hành Hiến pháp… »
Như vậy, cả Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp phường, xã cũng có
thể viện cớ hiến định để hạn chế quyền công dân. Vì Hiến pháp không quy
định nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp,
nên khó chỉ ra một cách trực tiếp rằng các hành vi sai trái hạn chế quyền công
dân của các cơ quan đó là vi hiến.
Trong khi trì hoãn hơn nửa thế kỷ, cố tình không ban hành luật để bảo đảm
thực hiện các quyền hiến định, thì nhà cầm quyền lại sinh ra một số nghị định
và thông tư để hạn chế quyền tự do của công dân. Điển hình là cặp Nghị
định số 38/2005/NĐ-CP và Thông
tư số 09/2005/TT-BCA nhằm ngăn cấm thực thi quyền hội họp, biểu
tình, và cặp Nghị
định số 136/2006/NĐ-CP và Thông
tư số 04/2010/TT-TTCP nhằm cản trở khiếu nại có nhiều người tham
gia. Song bài « Lực
cản Nhà nước pháp quyền » đã chỉ ra rằng các nghị định và
thông tư đó vi phạm Hiến pháp và luật.
Như đã khẳng định trong bài « Quyền biểu tình của công dân »: Chừng nào chưa
có « quy định của pháp luật », thì chừng ấy chưa có hạn chế đối với
quyền biểu tình, nên công dân có quyền biểu tình một cách hoàn toàn tự do, theo
đúng tinh thần của Hiến pháp 1992, không phải đợi đến lúc có Luật biểu tình hay
một văn bản tương tự.
Sau mấy phương án dự thảo nhằm khắc phục tình trạng đuối lý (xem Phụ lục
II), cuối cùng Hiến
pháp 2013 (Điều 25) quy định:
Mệnh đề « theo quy định của pháp luật » (trong Điều
69 Hiến pháp 1992) được xóa đi, không phải vì sự hào phóng đột biến, mà để
thay bằng câu sau:
« Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. »
Nghĩa là vẫn bảo lưu khả năng thao túng bao la của cái gọi là « pháp
luật ». Đáng nói hơn, là ba chữ « việc thực hiện »
được huy động vào cuộc. Để làm gì?
Một mặt, mục tiêu đặt ra chỉ là sửa đổi chứ không phải viết mới Hiến pháp, nên
những chỗ thực sự cần thiết mới được sửa, nghĩa là thay đổi kể trên không thể
vô tình, mà chắc đầy dụng ý. Mặt khác, bộ máy đương quyền càng tỏ ra ngu ngơ và
gắn bó với đồng chí phương bắc bao nhiêu, thì lại càng ranh mãnh và đối kháng
với Dân ta bấy nhiêu, cho nên chẳng ngạc nhiên khi năng lực sáng tạo của nhà
cầm quyền lại được huy động để đối phó với Dân ta. Vì thuật ngữ « theo
quy định của pháp luật » vẫn chưa đủ thuyết phục, nên nay thay nó bằng
mệnh đề « Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định »,
hẳn là để nhấn mạnh rằng « các quyền này » chỉ được « thực
hiện » khi có « pháp luật quy định ».
Với mánh lới mới mẻ này, một bức tường pháp lý vững chắc hơn trước được
dựng lên vô thời hạn để cản công dân đến với quyền tự do. Nếu sau này bất
đắc dĩ phải để công dân « thực hiện » quyền nào đó, thì họ sẽ dùng
pháp luật để hạn chế đáng kể quyền ấy.
Đó có lẽ cũng là chìa khóa để giải mã thâm ý của Điều
23 (về quyền tự do đi lại và cư trú, quyền ra nước ngoài và từ nước
ngoài về nước) và Điều
27 (về quyền bầu cử và ứng cử) trong Hiếp pháp 2013.
4.2.
Nếu đấng sinh thành ra Hiến pháp 2013 nghĩ như vậy, thì đấy chỉ là ý
muốn chủ quan của họ.
Không thể trì hoãn mãi mãi việc ban hành các luật liên quan. Chớ viện cớ
thiếu thời gian hay thiếu kinh phí. Gần 70 năm đã trôi qua kể từ khi
chế độ này ra đời, chẳng nhẽ vẫn chưa đủ thời gian để làm các luật bảo đảm thực
thi quyền công dân hay sao? Bỏ hàng núi tiền của Nhân dân nuôi béo tham nhũng
thì được, chẳng nhẽ trích một phần nhỏ kinh phí để làm luật lại không được hay
sao? Hơn nữa, nhiều người sẵn sàng cùng nhau viết luật, và có đủ khả năng
hoàn thành sản phẩm với chất lượng tốt trong thời gian ngắn. Chỉ cần Quốc hội
chân thành đề nghị, thì họ sẽ ra tay. Nếu quả thật Quốc hội thiếu tiền, thì họ
sẵn sàng làm không công, giống như bỏ công viết những bài như thế này.
