Home » Archives for tháng 10 2014
Thánh Martin de Porres và Thời Đại Hôm Nay
23:02 |
Thánh Martin de Porres và Thời Đại Hôm Nay
Martin Nguyễn Thanh Tuyền, O.P
Trong
giới Công Giáo, có lẽ không ai cảm thấy xa lạ với tên Martin de Porres
vào thế kỷ XVI. Từ khi chào đời, ngài đã không được nhìn nhận bởi người
cha đẻ của mình vì ngài có nước da đen như mẹ, vốn xuất thân từ vùng quê
hẻo lánh nghèo nàn tại Panama. Mẹ ngài là người nô lệ mới được phóng
thích, còn người cha thuộc dòng dõi quý tộc da trắng, vậy thì làm sao
giới quý tộc ấy có thể chấp nhận được trong dòng tộc lại có một thành
viên da đen xuất hiện. Thật là một điều sỉ nhục! Sau khi biết chồng tìm
cách xa lánh và tẩy chay mình và đứa con vô tội, mẹ của Martin đành phải
đưa con đi tìm nhà mướn sống qua ngày. Hai mẹ con trong căn lều lụp xụp
đã nương tựa nhau mà tồn tại. Cuộc sống bây giờ thật khó khăn đối với
hai mẹ con nghèo nàn và khổ nhục, và đây cũng là cuộc đời tiêu biểu của
biết bao người dân da đen thời bấy giờ tại thủ đô Lima, nước Pêru, vốn
đang trong cảnh đô hộ và đàn áp tàn nhẫn.
Thiên Chúa vẫn làm nên những điều kỳ diệu từ những gì là tầm thường
nhất, nếu không muốn nói là từ hư không nữa ! Mặc dù gặp bao thử thách
và sỉ nhục vì là đứa con hoang da đen, Martin đã trở nên một vị thánh vô
cùng tuyệt vời cho nước Pêru nói riêng và cho Hội Thánh Công giáo nói
chung. Và, có thể nói được rằng, Martin de Porres cũng chính là vị thánh
của thời đại hôm nay, một thời đại phát triển tột bực về mọi mặt của
đời sống vật chất nhưng cũng lại xuống dốc trầm trọng về khía cạnh luân
lý và tinh thần. Xét về mặt nào đó, xã hội tân tiến ngày nay cũng không
khá hơn gì so với xã hội của thánh Martin xưa kia. Thời Martin là thời
của nô lệ, áp bức, phân biệt khinh khi, nghèo đói, cô độc buồn tủi… thì
ngày nay, xã hội máy móc và tin học đã tưởng chừng đưa con người lại gần
nhau hơn, thế nhưng… thực tế không như vậy!
Người nghèo đâu cả rồi ?
Nói về cuộc đời Đức Phật Tất-đạt-đa, chuyện kể lại rằng, hoàng tử
sống trong đại điện rất lộng lẫy cao sang. Đời sống ngài thật êm đềm
hạnh phúc, nhất là với công chúa Da-du. Vua Tịnh-Phạn yêu thương hoàng
tử Tất-đạt-đa đến độ tôn thờ. Vua chăm sóc hoàng tử chu đáo đến nỗi
không hề muốn con mình có bất cứ điều chi phiền lòng. Vua xây cho hoàng
tử ba cung điện nguy nga, một cho mùa đông, một cho mùa hè và một cho
mùa mưa. Tất-đạt-đa đã tận hưởng tất cả mọi hương vị lạc thú trần gian,
và vẫn hồn nhiên tận hưởng khoái lạc trong đại điện cho đến khi chàng
chứng kiến những cảnh tượng ông cụ lụ khụ chống gậy, người đau bệnh, và
người chết. Tất-đạt-đa suy nghĩ rất nhiều… Và, chàng nghiệm ra chân lý
của cuộc đời là bể khổ.
Vô tri bất mộ. Vâng ! Chỉ khi con người chứng kiến và trải nghiệm thì
mới biết. Tất-đạt-đa sẽ không thể biết được chân lý của của cuộc đời
nếu như chàng không can đảm bước chân ra khỏi cung điện cao sang. Thế
giới bên ngoài chúng sanh không như thế giới bên trong cung điện mà
chàng đã từng hưởng nếm. Vui thì sẽ có buồn. Khoẻ mạnh thì ắt phải có
đau bệnh. Có sáng vì rằng có bóng đêm hiện hữu. Có mặt trăng ắt phải có
mặt trời. Cuộc đời không đơn diện như chàng nghĩ. Thời đại hôm nay cũng
thế. Người nghèo khổ sẽ biến đâu mất nếu chúng ta cũng sống trong “cung
điện.” Thường xuyên tiếp cận với giới trí thức và giàu sang cũng sẽ làm
cho chúng ta quên bẵng đi tầng lớp mù chữ và không có miếng ăn đầy đủ
mỗi ngày. Riêng tại nước Mỹ, một trong những nước giàu có nhất trên thế
giới, theo nhà nghiên cứu xã hội học là Robert E. Rector, ông cho biết
riêng năm 2005 đã có hơn 37 triệu người dân Mỹ không có tiền mua thức
ăn, áo mặc, nơi cư ngụ… Vậy, cứ trong 8 người Mỹ thì có 1 người nghèo
đói. Ứng cử viên tổng thống là ông John Edwards gọi cái nghèo tại Mỹ này
là một “nạn dịch” kinh hoàng. Cung điện mà chúng ta “có thể” đã và đang
sống sẽ che khuất hoặc làm ngơ trước những thực tế của con người. Người
nghèo thì mặc cảm, rụt rè và lẩn tránh.
“Người vững thì đứng lại được, còn người yếu thì sẽ bị cuốn trôi đi.”
Người yếu bị cuốn trôi đi, nhưng họ không biến mất. Có chăng là khả
năng nhận biết sự hiện diện của họ nơi chúng ta biến mất mà thôi. Người
khon khổ vẫn có đó, họ ở ngay bên cạnh Tất-đạt-đa nhưng chàng lại không
nhận biết. Không nhận biết là do chưa can đảm bước ra khỏi chính mình,
mà cũng có thể do sự ích kỷ hay sợ bản ngã mình bị đe doạ đã che lấp một
cách khôn khéo.
Thánh Martin rất nhiệt thành với người nghèo khổ, đến nỗi ngài có
biệt danh là “bạn của người nghèo.” Thầy làm việc không ngơi nghỉ với
những người da đen nghèo khốn và bệnh tật, rồi phải chu toàn bổn phận
trong tu viện Santo Rosario hàng ngày, thậm chí chăm lo cho cả những súc
vật nữa, từ con chuột đến con chó, nhất là những con ghẻ lở hay những
con có “vấn đề”. Thầy còn có thêm biệt danh nữa là “ông bang trưởng loài
chuột” ... Những bệnh nhân nào nghèo quá không người thân, thì chính
thầy sẽ tự lo liệm xác và chôn cất. Cuộc đời thầy luôn luôn bên cạnh
người nghèo và với người nghèo, vì chính thầy vốn xuất thân từ cuộc sống
tủi nhục nghèo hèn vậy. Thầy không cảm thấy mình thieu thốn, nên cuộc
sống thầy rất giản dị và tin yêu. Dù thầy sống trong bậc trợ sĩ, nhưng
sự biết của thầy trổi vượt lên rất cao. Biết ở đây không phải biết thuộc
về trí não duy lý, nhưng là thuộc về tri giác. Biết này không nhất
thiết được thủ đắc qua việc học hành nghiên cứu, trường lớp, nhưng cái
biết này xuất phát từ tận đáy sâu tâm khảm thầy, tâm khảm của yêu thương
vô điều kiện vô phân biệt, vốn bắt nguồn từ sự Khôn Ngoan của Thiên
Chúa. Thật thế, thầy Martin sống một đời sống thật siêu thường trong cái
bình thường và thực tế nhất của kiếp hạn giới.
Trong con mắt Martin, bạn nghèo của thầy hiẹn diện khắp nơi. Có lần
thầy Martin mang về người hành khất rách rưới và hôi hám, mình đầy ghẻ
chốc vào trong phòng của mình tại tu viện để chăm sóc, một tu sĩ thấy
thế rất bất mãn vì không thể chấp nhận khi Martin cho người dơ bẩn ấy
nằm trên giường của thầy. Thấy vậy, Martin ôn tồn đáp: “Mền chiếu của
tôi có dơ bẩn thì chỉ dùng một chút xà phòng là có thể sạch ngay, thế
nhưng cả một suối nước mắt nhân loại cũng không tài nào rửa sạch được
vết thương do xã hội bất công và ích kỷ gây ra.” Chúng ta có thể có vô
số lý do rất hợp lý để chối từ không chạm đến người nghèo, cũng như các
môn đệ xưa kia nói với Chúa Giêsu rằng: “Có bao giờ chúng con thấy Ngài
đói rách, mình trần….. đâu!” Phải chăng người nghèo thường chỉ làm phiền
hà đến chúng ta? Phải chăng người nghèo không có gì để trả ơn? Phải
chăng người nghèo làm cho chúng ta thấy mình bị mất mát cái gì đó…? Hầu
hết những người nghèo đều có một cảm nhận như thế. Họ thấy mình như là
một gánh nặng đối với những người xung quanh. Càng mặc cảm, họ càng phản
kháng mãnh liệt đối với xã hội: ngạo mạn, nổi loạn, chè chén say xỉn,
trộm cắp, … Một cách tự nhiên, họ sẽ thu vào trong thế giới riêng của
chính mình, và thế là, chúng ta có thể tưởng chừng như họ đã… biến đâu
mất rồi!