Trong một thể chế xưng danh « Nhà nước pháp quyền » (Điều 2
Hiến pháp 2013) thì đảng cầm quyền cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành
Hiến pháp và pháp luật. Một khi đã hiến định rằng « Mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật » và « Không ai bị phân biệt đối xử
trong đời sống chính trị » (Điều
16 Hiến pháp 2013), thì không thể đòi hỏi các tổ chức và cá nhân khác phải
thực hiện những điều mà đảng cầm quyền và các đảng viên của nó không cần thực
hiện.
Nếu đòi hỏi các tổ chức khác phải đăng ký và chỉ được hoạt động sau khi
được cấp phép, thì sẽ vấp phải các câu hỏi sau đây: ĐCSVN đã làm thủ tục
đăng ký thành lập khi nào? Đã được chính quyền thời đó cấp phép hay chưa?
Cho đến nay, Luật
quy định quyền lập hội, ban hành bởi Sắc lệnh số 102/SL-L004 do Chủ tịch Quốc
hội Hồ Chí Minh ký ngày 20/5/1957, vẫn còn nguyên hiệu lực, và nó
được lấy làm căn cứ cho Nghị
định số 33/2012/NĐ-CP, mới được ký vào ngày 13/4/2012. Sắc lệnh này quy định:
« Điều 4. Những hội đã thành lập trước ngày ban hành luật này và đã hoạt động trong vùng tạm bị chiếm trong
thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại. »
Rõ ràng, ĐCSVN là « hội đã
thành lập trước ngày ban hành luật này » và « đã hoạt động trong vùng
tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng chiến ». Vậy thì, sau ngày 20/5/1957, ĐCSVN
đã làm thủ tục « xin phép lại » hay chưa?
Điều 4 Hiến pháp 2013 quy định:
« Đảng Cộng sản Việt Nam… là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. »
« Các tổ chức của Đảng và
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp
luật. »
Cho đến tận bây giờ, Hiến pháp vẫn chưa xác định nhiệm vụ và quyền
hạn của « lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội », trong khi
hiến định rõ nhiệm vụ và quyền hạn
của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng
Chính phủ. Hiến
pháp và pháp luật cũng chưa hề ban hành « khuôn khổ » hoạt động của
đảng. Song ĐCSVN không hề chờ đợi, mà vẫn ngang nhiên « hoạt động ».
Vậy thì tại sao
lại không chấp nhận cho công dân thực thi các quyền hiến định, mà đòi họ phải
chờ đợi, đến khi có « pháp luật quy định » thì mới được « thực hiện
các quyền này »?
4.3.
Như đã viết ở trên, các quyền công dân tại Điều
23, Điều
25 và Điều
27 được hiến định không kèm theo ràng buộc, chẳng phải vì hào phóng
bất thường, mà do dự định dùng luật và các văn bản dưới luật để « siết
lại ». Tiếc thay, hiện trạng của Hiến pháp 2013 không cho phép
bất kỳ ai triển khai ý đồ « siết lại » nữa. Vì sao?
Nguyên tắc sơ đẳng trong kỹ thuật lập hiến và lập pháp là: Luật và
các văn bản dưới luật chỉ có thể hạn chế một quyền hiến định nào đó, nếu Hiến
pháp cho phép hạn chế đích danh quyền ấy. Ví dụ, Hiến
pháp CHLB Đức quy định như sau:
« Điều 5
(1) Mọi người có quyền tự do phát biểu và phổ
biến quan điểm của mình bằng lời nói, chữ viết và hình ảnh, và tự do tìm hiểu
thông tin từ các nguồn có thể truy cập phổ thông. Tự do báo chí và tự do thông
tin được đảm bảo. Không được kiểm duyệt.
(2) Những quyền này bị hạn chế bởi quy định
trong các luật phổ quát, bởi quy định của Luật bảo vệ thanh thiếu niên, và bởi quyền được bảo
vệ danh dự cá nhân… »
« Điều 8
(1) Mọi người Đức đều có quyền tụ họp một cách
hòa bình và không mang theo vũ khí, mà không cần phải trình báo hay được chuẩn
y.
(2) Đối với các cuộc tụ họp ngoài trời, quyền
này có thể bị hạn chế bằng luật hoặc trên cơ sở của một luật. »
Nguyên tắc sơ đẳng đó không phải là quá xa lạ với các nhà lập hiến Việt
Nam. Có điều, lẽ ra phải được trình bày một cách rõ ràng và chính xác, Hiến pháp
Việt Nam lại bị lây nhiễm cái ngôn ngữ của chính trường hoang vắng lòng trung
thực: Khi nói thẳng thì không thật, còn sự thật thì lại bị úp mở, trình bày
quanh co… Thay vì viết rõ là « quyền… có thể bị hạn chế bằng pháp
luật », thì lại che dấu sau thuật ngữ « có quyền… theo quy
định của pháp luật ».
Trong Hiến
pháp 1992, cụm từ « theo quy định của pháp luật »
đã được viết kèm theo một số quyền công dân, đó là:
· Quyền bầu cử và ứng cử
vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân (Điều
54);
·
Quyền tự do
kinh doanh (Điều 57);
·
Quyền nghỉ
trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp (Điều 63);
·
Quyền tự do đi
lại và cư trú ở trong nước, quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước (Điều 68);
·
Quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền hội họp, lập hội, biểu
tình (Điều 69).
Và quyền xây dựng nhà ở
thì được gắn với điều kiện “theo quy hoạch và pháp luật”
(Điều 62). Viết như vậy có nghĩa là có thể dùng pháp luật để hạn chế các quyền ấy.
(Điều 62). Viết như vậy có nghĩa là có thể dùng pháp luật để hạn chế các quyền ấy.
Hiến pháp 2013 bỏ hiến định
về quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp, đồng
thời bỏ hiến định về quyền xây dựng nhà ở của công dân. Quyền tự do kinh
doanh được hiến định đơn giản và rõ ràng hơn:
“Điều
33 Mọi người
có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.”
Đây cũng là một cách hiến
định, rằng có thể ban hành pháp luật để hạn chế quyền tự do kinh doanh.
Cách hiến định này cũng “tế
nhị” như thuật ngữ “trái luật” trong hai ngữ cảnh sau đây:
“Không ai bị tước
đoạt tính mạng trái luật.” (Điều 19 Hiến pháp 2013)
“Không ai được bóc mở, kiểm soát, thu giữ trái luật
thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của
người khác.” (Điều 21 Hiến pháp 2013)
Ngụ ý là: Có thể ban hành luật để “tước đoạt tính mạng”
của ai đó và cho phép một số đối tượng được quyền “bóc mở, kiểm soát, thu giữ…
thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư của
người khác”.
Rõ ràng là
Hiến pháp 2013 không lãng quên nguyên tắc lập hiến: Để có thể hạn chế một quyền
hiến định bằng luật hay văn bản dưới luật, thì trước hết phải hiến định về khả
năng hạn chế ấy. Vậy mà Hiến pháp 2013 lại hiến định mấy quyền một cách vô điều
kiện tại Điều 23, Điều 25 và Điều 27, không kèm
theo hạn chế và cũng không có hiến định về khả năng hạn chế các quyền ấy bằng
pháp luật.
Mệnh đề “Việc
thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” được kèm theo chỉ cho phép ban
hành pháp luật để hướng dẫn cách “thực hiện”, mà kết quả cuối cùng phải là
người dân được “thực hiện” các quyền đó. Luật và các văn bản dưới luật không
được phép gây khó dễ, nhằm cản trở hay tạo cớ ngăn cấm “thực hiện”, vì như vậy
là vi phạm Hiến pháp 2013.
Có thể một số vị sẽ cố lập
luận, rằng mệnh đề “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” chứa
đựng khả năng dùng pháp luật để hạn chế hay khước từ “việc thực hiện các
quyền này”. Song họ sẽ vấp phải câu hỏi: Tại sao không viết thẳng, viết
rõ dự định hạn chế hay khước từ ấy trong Hiến pháp? Cố tình mập mờ để đánh lừa
ai?
Khoản 1 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật số 12/2008/QH12 quy định:
“Ngôn ngữ sử dụng trong văn bản quy phạm pháp luật
phải chính xác, phổ thông, cách diễn đạt phải rõ ràng, dễ hiểu.”
Theo đó, nếu nhà
cầm quyền dự định dùng pháp luật để hạn chế một quyền hiến định nào đó, thì
phải trình bày dự định ấy trong Hiến pháp một cách “rõ ràng, dễ hiểu”, chẳng
hạn: “Quyền này có thể bị hạn chế bằng pháp luật.”