Cuộc đời Martin đã bị chối từ ngay khi thầy lọt lòng mẹ. Sau đó, vì
mang màu da đen và mang vào đời mình tầng lớp nô lệ hèn hạ, thầy đã hiểu
và thấm đượm sự khinh miệt và tủi hổ. Hẳn như bao người khốn khổ khác,
người ta sẽ “trả thù đời,” bất mãn, và sống lê lết quậy phá cho vui hết
đoạn đường đời bất công và khốn khiếp này. Nhưng Martin không làm thế.
Tiêu biểu là khi được tám tuổi, cậu đã gặp lại cha đẻ của mình, nhưng
người cha vẫn hất hủi và không đón nhận cậu. Ông khinh miệt và làm ngơ
như ông chẳng biết gì. Tuy vậy, cậu vẫn không khóc, tuy buồn lắm, nhưng
cứ mỗi lần đau đớn như thế, Martin lại chạy đến với Chúa tình thương và
trao tat cả cuộc đời mình cho Ngài. Hơn nữa, Martin mỗi lúc càng để tâm
đến người khổ đau nhiều hơn, và chăm lo cho họ như người cha nhân hiền
vất vả vì đàn con nheo nhóc trong đói khát và bệnh tật. Martin luôn luôn
đi bước trước đến với họ và giang rộng vòng tay ôm ấp với hết sức mà
thầy có thể.
Phục vụ là hạnh phúc, như mẹ Têrêsa Calcutta đã từng nói. Martin làm
việc không ngơi nghỉ, nhưng nét mặt vẫn vui tươi và trong sáng. Nơi
những người khốn khổ bệnh tật, Martin đã thấy Chúa Giêsu khó nghèo ở đó.
Và, Martin đã sống giữa lòng người nghèo, với người nghèo và trong
người nghèo, qua mọi sinh hoạt hằng ngày, từ lúc đi nguyện kinh, khi đi
ngủ và khi đi chữa bệnh.
Ý nghĩa hiện sinh
Ý nghĩa cuộc đời là gì ? Trong guồng máy xã hội tân tiến ngày nay
không lúc nào dừng nghỉ, con người cứ mãi tần tảo ngược xuôi như đang
giăng một màng nhện thật lớn vô hình. Họ đang làm gì? Đi đâu và về đâu?
Tìm kiếm rồi đạt được, rồi lại kiếm tìm? Tìm cái gì và đạt được điều
chi? Ai điên và ai tỉnh giữa sự ồn ào của guồng máy đang rầm rầm hoạt
động? Tìm không được rồi lại bất mãn và buồn đau. Đạt được thì lại khao
khát muốn đạt nữa…? Đạt đến khi nào mới ngưng nghỉ? Hay là đến vô cùng…?
Ắt hẳn những câu hỏi trên xem ra ngớ ngẩn trong thời đại hôm nay. Một
câu hỏi không thực tế và trên trời !!! Với thế giới công nghệ thông
tin, không ai không công nhận sự phát triển liên tục của nó. Những vi
mạch trong mọi máy móc từ công nghiệp cho đến đồ gia dụng trong nhà mỗi
lúc một phong phú, đa dạng và vô cùng tiện lợi đến không ngờ. Hầu như
những nhu cầu vật chất của con người đều được đáp ứng và thế là… những
câu hỏi ở trên dĩ nhiên không còn hợp thời và thiết yếu nữa. Thiên Chúa
không còn chỗ đứng nào trong họ.
Ý nghĩa cuộc đời là chi… Tại sao và tại sao… được thay thế cho sự suy
tính và ra chiến lược cho công việc của mình ngày mai. Thế nhưng, không
may thay con người không thể sống như vậy mãi được. Cuối cùng, đến một
thời điểm nào đó, con người cũng sẽ chạm đến sự vô thường của cuộc đời
trong cái sự thật tam vô : vô duyên, vô vị và vô nghĩa. Chạy ngược chạy
xuôi sáng tối để rồi cuối cùng thấy tóc mình bỗng dưng chuyển màu muối
tiêu, da mặt không còn mịn màng và trơn láng như thời xuân trẻ nữa. Sáng
thức dạy bỗng dưng thấy xương cốt nạng nề nhức mỏi, thậm chí có nhiều
đêm trằn trọc mất ngủ mà không rõ nguyên nhân. Đôi mắt bỗng dưng phải
đưa xa xa tờ báo mới đọc được, đọc một chút rồi lại bỏ xuống vì nhức
mỏi... Tiến trình lão hoá tự nhiên của con người đang dần dần hiện rõ
nét. Để ngăn cản tiến trình này, con người chạy theo biết bao mỹ phẩm để
phủ một lớp trẻ trung như ngày nào. Đau đớn thay, tóc muối tiêu cứ thế
xuất hiện, muối nhiều hơn tiêu, hàng tháng vẫn nhuộm đen mà sao chân tóc
cứ bướng bỉnh nhú ra trắng toát đến thế! Thế rồi da mặt cũng hiện lên
những ngõ hẻm đan chéo nhau mỗi lúc một nhiều hơn… Đôi khi, tự ngẫm lại
mình, thấy sao mình mà vô duyên thế! Và lấy làm thương thay cho phận trớ
trêu của mình ! Rồi lặng lẽ thở dài ngao ngán… Chưa hết, đến ngày hôm
sau, bỗng dưng phải cẩn thận với những đồ ăn thức uống, vì bị tăng huyết
áp, gan nhiễm mỡ hay cholesterol… gì đó. Thời gian dần dần trôi qua,
lòng bỗng tự hỏi : “Cuộc đời là chi và ta sống để làm gì ?” Nhà cao cửa
rộng với garage cứ lặng im một cách vô hồn đến thế sao ? Bắt đầu lòng
dần dần trở nên trầm lặng… đăm chiêu và dõi mắt nhìn vào cõi không… Cuộc
đời sao mà vô duyên, vô vị, và giờ đây… trở nên vô nghĩa quá ! Hơn lúc
nào hết, ngày nay càng nhiều người làm bạn với Internet nhiều hơn. Đồng
loại không còn tin vào nhau nữa. Đụng đến tương quan là chạm đến tiền
bạc, địa vị… Mệt mỏi quá ! Thế giới ảo của chát chít đang bùng nổ khủng
khiếp cho thấy con người ngày nay đang đi vào cô độc và trống vắng nhiều
hơn.
Đó là những người nghèo trong xã hội hiện đại hôm nay: Nghèo về tình
bạn, về tình người, và tình nhân loại. Cuộc sống vật chất càng đầy dư
thì con người càng khó cảm thông và xích lại gần nhau hơn. Chương trình
truyền hình trên kênh Discovery, người ta cho biết rằng diễn viên nổi
tiếng Hoa Kỳ thập niên Marylyn Monroe chết không phải vì bị ám sát,
nhưng mà cô đã tự tử vì cảm thấy cuộc đời thật vô nghĩa, cho dù cô có cả
sắc đẹp lẫn tiền của. Cô cần tình người đích thực, nhưng người đời đến
với cô không vì nhan sắc thì cũng vì tiền của. Lạc lõng. Chán chường. Tự
tử.
Cuộc đời tưởng chừng như đơn giản làm sao, nhưng cũng vô cùng sâu
thẳm lắm thay. Sâu thẳm đến nỗi con người không thể hiểu thấu được. Một
em bé vô tội vừa sinh ra đã phải tắt thở, một bà mẹ goá phụ nghèo khổ
tần tảo sáng tối với ruộng rẫy bỗng dưng lăn đùng ra chết để lại đàn con
nhỏ ngây ngô cho cuộc đời đầy cạm bẫy… Có một anh trí thức nọ hỏi một
vị đạo sĩ Ấn Độ: “Xin chỉ cho tôi biết đâu là bí mật của cuộc đời ?” Vị
đạo sĩ ôn tồn đáp : “Có bí mật gì đâu mà ông phải khốn khổ đi tìm đến
thế !” Vâng ! Có gì bí mật đâu, có gì khó hiểu đâu trên cõi đời này. Bí
mật hả ? Đó, đàn chim đang bay tìm mồi nuôi con kìa, hoa huệ đang toả
ngát hương thơm đó, đàn cá đang vui đùa dưới dòng suối trong kìa, bà mẹ
đang cho con bú mớm… Anh có thấy không ? Và, có một anh chàng da đen tên
là Martin đang chăm sóc những người cùi hủi và bệnh hoạn đó !