Hiến pháp
đích thực phải được viết một cách trung thực. Hiến pháp dành cho toàn thể Nhân
dân, nên nó phải được “diễn đạt… rõ ràng, dễ hiểu” đến mức dân thường cũng có
thể hiểu để thi hành. Không được vận dụng kỹ năng lập lờ lươn lẹo từ chính
trường vào Hiến pháp nhằm đánh lừa người dân.
Có lẽ các nhà lập hiến CHXHCN Việt Nam chẳng có ý định
đi xa đến mức chấp nhận những quyền con người, quyền công dân hoàn toàn “bao la”,
không hề bị hạn chế. Nhưng “bút sa gà chết”, câu chữ mà họ sử dụng trong Hiến
pháp 2013 chỉ cho phép kết luận như trên.
5. Sai lầm tai hại
Điều gì khiến các nhà lập
hiến sơ suất như vậy? Hẳn là do chủ quan, quá ỷ lại vào khả năng thao túng của
Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013,
quy định rằng:
“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng
đồng.”
Ý đồ và hệ quả của nước cờ
lạ lẫm này là gì?
5.1.
Vốn dĩ, nội dung của điều
khoản trên được thể hiện trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992
(được đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013) tại
Khoản 2 Điều 15 như sau:
“Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức, sức khỏe của
cộng đồng.”
Bài “Teo dần quyền con người trong
Hiến pháp” đã phê phán khoản dự thảo này và chỉ rõ: Danh
sách “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức,
sức khỏe của cộng đồng” rộng đến mức có thể bao trùm mọi hoàn cảnh thông
thường. Cho nên, nhà cầm quyền luôn có thể viện dẫn những lý do đó, nhằm giới
hạn quyền con người và quyền công dân. Và bất cứ lúc nào họ muốn thì đều quan
niệm là “trường hợp cần thiết”. Vì vậy, việc nhét chữ “chỉ”
vào điều khoản ấy chẳng hề có tác dụng hạn chế phạm vi hành động của giới
cầm quyền, mà cốt để ngụy trang, che đậy mục đích hiến định hóa
việc chính quyền có thể giới hạn quyền con người và quyền công dân. Hơn
nữa, dự thảo không hề đề cập ai và cấp nào có quyền giới hạn. Điều
đó mở đường cho bộ máy cầm quyền các cấp có thể can thiệp tùy tiện vào
quyền con người và quyền công dân.
5.2.
Để khắc phục nguy cơ tùy
tiện, các nhà lập hiến đã bổ sung thêm ràng buộc “chỉ có thể bị hạn chế theo
quy định của luật” vào Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013.
Điều kiện này kéo theo hệ quả gì?
Trước kia, bài “Lực cản Nhà nước pháp quyền”
đã dựa vào nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ được hiến định tại Điều 112 Hiến pháp 1992
để chỉ ra tính vi hiến của Nghị định số 38/2005/NĐ-CP
và Nghị định số 136/2006/NĐ-CP.
Vì Hiến pháp không quy định nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy nhà nước từ cấp bộ
và tỉnh thành trở xuống, nên không thể sử dụng cách lập luận này để chỉ ra tính
vi hiến của văn bản pháp quy do các cấp dưới ban hành.
Nhưng bây giờ thì việc
chứng minh tính vi hiến trở nên đơn giản hơn. Theo Điều 14 Hiến pháp 2013,
ngoài Hiến pháp, chỉ luật mới được hạn chế quyền con người, quyền
công dân. Có nghĩa là: Tất cả các nghị quyết, pháp lệnh, lệnh, quyết định, nghị
định, thông tư… đều trở nên vi hiến nếu chúng hạn chế quyền con người, quyền
công dân. Chẳng hạn như các văn bản hạn chế quyền hội họp, biểu tình
(Nghị định số 38/2005/NĐ-CP),
hạn chế quyền khiếu nại, tố cáo
(Nghị định 136/2006/NĐ-CP),
hạn chế quyền lập hội
(Quyết định 97/2009QĐ-TTg,
Nghị định 45/2010/NĐ-CP,
Nghị định 33/2012/NĐ-CP),
hay hạn chế quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thông tin trên mạng internet (Nghị định 72/2013/NĐ-CP)…
Đáng lưu ý là: Giữa thời
buổi bộ máy cầm quyền đã tha hóa, phạm trù “công vụ” thường bị
lạm dụng để ngụy trang cho những hành động xấu xa và thuật ngữ “chống người thi hành
công vụ” hay bị lạm dụng để vu khống dân lành, thì Chính phủ
lại mới ban hành Nghị định 208/2013/NĐ-CP,
trong đấy cho phép:
“… người thi hành công vụ được… nổ súng để
phòng vệ chính đáng, tấn công, khống chế, bắt giữ người có hành vi chống
người thi hành công vụ.”