Bí mật cuộc đời chính là những gì tầm thường nhất trong cuộc sống
hàng ngày, là những cử chỉ hành động của một anh chàng Martin hèn hạ
đang dâng hiến cả cuộc đời mình cho người xấu số bất hạnh. Bí mật trong
những tiếng chổi xào xạc lặng lẽ trong sân tu viện Santo Rosario mỗi
ngày. Bí mật trong những bước chân lang thang thăm hỏi những người da
đen nghèo khổ, và trong những lần thay băng và lau chùi vết thương lở
loét hôi hám của vùng đất Lima…
Rao Giảng sự trần trụi của Đức Kitô
Càng nghịch lý hơn nữa, càng bí nhiệm hơn nữa, đó là Vua vũ trụ, là
vị cứu tinh nhân loại đã và đang đớn đau và trần trụi trên cây thập giá:
“Nếu ông là con Thiên Chúa, thì hãy...”, “hắn đã cứu người khác, thì
cứu lấy mình đi…” Con đường của Chúa Giêsu là vậy. Thực thế, trong thời
đại ngày nay, thế giới vẫn không thể thoát khỏi hấp lực về chủ nghĩa vật
chất và hiệu quả. Nền kinh tế cạnh tranh dần dần mỗi lúc một lớn mạnh
thì đồng thời làm cho người nghèo cảm thấy mình không còn chỗ đứng nữa.
Thầy Martin vẫn phải gặp nhiều thử thách và chiến đấu với lòng mình rất
nhiều khi đến với người nghèo và đưa họ vào ngay trong tu vien để chăm
sóc. Có một đêm tối nọ, đang trên đường trở về tu viện, thầy gặp một
người da đen đang nằm quằn quại trên vũng máu vì bị cướp đánh đập tàn
nhẫn. Vội vàng, thầy băng bó vết thương và cõng anh ta về tu viện của
mình. Thầy nghĩ rằng, anh ta cần được chăm sóc cho thoát khỏi cơn nguy
kịch rồi mới chuyển đến nhà chị để nghỉ ngơi. Không may cha bề trên biết
được và trách mắng vì tội không vâng phục. Sống đời sống tu trì, Martin
và các tu sĩ dòng Đa Minh đã chọn con đường khiêm nhu và khó nghèo là
một lẽ, nhưng Martin còn thực hiện trọn vẹn hơn nữa. Martin luôn luôn
dùng đôi chân của mình làm phương tiện để đi đến với người nghèo, áo mặc
chỉ có hai bộ rách rưới chắp vá. Mỗi lần tu viện phát đôi giày cho
Martin, Martin đều cho người khác mượn cho đến khi cũ mòn thì Martin mới
lấy về mà đi. Trong phòng chỉ có một cái chõng để nằm nghỉ và mấy ảnh
tượng cho những khi Martin cầu nguyện. Đi đâu, Martin cũng mang theo một
số đồ đạc, không phải cho bản thân mình, nhưng là những thứ đưa đến cho
người nghèo, như cơm áo, thuốc men, và vài đồ cần thiết mà Martin có
được, Martin đều chia sẻ hết cho họ.
Trong khoa truyền nhiễm HIV/AIDS tại một bệnh viện nọ ở Việt Nam, có
cây thập giá được treo trong phòng bệnh nhân. Thập giá trông rất giản dị
và không có gì đặc biệt cả, nhưng là một lời mời gọi trở về. Trở về sự
trần trụi và tình yêu trong Đức Kitô, Người đã từng làm người, chịu khổ
đau, xỉ nhục và chết. Người bệnh chính là người nghèo, nhất là bệnh thế
kỷ nữa. Có một anh thanh niên nọ 34 tuổi ở khu vực chợ Bến Thành, quận
1, bị Aids. Ngày ngày hai chị thuộc tu hội nọ đạp xe đạp đến viếng thăm.
Anh là con một, trong gia đình khá giả. Cha mẹ đều là giám đốc công ty
lớn của thành phố. Lúc trước, một mình ôm chiếc tivi ngày đêm, anh lặng
lẽ thấm thía nỗi đau bản thân, và từ khi có sự hiện diện của hai chị nữ
tu, bầu khí gia đình nhẹ nhàng hơn và mỗi lúc một gần nhau hơn. Giữa một
thành phố xem ra sang trọng nhất, và một gia đình tương đối khá giả, có
hai chị trong bộ áo giản dị của nữ tu đạp xe lọc cà lọc cạch…!
Một dấu chỉ cho Thiên Chúa nghèo khó và yêu thương vô điều kiện ngay
trong thực tại trần gian này. Chính qua sự nghèo hèn mà mọi người có thể
liên kết lại cùng nhau trong duy nhất tính của Đức Kitô, Người đã chọn
sống nghèo và chết nghèo. Chỉ khi Hội Thánh đồng hành trong niềm tin
Kitô giáo với kẻ nghèo khổ thì mới có sự hiệp nhất ấy. Sự hiện diện của
hai chị nữ tu là sự hiện diện cho sự hiệp nhất, giữa một xã hội tiêu thụ
và công nghệ vốn dần dần đưa đồng loại xa cách nhau. Chị nữ tu ấy sống
nghèo qua thái độ và cách sống giản dị của mình. Cha Albert Nolan, O.P,
trong cuốn Jesus Before Christianity, cho biết : “Thiên Chúa không muốn
được chúng ta phục dịch, mà chính Thiên Chúa lại muốn phục dịch chúng
ta; Thiên Chúa chẳng muốn chỗ đứng hay địa vị cao nhất trong xã hội, mà
trái lại, Ngài muốn ở chỗ thấp nhất và hèn hạ nhất. Ngài không muốn có
vị thế nào, chỗ đứng nào cả. Thiên Chúa không muốn được sợ hãi và tùng
phục, nhưng Thiên Chúa muốn chính mình được nhận diện trong chính những
nỗi đớn đau kẻ nghèo hèn. Thiên Chúa không phải là kẻ sống thờ ơ lãnh
đạm và hoàn toàn xa cách chúng ta, nhưng Ngài đã tham dự một cách bất
khả thay thế trong công cuộc giải phóng nhân loại, vì Thiên Chúa đã chọn
bị đồng hoá với mọi người trong tinh thần liên đới và lòng thương xót. ”
Giữa một xã hội phân biệt màu da và giai cấp, Martin đã hiện diện
trọn vẹn tính nghèo khó, đây là dấu chỉ sự hiệp nhất trong Đức Kitô. Sự
hiện diện của Martin cho thấy ngài đang đồng hành với người khốn cùng
trong hy vọng và trong tình thương. Martin đã hiểu được rằng, Chúa Giêsu
không chỉ chết một lần trên cây thập tự, nhưng Người đang chết dần chết
mòn nơi những con người đang bị khinh khi và chối từ. Chúa Giêsu vẫn
còn bị đóng đinh và điệu ra pháp trường cho đến ngày Chung Cuộc. Martin
cảm nhận được rằng để trở thành môn đệ Đức Kitô, không gì khác hơn là
đón nhận chính cuộc sống như Đức Kitô đã từng sống. Có nghĩa là, Martin
vui vẻ đón nhận khổ đau, sự khinh miệt và nghèo hèn để Martin có thể
chiến thắng đau khổ trên cuộc đời này, tiêu diệt khổ đau bằng chính sự
đau khổ cùng với người nghèo và nhân danh người nghèo. Thực thế, chúng
ta sẽ không thể nào hiểu được Đức Giêsu Kitô nếu chúng ta không biết đến
đau khổ, của chính chúng ta và nhất là của đồng loại. Đây là con đường
đầy thách đố, nhưng chỉ qua con đường đau khổ này, con người mới có thể
hiểu được đỉnh cao của ơn huệ mà Thiên Chúa ban cho phận hữu sinh – đó
là, con người Đức Giêsu Kitô chịu chết và Phục Sinh. Đây như là món quà
diệu vợi, món quà này cần phải kiên nhẫn nguyện xin, và là cánh cửa cần
phải gõ hoài gõ mãi. Món quà này thật đắt giá vì sự vô giá của nó. Đắt
giá, vì nó phải trả bàng cả cuộc đời chúng ta!
Vì Đức Giêsu đã trọn vẹn làm người, nên cuộc đời của Người không được
“miễn nhiễm” khỏi khổ đau của thân phận, Người đã nếm mùi vinh thắng
của con người, sống với những thất bại, thua cuộc và sự chết của giới
hữu sinh. Cuối cùng trong vũ trụ vạn thể này, Người đã tỏ hiện mầu nhiệm
sâu thẳm nhat của tình yêu Thiên Chúa. Người được sinh ra chẳng phải
nơi nhà thương hay nhà cửa nào đó đàng hoàng, nhưng mà là trong nơi súc
vật thường lui đến trú ngụ. Thế là, suốt quãng đời làm lụng vất vả của
nghề mộc thủ công và rồi lang thang rày đây mai đó... Môn đệ có theo đó,
nhưng cũng chẳng hiểu gì Thầy của mình. Thậm chí còn chối từ và bán
đứng Thầy mình cho kẻ khác. Chúa Giêsu đã chạm đến và sống trong hố sâu
hút thẳm của thân phận hữu sinh. Vì thế, rao giảng Tin Mừng ngày hôm
nay, hơn lúc nào hết, chính là rao giảng sự thua cuộc, thất bại, mong
manh, dễ vỡ của tất cả phận người chúng ta; để qua đó, anh chị em nghiệm
thấy được Tình Yêu Thiên Chúa và khao khát Phúc Lạc Nước Trời.
Từ thiên giới, Ngôi Lời đi đã xuống và trở thành kiếp nhân sinh của
giới hạn thể. Vô Tận đã trở nên hữu hạn. Thiên Chúa đã trở thành con
người trong thế giới vô tâm và hận thù, tranh dành và ngấu nghiến cắn
xé. Vô Tận đi vào hữu hạn để mời gọi phận hữu sinh về cõi Vô Tận, là
Nguồn Cội từ đó vạn vật vũ trụ được sinh ra. Còn Martin được sinh ra như
là dấu chỉ tỏ bày cho con người khổ đau biết là họ rất đáng được trân
trọng và yêu thương.
Tất cả những khổ đau nhân thế Đức Kitô đã và đang ôm trọn hầu dẫn đưa
chúng ta vào trong cung lòng của Người. Người chính là sợi dây liên kết
giữa đất và trời, giữa vạn thể hạn hữu với Cõi Phúc Lạc Tuyệt Đối. Vì
thế, trong mỗi bước đi dù có khập khễnh trên cuộc đời này, cho dù “đời
ta một vở kịch dài, một mình ta đóng cả hài lẫn bi” thì Đức Kitô vẫn
muốn chúng ta đừng quên điều cốt lõi này: “hãy ở lại trong Thầy, như
Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15,4), để tất cả nên một trong Cha (Ga
17,21). Tất cả nên một, mà trong cái tất cả đó, có người anh chị em của
tôi, trong căn nhà của tôi, trong làng của tôi, trong đất nước của tôi…
và trên trái đất của tôi. Tôi đã đau với nỗi đau của người anh em người
chị em tôi trong cơn bão tố vừa qua, nạn lụt lội ở miền Trung miền Bắc,
trong cơn sóng thần tại Indonesia, trong cuộc chiến tại Palestine, trong
cơn đói khát tại Phi Châu, trong nỗi cô đơn và cuồng loạn tại Mỹ, trong
tiếng Scandal của anh chị em tôi, trong căn bệnh thế kỷ của đồng loại,…
Vì, “…như Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng
ta” (Lời Nguyện của Đức Giêsu với Cha : Ga17,2). Đó là lời gọi mời và
tha thiết cho hết thảy chúng ta đi vào cung lòng yêu thương của Cha.
Martin từ lúc chào đời đến khi lìa thế, thầy đã vui vẻ đón nhận phận
hữu sinh trong hy vọng và tín thác; Có nghĩa là, Martin khao khát muốn
tất cả người khốn cùng đón nhận lời gọi mời của Đức Kitô, và chìm sâu
vào trong mầu nhiệm tình yêu Thiên Chúa. Khi chúng ta sống kiên trung
trọn vẹn cùng và với mầu nhiệm khổ đau và cũng là mầu nhiệm Tình Yêu
trong suốt cuộc đời này, thì chúng ta cũng đang làm cho tất cả những hạn
giới trở thành vô tận, và đang được kết hiệp vào trong sợi dây nối kết
giữa đất và trời là Đức Giêsu Kitô, Đấng trung gian đã và đang làm cho
vạn thể nên một.
Nguyện xin thánh Martin cầu thay nguyện giúp cho tất cả chúng ta can
đảm và vui tươi hầu đón nhận anh chị em không phân biệt sang hèn mạnh
yếu, đón nhận tất cả những gì đã, đang và sẽ xảy đến cho mỗi chúng ta
trong niềm hy vọng và tin tưởng vào Tình Yêu Thiên Chúa. Đồng thời, bạn
và tôi, không sợ hãi để lặn sâu vào mầu nhiệm đớn đau của Đức Kitô, nơi
anh chị em bên cạnh chúng ta, vốn đang nghèo về vật chất, trí tuệ, tình
bạn, tình yêu thương,... Lặn sâu vào trong Đức Kitô đang bị đóng đinh là
ngụp lặn vào Đức Kitô phục sinh, Đấng vẫn không ngừng gọi mời chúng ta
cách thầm lặng đi về Cõi Phúc trong tình thương vô tận.
Martin, vẫn còn đó, thầy đang cứu giúp những con người bệnh tật và bỏ rơi;
Martin, vẫn hiện diện đó, thầy đang lắng nghe những tiếng rên la và gào thét của những người cô độc và trống vắng;
Và, Martin, đang âm thầm nhắc nhở con cái thầy hãy tiếp nối công việc yêu thương của thầy… trong Đức Giêsu Kitô.
Vì thế, trên hành trình đức tin, cho dù biết bao cơn sóng ngầm và trớ
trêu của cuộc đời hôm nay, bạn và tôi hãy cùng nắm tay nhau và khích lệ
nhau đi về Nước Trời, trong niềm hy vọng và tình thương yêu đại đồng.
Mong thay!
Tu Viện Martin, Hố Nai
ƠN GỌI NÊN THÁNH
22:53 |
ƠN GỌI NÊN THÁNH
Lễ Các Thánh Nam Nữ
Tgm Giuse Ngô Quang Kiệt
Nên thánh là siêu thoát trần gian. Nước Trời khác với nước trần gian. Trả lời Philatô, Chúa Giêsu đã khẳng định: “Nước Tôi không thuộc về thế gian này”(Ga 18, 36). Trong Bài giảng trên núi, thường được gọi là Hiến chương Nước Trời, Chúa Giêsu đưa ra hai lôgích đối nghịch. Lôgích trần gian đối nghịch với lôgích Nước Trời. Người thuộc trần gian tìm hạnh phúc nơi của cải, danh vọng, quyền lực, hưởng thụ, lạc thú, tôn vinh. Nhưng người thuộc Nước Trời được phúc khi chối từ tất cả những điều ấy. Mối phúc đầu tiên đã tóm tắt tất cả: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”. Muốn được Nước Trời làm gia sản, phải chối từ gia sản trần gian. Nên thánh là đi ngược thói đời. Cuộc lội ngược dòng này là một cuộc chiến đấu khốc liệt được sách Khải huyền diễn tả bằng hình ảnh “giặt áo trong máu Con Chiên”. Đây là điều khó khăn. Nhưng đây là điều ta phải làm.
Nên thánh phải kết hợp với Chúa Giêsu. Giặt áo trong máu Con Chiên nghĩa là phải kết hợp với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu xuống trần gian, sống như người trần gian. Nhưng Người chối từ vinh quang trần gian để dẫn ta vào Nước Trời. Tám Mối Phúc không phải là lời nói suông. Chính Chúa Giêsu đã sống Tám Mối Phúc khi sống nghèo khó, hiền lành, trong sạch, đau khổ, thương xót, hòa giải, bị bắt bớ và bị giết hại. Đó không phải là một cuộc sống dễ dàng. Phải chiến đấu đến đổ máu mình ra, đến mất mạng sống, mất tất cả danh dự. Tóm lại là mất hết những gì mà trần gian coi là giá trị. Ta cũng thế, muốn nên thánh phải sống như Chúa Giêsu. Phải chiến đấu từ bỏ những bả vinh hoa trần gian. Cuộc chiến đó thật khốc liệt. Cuộc chiến đó có cả mồ hôi, máu đào và nước mắt. Máu đó hòa vào máu Con Chiên sẽ rửa sạch linh hồn ta khỏi mọi vương vấn nhơ uế trần tục. Áo linh hồn ta sẽ trở nên trắng như tuyết. Khi thanh tẩy mình khỏi mọi dính bén trần gian ta mới xứng đáng được là công dân của Nước Trời. Nhưng nên thánh như thế thì được gì?