Có nghĩa là nghị định này
cho phép người thi hành công vụ xâm phạm “quyền bất khả xâm phạm về thân
thể” (hiến định tại Khoản 1 Điều 20
Hiến pháp 2013), thậm chí có thể “tước bỏ tính mạng” và “quyền sống” (hiến định tại Điều 19 Hiến pháp
2013) của người dân trong một số trường hợp. Như vậy là vi phạm Điều 14 Hiến pháp 2013.
Nghị định 208/2013/NĐ-CP có quy ước:
“Việc nổ súng trong khi thi hành nhiệm vụ được
thực hiện theo quy định tại Điều 22 Pháp lệnh quản lý, sử dụng
vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.”
Nhưng pháp lệnh không
phải là luật, nên việc Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12
cho phép “nổ súng” vào người dân cũng là trái với quy định của Điều 14 Hiến pháp 2013.
Do đó, viện dẫn pháp lệnh đó không có tác dụng cải thiện tình trạng vi hiến
của Nghị định 208/2013/NĐ-CP.
Điều nghiêm trọng là: Nghị định 208/2013/NĐ-CP
được ban hành vào ngày 17/12/2013, tức là 19 ngày sau khi Quốc hội thông qua
Hiến pháp 2013, và nó có hiệu lực từ ngày 1/2/2014, tức là một tháng sau khi
Hiến pháp 2013 có hiệu lực. Như vậy, việc ban hành Nghị định
208/2013/NĐ-CP rõ ràng là một hành vi vi phạm Hiến pháp 2013
trong thế chủ động, không phải bị động như những nghị định đã được ban
hành từ trước khi Hiến pháp 2013 được thông qua. Vì sao Chính phủ lại hành động
bất chấp Hiến pháp như vậy? Quốc hội định “xử lý” thế nào đối với “hành vi vi phạm Hiến pháp”
đó của Chính phủ?
5.3.
Như đã viết trong phần 5.1,
khi được đưa vào dự thảo, mục đích nguyên thủy của Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013
là nhằm hiến định khả năng hạn chế các quyền con người, quyền công dân.
Song họ đã đi sai nước cờ, chọn nhầm cách thể hiện.
Với cách viết như hiện nay, họ mới thể hiện điều kiện
cần, là nếu được phép hạn chế thì “chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật”.
Nó chưa thể hiện được điều kiện đủ cho việc hạn chế quyền con người, quyền công
dân, tức là chưa hề cho phép ban hành luật để hạn chế các quyền ấy.
Những ai đã lĩnh hội kiến
thức ở trường phổ thông đều phân biệt được giữa “điều kiện cần” và “điều
kiện đủ”, và đều hiểu rằng “chỉ có thể…” không có nghĩa là “có
thể…”. Ví dụ: Chắc mọi người đều đồng ý là “chỉ có thể làm Chủ
tịch Quốc hội nếu không mù chữ”. Nhưng như vậy không có nghĩa là thừa nhận
mệnh đề “có thể làm Chủ tịch Quốc hội nếu không mù chữ”.
Để thể hiện “điều kiện
cần và đủ”, lẽ ra phải viết thêm vào Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013
một từ “có thể” nữa, chẳng hạn:
“Quyền con người, quyền công dân có thể và chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng.”
5.4.
Nhưng đấy chỉ là xét về
lô-gíc ngôn ngữ thuần túy. Còn về mặt pháp lý, thì không thể hiến định như vậy.
Bởi lẽ, nếu chấp nhận việc hiến định một cách chung chung, thì có thể thay điều
khoản trên bằng một câu còn tổng quát hơn nữa, đó là:
“Mọi quy định của Hiến pháp đều có thể thay đổi trong
trường hợp cần thiết.”
Và khi đó Hiến pháp cũng
trở nên vô dụng, chẳng cần tốn công bàn luận về nó làm gì nữa.
Khoản 2 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật số 12/2008/QH12 viết rõ:
“Văn bản quy
phạm pháp luật phải quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không quy định
chung chung.”
Trong Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013,
phạm trù “quyền con người, quyền công dân” quá chung chung
và các “nội dung cần điều chỉnh” không hề được “quy định trực tiếp”.
Chùm “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng” cũng quá chung chung, bao la
đến mức có thể quy chụp mọi hoàn cảnh. Khi nhà cầm quyền muốn, thì tất nhiên họ
coi đó là “trường hợp cần thiết”. Cho nên, nếu hiến định như vậy, thì
bất cứ quyền con người và quyền công dân nào cũng có thể bị chà đạp một cách “hợp
pháp”.
Có thể ai đó sẽ ngụy biện,
rằng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật mới phải phù hợp với Hiến pháp,
còn Hiến pháp không cần phải phù hợp với luật ấy. Đừng quên, rằng khi viết
và thông qua Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, thì Hiến pháp 1992 vẫn còn có hiệu lực,
và Khoản 2 Điều 5 Luật số 12/2008/QH12 hoàn toàn hợp hiến, nên họ vẫn phải tuân
theo. Nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp có thể không cần phải tuân theo
luật, nhưng hành vi của những người viết và thông qua Dự thảo thì vẫn phải tuân
theo luật hiện hành.
Thế nào mới có thể coi là “quy
định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh, không quy định chung chung”? Thông
thường, trong điều hiến định về quyền nào đó thì cần quy định luôn hoàn cảnh và
hình thức có thể hạn chế quyền ấy – Như vậy là “trực tiếp” nhất. Nếu có
một hoàn cảnh cần phải hạn chế một số quyền khác nhau, thì có thể sinh ra một
điều hiến định cho hoàn cảnh ấy, nhưng trong đó phải nêu đích danh các quyền
cần phải hạn chế một cách cụ thể (tức là “không quy định chung
chung”). Như vậy mới là “quy định trực tiếp nội dung cần điều chỉnh”.
Một ví dụ minh họa là Điều
17a Hiến pháp CHLB Đức.
Khoản 2 của điều này viết rằng:
“Các luật
phục vụ mục tiêu quốc phòng và bảo vệ thường dân có thể quy định hạn chế quyền
cơ bản về tự do cư trú, đi lại (Điều 11) và bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 13).”
Ở đây, hoàn cảnh “có thể quy định hạn chế quyền cơ bản”
được viết cụ thể là “phục vụ mục tiêu quốc phòng và bảo vệ thường dân”. Hình
thức, phương tiện hạn chế được quy định cụ thể là “luật”. “Nội dung cần điều
chỉnh” được quy định cụ thể là “quyền cơ bản về tự do cư trú, đi lại (Điều 11)
và quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 13)” – Nghĩa là không chỉ nêu đích
danh quyền bị hạn chế, mà còn phải viết rõ là quyền đó được quy định ở điều nào
của Hiến pháp. Như thế mới có thể coi là “quy định trực tiếp”, “không quy định
chung chung”.
Trong thể chế Cộng hòa, Nhà nước phải là “của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”, và đương nhiên Hiến pháp cũng phải
là “của Nhân dân” và “vì Nhân dân”, bất kể nó “do” ai viết ra và “do” ai thông qua. Vì vậy, nhiệm vụ của Hiến pháp là hạn chế sự tùy
tiện của bộ máy Nhà nước, để bảo vệ Nhân dân, bảo vệ quyền con người và quyền
công dân, chứ không phải là khống chế Nhân dân, hạn chế quyền con người và
quyền công dân, để bảo vệ Nhà nước và để bộ máy ấy dễ hành xử tùy tiện.
Tóm lại, không thể biến báo
Điều 14 Hiến pháp 2013, hay tạo mới một
điều khoản duy nhất, để hiến định khả năng hạn chế tất cả các quyền con người
và quyền công dân một cách chung chung! Do đó, không tồn tại khả năng hợp hiến nào để nhà cầm
quyền có thể hạn chế các quyền được hiến định tại Điều 23, Điều 25 và Điều 27 của Hiến pháp 2013.
5.5.
Để ý thức rõ hơn hậu quả tai hại của nước cờ lập
hiến sai lầm, hãy xem xét điều khoản hiến định về “quyền bất khả xâm phạm
về chỗ ở”.
Vốn dĩ, Điều 71 Hiến pháp 1980
quy định:
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người
đó không đồng ý, trừ trường hợp được pháp luật cho phép. Việc khám xét chỗ ở
phải do đại diện cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành, theo quy định của
pháp luật.”
Sau đó, Điều 73 Hiến pháp 1992
bỏ bớt câu thứ ba và chỉ giữ lại hai câu đầu:
“Công dân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được
tự ý vào chỗ ở của người khác nếu người đó không đồng ý, trừ trường hợp được
pháp luật cho phép.”