Nên thánh ta chiếm được chính Chúa. Thư 1 thánh Gioan cho ta biết một kho tàng bí mật. Ta là con Thiên Chúa. Và ta sẽ nên giống Chúa Giêsu là Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa. Ta được Thiên Chúa yêu thương. Ta được thừa kế gia nghiệp Nước Trời. Gia nghiệp Nước Trời là vinh quang không gì so sánh được như thánh Phaolô dạy trong thư Rôma 8, 17-18: “Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Ki-tô ; vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người. Thật vậy, tôi nghĩ rằng : những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta”.
Được chính Thiên Chúa là được tất cả. Giầu sang, phú quí, an vui, hạnh phúc và vinh quang. Hạnh phúc đó vô cùng vô tận. Hạnh phúc đó viên mãn khiến ta chẳng còn mơ ước gì khác nữa. Đúng như lời Chúa hứa trong câu cuối của bài Tám Mối Phúc Thật: “Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao”.
Như thế ơn gọi nên thánh là một lời mời gọi vừa cao cả vừa tha thiết. Ơn gọi nên thánh cho ta thấy ta được Thiên Chúa yêu thương biết bao. Ơn gọi nên thánh cho ta thấy phẩm giá ta cao trọng biết bao. Và ơn gọi nên thánh cho ta hiểu định mệnh ta cao quí biết bao. Ta được dựng nên cho tình yêu. Ta được dựng nên để phát triển, đạt tới tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô, “thánh thiện như Thiên Chúa”. Ta được dựng nên để hưởng hạnh phúc. Không phải thứ hạnh phúc bọt bèo và chóng qua. Nhưng là hạnh phúc tràn đầy viên mãn và vĩnh cửu. Hạnh phúc của Chúa. Hạnh phúc trong Chúa. Và hạnh phúc với Chúa.
Ôi, lạy Chúa, ơn gọi nên thánh cao cả biết bao. Sao con lại được Chúa yêu thương đến dường ấy. Sao con phàm hèn mà Chúa nâng con lên cao cả dường ấy.
Ôi con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến,
phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm ?
Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy,
ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên,
(Tv 8, 5-6).
Lạy Chúa con xin tạ ơn Chúa muôn đời. Xin ban ơn giúp sức để con đủ sức dứt bỏ mọi quyến luyến trần gian. Để con hoàn thành ơn gọi nên thánh Chúa đặt nơi con. Để con được hạnh phúc muôn đời với Chúa. Họp đoàn với muôn ngàn thần thánh ca tụng Chúa muôn đời. Amen.
NAY NGƯỜI, MAI TA
22:39 |
NAY NGƯỜI, MAI TA
Lm Giuse Đinh lập Liễm
I. NGƯỜI CHẾT NỐI LINH THIÊNG VÀO ĐỜI.
Đứng trước thi hài người quá cố hôm nay, tôi liên tưởng đến bài hát mà thiếu nhi giáo xứ vẫn hát trong buổi sinh hoạt chiều Chúa nhật, đó là bài : “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh công Sơn. Mục đích của bài hát này nhằm thúc giục mọi người Trung Nam Bắc đoàn kết xây dựng quê hương đất nước chúng ta.
Nhưng trong bài hát này có một câu làm tôi phải suy nghĩ, đó là “Người chết nối linh thiêng vào đời”. Không biết rõ tác giả định nói gì ? Chắc chắn phải có một ý nghĩa thâm sâu . Tuy không hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nó giúp tôi nảy ra một ý nghĩ : người chết nối linh thiêng vào đời vì thực tại cái chết là một thực tế đặt con người đứng trước một cái gì huyền bí, đáng sợ, và khi đứng trước thi hài người chết, ai ai cũng phải đối diện với cái ý nghĩ này : nay người, mai ta. Và tôi muốn nói với bạn :”Hodie mihi, cras tibi” : nay tôi, mai anh. Tôi chết, anh còn sống, nhưng còn sống đối với anh chỉ là “chưa chết”. Anh chỉ được “triển hạn”, chứ không bao giờ được “miễn trừ”.
Với những ý nghĩ như vậy mà chúng ta thường im lặng , trầm mặc đứng trước người chết, nhất là đứng trước thi hài một người thân yêu của mình. Chúng ta im lặng, trầm mặc và buồn sầu, không chỉ vì người thân yêu không còn nữa, mà còn vì nghĩ đến cái chết sẽ xẩy ra cho mình. Người chết như mang theo phần nào chính chúng ta. Trong người chết, nhất là những người ruột thịt máu mủ của chúng ta, một phần ruột thịt máu mủ của chúng ta đã ra đi.
“Người chết nối linh thiêng vào đời” là như thế, nghĩa là người chết đặt chúng ta đối diện với một thực tại khác, một thế giới của sự im lặng, huyền bí, một thế giới của sự tôn nghiêm, đáng kính, đáng sợ… Vì sợ người chết, sợ sự chết, nên người ta dù muốn hay không cũng phải nghĩ đến cái chết của mình, phải chuẩn bị cho cái chết không thể tránh được.
Người Estonia có câu ngạn ngữ :”Cái chết ở trước mặt người già và sau lưng người trẻ”. Đây là tâm lý chung cho mọi người vì người già dễ cảm thấy mình gần đất xa trời hơn người trẻ.
Tuy thế, nhiều khi người già cũng như người trẻ đều “tham sinh úy tử” nên ít khi nghĩ đến cái chết, nhưng khi thần chết đến thì người ta cảm thấy đã quá muộn. Vì thế, ông Henri Bordeaux nói :”Phần đông người ta chỉ mở mắt một lần, mà lần ấy lại là chính lúc tắt thở, nhưng người ta vội bóp mắt lại ngay”.
Đồng quan điểm với ông Henri Bordeaux, ông John C. Collins nói :”Người chết mở mắt cho người sống”, cũng có nghĩa là người sống bóp mắt người chết.
Ông Stephen Leacock nói :”Lạ lùng thay cái chuỗi đời người : còn nhỏ thì ước được lớn lên. Lớn lên rồi, ước đến tuổi trưởng thành. Đến tuổi trưởng thành rồi, ước được một tổ ấm. Được tổ ấm rồi, ước làm ông nội nghỉ ngơi. Được nghỉ ngơi rồi lại nuối tiếc quãng đời quá khứ và cảm thấy một luồng gió lạnh đang rì rầm thổi tới. Nhưng khi ý thức được rằng đời sống chính là ở hiện tại, ở trong ngày hôm nay, thì đã quá muộn rồi”.
II. HODIE MIHI, CRAS TIBI.
Hôm nay, người chết nằm đây muốn nhắc nhở chúng ta : “Hodie mihi, cras tibi” : hôm nay phiên tôi, ngày mai đến phiên anh. “Hôm nay” (hodie) là một ngày nhất định, rõ ràng, tại đây và lúc này, ai cũng phải công nhận rằng người thân yêu của chúng ta đã ra đi về đời sau, và lát nữa sẽ được chôn vùi trong lòng đất.
Nhưng còn chữ “Ngày mai” (cras) là một ngày bất định, mông lung, mờ mịt không biết bao giờ mới đến như người ta nói :”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ” (Tục ngữ). Đây là điều bắt buộc chúng ta phải động não vì nó liên quan đến số phận đời đời của chúng ta.
Theo tâm lý chung, người đời ai cũng “tham sinh úy tử” (ham sống sợ chết). Người ta cũng nhận xét rằng : các cụ già thường sợ chết hơn các thanh thiếu niên. Nhưng có một điều thực tế : không bao giờ người ta thấy mình sống lâu cả. Dẫu đã tóc bạc da đồi mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy :
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,
Thoát chốc mà già đã tới ngay
(Nguyễn Khuyến)
Thỉnh thoảng chúng ta phải “stop” lại để bình tĩnh đứng ra ngoài cuộc đời bề bộn, ra ngoài cái Tôi chủ quan, mà quan sát và ý thức nhận định một cách khách quan :
Tại sao tôi sống ?
Sống để làm gì ?
Chết rồi, ra sao ?
Phải tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Có người không biết tại sao mình sống, rồi sẽ ra sao ! Cho nên họ có cái nhìn bi quan về cuộc sống bởi vì họ không tìm ra được lẽ sống.
Ngày xưa có một ông vua, tuổi đã quá thất tuần mà vẫn chưa xem được một quyển sách nào. Bộ sách mà ông thèm khát được đọc là bộ “Lịch sử loài người”. Nhưng vì bận rộn không có thì giờ đọc nên đã nhờ các nhà thông thái nghiên cứu và rút gọn lại trong một câu cho vua dễ nhớ và để làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Sau một thời gian, ban tu thư đã trình lên vua một câu vắn tắt :”Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ : loài người sinh ra để khổ rồi chết”. Nhà vua gật đầu. Đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười mãn nguyện… rồi tắt thở.