Nghĩa là cả hai Hiến pháp “tiền nhiệm” đều “trừ trường
hợp được pháp luật cho phép” ra khỏi phạm trù “Không ai được tự ý vào chỗ ở của
người khác nếu người đó không đồng ý”.
Nhưng bây giờ mệnh đề “trừ
trường hợp được pháp luật cho phép” bị xóa khỏi Hiến pháp 2013:
“Điều 22
1. Công dân có quyền có nơi ở hợp pháp.
2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào
chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý.
3. Việc khám xét chỗ ở do luật định.”
Như vậy, Hiến
pháp 2013 quy định dứt khoát rằng: “Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác
nếu không được người đó đồng ý.” Và không hề loại trừ bất cứ trường hợp nào.
Hệ quả pháp lý của Khoản 3 Điều 22 chỉ là: “Việc khám
xét chỗ ở” phải “do luật định”, tức là phải dùng luật, chứ không
được dùng các văn bản dưới luật, như nghị định, thông tư…, để quy định việc
khám xét chỗ ở. Khoản 3 không hề hạn chế hay phủ định Khoản 2, nghĩa là không
hề cho phép ban hành luật quy định “việc khám xét chỗ ở” của bất kỳ người nào
trong trường hợp “không được người đó đồng ý”.
Vậy thì nhà cầm quyền sẽ
làm thế nào khi cần khám xét chỗ ở của nghi can nhưng “không được người đó
đồng ý”?
Trong tiếng Việt thì “không
ai…” có nghĩa là “không người nào…”, kể cả công an và
các loại “tay chân” của họ. Cho đến nay, họ thường cho người đóng vai “quần
chúng bức xúc”, hay giả dạng “côn đồ tự phát”,
thậm chí huy động cả côn đồ đích thực, để đàn áp công dân thực
thi các quyền hiến định. Bây giờ, khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực, nếu cần khám
xét chỗ ở của đối tượng nào đấy nhưng “không được người đó đồng ý”,
chẳng nhẽ lại bắt con người đóng con vật hay sao? Hay tự phủ định tư
cách “người” của mình? Hay ngang nhiên hành động bất chấp Hiến pháp?
Ai cũng biết cái thông lệ được thừa nhận khắp thế giới,
là bộ máy công an, cảnh sát phải được Hiến pháp và luật cho phép khám xét chỗ ở
trong một số trường hợp cần thiết, cho dù chủ nhân có đồng ý hay không. Vậy mà,
thông qua câu chữ đã thể hiện trong Hiến pháp 2013, Quốc hội khóa XIII đã
tước bỏ mất khả năng khám xét hợp lý ấy. Buồn thay…
*
* *
Những điều đã
trao đổi trong bài này dựa trên tư duy và lô-gíc thông thường, dưới giả thiết
là nhà cầm quyền thực tâm tôn trọng và chấp hành Hiến pháp. Tiếc rằng, bằng
hành động thực tế, họ thường xuyên phủ định giả thiết đó. Hiển nhiên, nếu nhà
cầm quyền chỉ coi Hiến pháp là một thứ “tập làm văn”, thì mọi suy luận về hệ
quả của nó đối với thực tế cuộc sống là hoàn toàn vô nghĩa.
Đọc những điều mà ta đã và
sẽ còn tiếp tục rút ra, chắc hẳn nhiều vị đại biểu Quốc hội giật mình, khi thấy
rõ hơn hình hài cái Hiến pháp mà mình đã tắc trách nhấn nút “tán thành” lúc
mới hiểu lõm bõm. Ngược lại, có thể một số vị đã trực tiếp tham gia viết và
chỉnh sửa dự thảo Hiến pháp sẽ phản ứng và quả quyết rằng họ nghĩ hoàn toàn
khác. Nhưng đối với văn bản Hiến pháp thì các tác giả nghĩ ra sao chỉ là
chuyện phụ, điều quyết định là họ đã viết như thế nào. Bởi không
phải cái tư duy quanh co hay ý đồ mập mờ của phía lập hiến, mà chính câu chữ,
lời văn được thể hiện trong Hiến pháp mới xác định nội dung hiến định.
Do đó, dù tuân theo nguyên tắc khách quan, ta chỉ cần dựa trên thực trạng văn
bản Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua và đang có hiệu lực để suy luận, chứ
không phải lệ thuộc vào những gì đã diễn ra trong đầu của thế lực cầm quyền và
quân sư của họ.