Cuộc sống trên trần gian này chỉ là một cuộc hành trình có khi dài có khi ngắn đối với mỗi người, nhưng luôn phải có điểm đến, nghĩa là cuộc hành trình phải kết thúc, chứ không phải đi đến vô tận. Đây là một thực tế hiển nhiên, ai cũng phải công nhận. Đã có sinh thì phải có tử, nhưng khi chết rồi người ta còn muốn để lại danh thơm tiếng tốt cho hậu thế :
Người đời hữu tử hữu sinh
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.
Napoléon Bonaparte, hoàng đế nước Pháp (1769-1821), kẻ đã làm thay đổi bản đồ Âu châu, nhà chiến lược quân sự đại tài, đã phải tâm sự : “Tôi chết trước thời hạn, và thân thể tôi lại trở về với lòng đất. Đó là số phận của con người đã từng được gọi là Napoléon đại đế. Có một vực sâu ngăn cách giữa sự khốn cực của tôi và vương quốc bất diệt của Chúa Kitô”.
Để chuẩn bị cho cuộc ra đi vĩnh viễn, chúng ta phải mở rộng tâm hồn ra, đừng bao giờ khép kín lại với người khác. Con người sinh ra với những ngón tay nắm chặt lại. Bản tính con người vốn khép kín, ích kỷ. Một đứa trẻ được nuông chiều sẽ nghĩ rằng mọi người đều có bổn phận phải phục vụ nó, nó là trung tâm của vũ trụ, cả thế giới này là của nó. Nhưng mọi người cũng biết rằng khi chết đi, các ngón tay sẽ buông xuôi, tiền tài và danh vọng đều để lại…
Cuộc hành trình tâm linh là đi từ bản thân tới người khác, phải mở trái tim để yêu thương người khác, phải mở bàn tay để chia sẻ với người khác.
Truyện : Hãy bắt chước dòng suối.
Có một phiến đá ở bên cạnh một dòng suối được khắc những chữ “Hãy bắt chước dong suối” . Ba người du khách tình cờ đi đến đây, và tự hỏi không biết dòng chữ có ý nghĩa gì.
Một người là nhà buôn nói :
- Nó có nghĩa là dòng suối đưa nước tới một dòng suối khác. Suối này lại tiếp tục đưa nước tới một dòng khác lớn hơn, cho tới khi nó gặp sông, và nước sông đổ ra biển. Như thế, nó có nghĩa là : người ta nên quan tâm đến vấn đề vật chất và cố gắng làm giầu, như thế họ mới có thể thành công và giầu có.
Người trẻ nhất trong ba người nói :
Đứng trước thi hài người quá cố hôm nay, tôi liên tưởng đến bài hát mà thiếu nhi giáo xứ vẫn hát trong buổi sinh hoạt chiều Chúa nhật, đó là bài : “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh công Sơn. Mục đích của bài hát này nhằm thúc giục mọi người Trung Nam Bắc đoàn kết xây dựng quê hương đất nước chúng ta.
Nhưng trong bài hát này có một câu làm tôi phải suy nghĩ, đó là “Người chết nối linh thiêng vào đời”. Không biết rõ tác giả định nói gì ? Chắc chắn phải có một ý nghĩa thâm sâu . Tuy không hiểu hết ý nghĩa của nó, nhưng nó giúp tôi nảy ra một ý nghĩ : người chết nối linh thiêng vào đời vì thực tại cái chết là một thực tế đặt con người đứng trước một cái gì huyền bí, đáng sợ, và khi đứng trước thi hài người chết, ai ai cũng phải đối diện với cái ý nghĩ này : nay người, mai ta. Và tôi muốn nói với bạn :”Hodie mihi, cras tibi” : nay tôi, mai anh. Tôi chết, anh còn sống, nhưng còn sống đối với anh chỉ là “chưa chết”. Anh chỉ được “triển hạn”, chứ không bao giờ được “miễn trừ”.
Với những ý nghĩ như vậy mà chúng ta thường im lặng , trầm mặc đứng trước người chết, nhất là đứng trước thi hài một người thân yêu của mình. Chúng ta im lặng, trầm mặc và buồn sầu, không chỉ vì người thân yêu không còn nữa, mà còn vì nghĩ đến cái chết sẽ xẩy ra cho mình. Người chết như mang theo phần nào chính chúng ta. Trong người chết, nhất là những người ruột thịt máu mủ của chúng ta, một phần ruột thịt máu mủ của chúng ta đã ra đi.
“Người chết nối linh thiêng vào đời” là như thế, nghĩa là người chết đặt chúng ta đối diện với một thực tại khác, một thế giới của sự im lặng, huyền bí, một thế giới của sự tôn nghiêm, đáng kính, đáng sợ… Vì sợ người chết, sợ sự chết, nên người ta dù muốn hay không cũng phải nghĩ đến cái chết của mình, phải chuẩn bị cho cái chết không thể tránh được.
Người Estonia có câu ngạn ngữ :”Cái chết ở trước mặt người già và sau lưng người trẻ”. Đây là tâm lý chung cho mọi người vì người già dễ cảm thấy mình gần đất xa trời hơn người trẻ.
Tuy thế, nhiều khi người già cũng như người trẻ đều “tham sinh úy tử” nên ít khi nghĩ đến cái chết, nhưng khi thần chết đến thì người ta cảm thấy đã quá muộn. Vì thế, ông Henri Bordeaux nói :”Phần đông người ta chỉ mở mắt một lần, mà lần ấy lại là chính lúc tắt thở, nhưng người ta vội bóp mắt lại ngay”.
Đồng quan điểm với ông Henri Bordeaux, ông John C. Collins nói :”Người chết mở mắt cho người sống”, cũng có nghĩa là người sống bóp mắt người chết.
Ông Stephen Leacock nói :”Lạ lùng thay cái chuỗi đời người : còn nhỏ thì ước được lớn lên. Lớn lên rồi, ước đến tuổi trưởng thành. Đến tuổi trưởng thành rồi, ước được một tổ ấm. Được tổ ấm rồi, ước làm ông nội nghỉ ngơi. Được nghỉ ngơi rồi lại nuối tiếc quãng đời quá khứ và cảm thấy một luồng gió lạnh đang rì rầm thổi tới. Nhưng khi ý thức được rằng đời sống chính là ở hiện tại, ở trong ngày hôm nay, thì đã quá muộn rồi”.
II. HODIE MIHI, CRAS TIBI.
Hôm nay, người chết nằm đây muốn nhắc nhở chúng ta : “Hodie mihi, cras tibi” : hôm nay phiên tôi, ngày mai đến phiên anh. “Hôm nay” (hodie) là một ngày nhất định, rõ ràng, tại đây và lúc này, ai cũng phải công nhận rằng người thân yêu của chúng ta đã ra đi về đời sau, và lát nữa sẽ được chôn vùi trong lòng đất.
Nhưng còn chữ “Ngày mai” (cras) là một ngày bất định, mông lung, mờ mịt không biết bao giờ mới đến như người ta nói :”Sinh hữu hạn, tử bất kỳ” (Tục ngữ). Đây là điều bắt buộc chúng ta phải động não vì nó liên quan đến số phận đời đời của chúng ta.
Theo tâm lý chung, người đời ai cũng “tham sinh úy tử” (ham sống sợ chết). Người ta cũng nhận xét rằng : các cụ già thường sợ chết hơn các thanh thiếu niên. Nhưng có một điều thực tế : không bao giờ người ta thấy mình sống lâu cả. Dẫu đã tóc bạc da đồi mồi, đi không vững, đứng không ngay, cũng còn thấy như mới bước chân vào đời ngày hôm qua vậy :
Nhớ từ năm trước vẫn thơ ngây,
Thoát chốc mà già đã tới ngay
(Nguyễn Khuyến)
Thỉnh thoảng chúng ta phải “stop” lại để bình tĩnh đứng ra ngoài cuộc đời bề bộn, ra ngoài cái Tôi chủ quan, mà quan sát và ý thức nhận định một cách khách quan :
Tại sao tôi sống ?
Sống để làm gì ?
Chết rồi, ra sao ?
Phải tìm ra ý nghĩa của cuộc sống. Có người không biết tại sao mình sống, rồi sẽ ra sao ! Cho nên họ có cái nhìn bi quan về cuộc sống bởi vì họ không tìm ra được lẽ sống.
Ngày xưa có một ông vua, tuổi đã quá thất tuần mà vẫn chưa xem được một quyển sách nào. Bộ sách mà ông thèm khát được đọc là bộ “Lịch sử loài người”. Nhưng vì bận rộn không có thì giờ đọc nên đã nhờ các nhà thông thái nghiên cứu và rút gọn lại trong một câu cho vua dễ nhớ và để làm kim chỉ nam cho cuộc sống. Sau một thời gian, ban tu thư đã trình lên vua một câu vắn tắt :”Lịch sử loài người từ khai thiên lập địa đến giờ : loài người sinh ra để khổ rồi chết”. Nhà vua gật đầu. Đôi môi khô héo của nhà vua bỗng nở một nụ cười mãn nguyện… rồi tắt thở.