Có lẽ do ỷ thế lập pháp, nên chủ quan mà đi sai nước
cờ lập hiến. Bây giờ biết tính sao đây? Vừa thông qua Hiến pháp 2013 với sự tán
thành gần như tuyệt đối, chẳng nhẽ bây giờ Quốc hội lại đem nó ra mà
tẩy xóa? Đã quả quyết rằng Hiến pháp 2013 “thể hiện được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, ý Đảng hợp
với lòng dân”, thì bây giờ Quốc hội có quyền bất chấp “nguyện
vọng của Nhân dân” và “lòng dân” để sửa chữa nó hay không?
Trước sự cố ngoài ý muốn
kiểu này, thông thường có ba cách xử lý như sau.
(1) Quân tử nhất ngôn: Đành chấp nhận hậu quả do sai
lầm của chính mình gây ra, thực hiện đúng văn bản Hiến pháp mà mình đã ban
hành, dù trái ý và bất lợi cho nhà cầm quyền.
(2) Kiên định & trung thực: Không muốn rời bỏ ý
định vốn có, nên thẳng thắn thừa nhận sai lầm, xin lỗi và xin phép Nhân dân cho
sửa chữa các lỗi đã phạm phải, để Hiến pháp thể hiện đúng ý định của thế lực
cầm quyền, dù nó mới được thông qua, còn chưa ráo mực.
(3) Ù lì bất chấp: Không chịu thừa nhận sai lầm, mà
vẫn hành động theo ý mình, bất chấp hiện trạng của văn bản Hiến pháp.
Không hiểu Quốc hội (với tư
cách cơ quan lập hiến) và thế lực thực quyền (điều khiển hành vi
của Quốc hội) sẽ chọn cách nào?
* * * * * * * * * *
Phụ lục I
Điểm chung trong hai bản
hiến pháp đầu tiên của chế độ này là một số quyền công dân được hiến định
một cách đơn giản, vô điều kiện, không bị hạn chế. Hiến pháp 1946 quy
định như sau:
“Điều thứ 10
Công dân Việt Nam có quyền:
·
Tự do ngôn luận
·
Tự do xuất bản
·
Tự do tổ chức và
hội họp
·
Tự do tín ngưỡng
·
Tự do cư trú, đi
lại trong nước và ra nước ngoài.”
Mười ba năm sau, Hiến pháp 1959 sửa
lại thành:
“Điều 25
Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí,
hội họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần
thiết để công dân được hưởng các quyền đó.”
Phụ lục II
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (được
đăng tải để lấy ý kiến nhân dân từ ngày 2/1/2013), Điều 69 Hiến pháp 1992
đã được sửa lại như sau:
“Điều 26 Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí, được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp
luật.”
Điều gì thay đổi ở đây? Như
đã phân tích trong bài “Teo dần quyền con người trong
Hiến pháp”, họ xóa đi hai chữ “có quyền” trước đoạn “được
thông tin” và trước đoạn “hội họp, lập hội, biểu tình”. Đồng thời,
dùng chữ “được” (vốn dĩ chỉ là một thành phần của từ “được thông tin”)
thay cho hai chữ “có quyền” ấy. Để làm gì? Để xóa bỏ những quyền cơ
bản đó của công dân. Từ chỗ công dân luôn “có quyền” (kể cả khi
không có luật hoặc chưa có luật liên quan), bây giờ bị tước “quyền”, và “quyền”
bị hạ cấp xuống thành những thứ “được” ban phát. Mà “được… theo quy
định của pháp luật” thì cũng có nghĩa là “chỉ được… theo quy định của
pháp luật”. Tức là công dân “chỉ được” ban phát nếu nhà cầm quyền đã
ban hành “quy định của pháp luật”. Khi nhà cầm quyền chưa muốn, lờ đi
việc ban hành “quy định của pháp luật”, thì người dân sẽ không
“được thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Qua đó ta thấy,
nhà cầm quyền vẫn duy trì ý chí cản trở công dân thực thi các quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, có quyền thông tin, quyền hội họp, lập hội, biểu tình.
Cuối cùng, trong Hiến pháp 2013 mới
được thông qua, các tác giả đã bỏ từ “được” và thay nó bằng từ “tiếp
cận”:
Như vậy là cụm từ “Công
dân có quyền” ở đầu câu không còn bị chữ “được” chặn đường, mà có
thể tác động liên thông tới tận từ “biểu tình” ở cuối câu.
Hà Nội, ngày 29 tháng 8 năm
2014