Cuộc sống trên trần gian này chỉ là một cuộc hành trình có khi dài có khi ngắn đối với mỗi người, nhưng luôn phải có điểm đến, nghĩa là cuộc hành trình phải kết thúc, chứ không phải đi đến vô tận. Đây là một thực tế hiển nhiên, ai cũng phải công nhận. Đã có sinh thì phải có tử, nhưng khi chết rồi người ta còn muốn để lại danh thơm tiếng tốt cho hậu thế :
Người đời hữu tử hữu sinh
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.
Napoléon Bonaparte, hoàng đế nước Pháp (1769-1821), kẻ đã làm thay đổi bản đồ Âu châu, nhà chiến lược quân sự đại tài, đã phải tâm sự : “Tôi chết trước thời hạn, và thân thể tôi lại trở về với lòng đất. Đó là số phận của con người đã từng được gọi là Napoléon đại đế. Có một vực sâu ngăn cách giữa sự khốn cực của tôi và vương quốc bất diệt của Chúa Kitô”.
Để chuẩn bị cho cuộc ra đi vĩnh viễn, chúng ta phải mở rộng tâm hồn ra, đừng bao giờ khép kín lại với người khác. Con người sinh ra với những ngón tay nắm chặt lại. Bản tính con người vốn khép kín, ích kỷ. Một đứa trẻ được nuông chiều sẽ nghĩ rằng mọi người đều có bổn phận phải phục vụ nó, nó là trung tâm của vũ trụ, cả thế giới này là của nó. Nhưng mọi người cũng biết rằng khi chết đi, các ngón tay sẽ buông xuôi, tiền tài và danh vọng đều để lại…
Cuộc hành trình tâm linh là đi từ bản thân tới người khác, phải mở trái tim để yêu thương người khác, phải mở bàn tay để chia sẻ với người khác.
Truyện : Hãy bắt chước dòng suối.
Có một phiến đá ở bên cạnh một dòng suối được khắc những chữ “Hãy bắt chước dong suối” . Ba người du khách tình cờ đi đến đây, và tự hỏi không biết dòng chữ có ý nghĩa gì.
Một người là nhà buôn nói :
- Nó có nghĩa là dòng suối đưa nước tới một dòng suối khác. Suối này lại tiếp tục đưa nước tới một dòng khác lớn hơn, cho tới khi nó gặp sông, và nước sông đổ ra biển. Như thế, nó có nghĩa là : người ta nên quan tâm đến vấn đề vật chất và cố gắng làm giầu, như thế họ mới có thể thành công và giầu có.
Người trẻ nhất trong ba người nói :
- Không phải như vậy. Nước của dòng suối này rất trong và sạch. Ai đi qua đây, suối cho họ thức uống làm tỉnh người. Nếu dòng nước chảy đi xa hơn, nó sẽ bị vẩn đục hơn và không uống được. Dòng chữ có nghĩa là : Chúng ta nên giữ cho trái tim và linh hồn trong sạch, không vẩn đục, cũng như dòng suối này vậy.
Người lớn tuổi nhất nói :
- Người bạn trẻ nói đúng đó ! Dòng suối cho nước mát, sạch cho những ai đang bị khát. Dòng suối cho nhưng không đòi phải trả lại nước cho nó. Dòng suối cho tất cả mọi người không từ chối ai cả. Nó có nghĩa là : chúng ta nên tốt với mọi người, không nghĩ đến điều họ trả ơn, hay chúng ta được ban thưởng gì (Arthur Tonne , Stories for sermons, vol 13).
THẮP NÉN HƯƠNG LÒNG
22:26 |
THẮP NÉN HƯƠNG LÒNG *
Luật sư Lê Công Định
Ba tôi, một người tham gia phong trào cộng sản, vẫn luôn bày tỏ lòng kính trọng đối với cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm. Ông thường nhận định với tôi rằng dân tộc này sẽ tốt đẹp hơn nhiều, thậm chí có thể sánh ngang với Nhật Bản ở Á châu, nếu cụ Diệm lèo lái con thuyền đất nước đến được bờ bến mà cụ tâm niệm và tranh đấu cả một đời. Khi tôi tỏ vẻ ngạc nhiên vì sao ông chưa bao giờ bày tỏ sự tôn trọng tối thiểu đối với bất kỳ lãnh tụ cộng sản nào, ba tôi lắc đầu trả lời: “Ba chọn lầm đường!” Và ông luôn căn dặn tôi: “Thế hệ của con không được quyền lạc lối như ba.”
Mỗi sáng mùng một Tết hàng năm lúc tôi còn là học sinh tiểu học và trung học, sau khi sang chúc Tết ông nội về, ba mẹ thường đưa anh em chúng tôi đến nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi viếng mộ dượng sáu tôi là ký giả Vân Sơn Phan Mỹ Trúc, Chủ bút nhật báo Đông Phương ở Sài Gòn trước 1975. Bao giờ cũng vậy, trước khi đến mộ dượng tôi, ba tôi luôn dừng lại thắp hương, còn mẹ tôi (một giáo dân Công giáo) đọc kinh cầu nguyện trước mộ Tổng thống Ngô Đình Diệm, Cố vấn Ngô Đình Nhu và bà cụ cố thân sinh của hai ngài. Anh em chúng tôi phải đứng chấp tay, cúi đầu. Điều đó đã trở thành thông lệ của gia đình tôi ngày xưa.
Năm 1998, sang Pháp học, tôi đọc một quyển sách về Tổng thống Ngô Đình Diệm và biết rằng sau khi nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi bị giải tỏa năm 1985, hài cốt của ba vị cùng với ông Ngô Đình Cẩn được thân nhân chuyển về nghĩa trang Lái Thiêu. Tết năm 1999, nhân dịp trở về Việt Nam dự chương trình Orientation dành cho sinh viên nhận học bổng Fulbright du học Hoa Kỳ, tôi chở ba tôi đi Bình Dương tìm nghĩa trang Lái Thiêu, mà ông còn nhớ tên gọi xưa là “Nhị Tì Quảng Đông”. Chúng tôi dò hỏi những người dân gác mộ xung quanh đó, thì được hướng dẫn tận tình và đưa đến tận nơi. Họ còn nhắc nhở chúng tôi viếng nhanh rồi về, vì buổi trưa các du kích xã đi ăn cơm nếu không chúng tôi có thể bị mời về xã đội điều tra lý do viếng mộ ông Ngô Đình Diệm (?).
Mộ phần Tổng thống Ngô Đình Nhu- nghĩa trang Lái Thiêu - ảnh ddth |
Theo quyển sách tôi đọc, bia mộ của cố Tổng thống ghi “Giacôbê Đệ”, còn bia mộ của ông Cố vấn ghi “Baotixita Huynh”, do thân nhân lúc cải táng cố tình tráo hai chữ “huynh” và “đệ” để kẻ gian nhầm lẫn. Tôi không rõ thực hư việc này, nhưng quả nhiên thấy rõ những dòng chữ ấy. Giữa mộ hai ngài là mộ của bà cụ cố thân sinh. Cách một quãng xa, ngôi mộ có tấm bia dựng cao ghi chữ “Can” và năm mất 1964, chính là mộ phần của ông Ngô Đình Cẩn. Hai cha con tôi kính cẩn làm lễ, thắp hương, đọc kinh cầu nguyện và chụp ảnh lưu niệm. Suốt đoạn đường về ba tôi trầm ngâm, muộn phiền trước cảnh một nhân vật từng có sự nghiệp vĩ đại nhất của dân tộc ở thế kỷ 20 mà cuối đời chỉ còn nắm tro tàn vùi chôn tại một nơi và theo một cách thức không tương xứng với tầm vóc và đóng góp của ông. Nỗi buồn của ba lây sang cả tôi.
Trở lại Paris năm đó, tôi tìm đến thăm trường Ecole des Chartres, một trong những trường danh giá nhất của Pháp, nơi ông Ngô Đình Nhu từng theo học. Ngôi trường ấy tọa lạc gần trường luật Panthéon-Assas của tôi. Tôi vẫn nể phục ông Nhu như một nhà tư tưởng lớn hiếm hoi của Việt Nam đương thời. Từ chuyến đi năm 1999 trở về sau, lúc thì vào dịp Tết, lúc nhân ngày giỗ hai ông, tôi âm thầm đến viếng mộ phần của bốn vị đều đặn. Giữa năm 2007, một buổi chiều cuối tuần, đón tiếp luật sư Lê Quốc Quân vào Sài Gòn, tôi đưa anh và hai vợ chồng luật sư đồng nghiệp cùng đến nghĩa trang Lái Thiêu. Chúng tôi đã tổ chức một buổi lễ tôn nghiêm dành cho các vị, với nguyện ước một ngày không xa công lao và danh dự của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm sẽ được phục hoàn và tôn vinh tương xứng với sự nghiệp vĩ đại của ông.
Tiếc rằng giờ đây đang trong thời gian quản thúc, ngày mai tôi không thể đến viếng mộ phần của cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và ba vị tiền nhân như mong ước, hy vọng lời chia sẻ này thay cho nén hương tưởng niệm để tỏ lòng kính trọng và niềm tiếc thương của tôi dành cho nhân vật lịch sử đã từng tranh đấu và ngã xuống vì quốc gia Việt Nam.
---------------
TMSS: Ngày lễ các thánh và lễ các linh hồn nhắc nhớ chúng ta nên bỏ qua tất cả để sống với nhau. Cho dù có tất cả thì cũng có mang được gì theo. Chỉ có lòng nhân và tấm chân tình mới là hành trang mang theo về bên kia cõi đời. Vậy hà cớ gì mà phải gọi nhau là thằng hay đứa - cách thù hằn và gây phân cách. Mọi thứ sẽ được tỏ lộ theo thời gian và sự thật sẽ luôn chiến thắng cho dù có bị vùi sâu thật sâu. Đóm lửa nhỏ của lòng nhân ái có thể thiêu rụi cánh rằng hận thù. Người chết nhắc nhở chúng ta điều đó. Hãy sống với nhau bằng tấm chân tình và đức ái! Mong lắm thay!
* Tựa bài do TMSS đặt
01/11 - Lễ Các Thánh
08:19 |Lễ Các Thánh: các bài suy niệm và chú giải Lời Chúa
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ
Lời Chúa: Kh 7,2-4.9-14; 1Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a
|
Nói
tới việc nên thánh, nhiều người thường có thái độ hoài nghi và an phận,
họ bảo: Nên thánh là chuyện của các linh mục, tu sĩ, những người có
nhiều thời giờ để đọc kinh cầu nguyện, chứ còn chúng tôi phải ngược
xuôi, bươm chải giữa lòng đời. Không trộm cắp giết người, không bỏ lễ
ngày Chúa nhật, không bỏ xưng tội rước lễ vào mùa Phục sinh cũng là khá
lắm rồi, còn nói chi đến chuyện nên thánh.
Đó
là một quan niệm sai lạc, bởi vì sự thánh thiện không phải là một lý
tưởng dành riêng, một loại ngành chuyên nghiệp cấp cao, dân chúng đừng
hòng mơ tưởng tới. Quan niệm này có lẽ xuất phát từ một thực tế, đó là
trong số những vị thánh được Giáo Hội tuyên phong, thì con số giáo dân
rất thấp so với các linh mục và tu sĩ. Hơn nữa, có những thời người ta
đề cao tính chất phi thường và xuất chúng, thậm chí có lúc nhiều người
thi đua nhau lập thành tích trong khổ chế. Rồi cùng với trí tưởng tượng,
người ta đã thêu dệt thêm cho ly kỳ và hấp dẫn.
Còn
một quan niệm sai lạc khác nữa coi việc xa tránh thế gian là điều kiện
cốt yếu để nên thánh. Chúng ta thường nói: tu là cõi phúc, tình là giây
oan, sự thánh thiện là một cái gì thuộc về cá nhân, không dính dấp chi
tới cuộc đời. Vậy thì Giáo Hội quan niệm như thế nào về sự thánh thiện?
Tôi xin thưa: trong Kinh Tiền tụng ngày lễ hôm nay, chúng ta vốn thường
đọc: Khi tuyên dương công trạng các ngài, Chúa biểu dương chính những ân
sủng Ngài ban. Nghĩa là các thánh không phải là những siêu nhân, nhưng
là những con người bình thường, được Chúa tuyển chọn và ban cho tham dự
vào sự sống của Ba Ngôi, được Chúa giúp sức để sống một cuộc sống phù
hợp với Tin mừng. Công trạng của các ngài là một đón nhận và không cản
trở ơn huệ của Chúa.
Bởi
vì chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng thánh, còn chúng ta được trở nên
thánh, khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất ấy. Các thánh sở dĩ được
tuyên phong là thánh, bởi vì cuộc đời các ngài được coi như là một tấm
gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Mà vì Thiên Chúa đã xuất
hiện nơi Đức Kitô, nên có thể nói cách khác rằng: Ai giống Đức Kitô,
người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng, người
ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể được thực
hiện trong một đời sống rất bình thường. Thánh thiện Kitô giáo không
phải lúc nào cũng đồng nghĩa với hoàn thiện. Có những vị thánh mà vẫn
bất toàn. Chính Chúa Giêsu cũng đã từng nói: Những kẻ trộm cắp, đĩ điếm
có thể vào Nước Trời dễ hơn những kẻ tự coi mình là đạo đức, là mô phạm.
Đúng
thế, với người trộm lành, Chúa Giêsu đã hứa: Ngay hôm nay con sẽ được
lên thiên đàng với Ta. Có lần người ta đã thắc mắc tại sao vị tử đạo kia
có hai vợ mà vẫn được làm thánh. Sở dĩ, ngài được làm thánh không phải
vì có hai vợ, mà vì mặc dù tội lỗi như thế, ngài đã chấp nhận chịu chết
để khỏi chối Chúa. Mất vợ thì được, chứ mất Chúa thì không.
Ngày
nay chúng ta cần tới một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh
thiện vừa bình dân, vừa gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết
mọi người, thay vì một hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho
một thiểu số. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ, nhưng để tôn
vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt chước.
Ít
năm trước đây, một triệu phú người Pháp là Công tước Alfred de
Pierre-Cout, đã để lại trọn gia tài 2 triệu đôla để nuôi lớn những người
khổng lồ. Tòa án thực hiện di chúc, cho trích một phần tư số tiền của
gia tài là 500.000 đôla để dùng vào thử nghiệm này. Các viên chức thành
phố Rouen nước Pháp đã tìm kiếm trên thế giới những người đàn ông, đàn
bà lớn con. Cho họ sống từng đôi trong những ngôi nhà gần Rouen. Thử
nghiệm chấm dứt ít năm sau.
2000
năm trước đây, một nhân vật vĩ đại nhất đã đến trên mặt đất này và để
lại một di sản để làm phát sinh không phải người khổng lồ, nhưng là
người phi thường thiêng liêng, không phải những người có thân thể to
lớn, nhưng là những người có tâm hồn siêu việt. Chúng ta vừa đọc chúc
thơ của Người trong bài Tin Mừng hôm nay. Bài giảng thời danh trên núi
cho chúng ta phương cách để trở thành siêu việt. Chúng ta thường gọi là
Tám Mối Phúc Thật – Tám con đường hạnh phúc.
Trong
ngày lễ các Thánh, chúng ta tôn kính tất cả mọi người nam nữ, già trẻ
trong mọi thời đại, thuộc mọi quốc gia, mọi nghề nghiệp. Họ đã sống theo
đường lối này và đã trở thành siêu nhân. Tên tuổi và việc làm của hơn
40.000 siêu nhân này được ghi trong sổ bộ của Hội Thánh Chúa Kitô. Nhưng
còn một số đông vô kể không có tên trong sổ bộ. Các ngài cũng là những
siêu nhân, chúng ta tôn kính các ngài trong ngày hôm nay. Trong số đó có
nhiều vị gần gũi và thân thương với chúng ta.
Điều
gì làm các ngài thành vĩ nhân? Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài
Tin Mừng hôm nay. Các ngài nghèo khó trong tinh thần: Tiền bạc, của cải
không phải là cái các ngài quan tâm.
·
Các ngài hiền lành, hòa nhã, ân cần, khoan dung. Các ngài đã chịu đói,
chịu khát, các ngài đấu tranh Công lý cho mọi người. Các ngài nhân từ,
dung thứ những thiếu sót của con người.
·
Các ngài có tâm hồn trong sạch, không phải chỉ trong giới răn thứ sáu.
Nhưng còn trong mục đích làm đẹp lòng Chúa và ích lợi cho tha nhân. Các
ngài là người kiến tạo hòa bình: với chính các ngài, với tha nhân và với
Chúa.
·
Lòng tốt của các ngài đưa các ngài đến tù tội, ngược đãi và ngay cả sự
chết. Các ngài bị sỉ nhục, bị nhạo cười vì niềm tin, vì hành động như
những người theo Chúa Kitô.
Mỗi
lần chúng ta thực hành một trong Tám Mối Phúc Thật này, chúng ta lớn
lên trên đường thiêng liêng, chúng ta trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Để
khuyến khích chúng ta lớn lên, Mẹ Giáo Hội nhắc nhở chúng ta suốt một
năm tên của các vị Thánh. Hôm nay, ngày lễ các Thánh nam, nữ, gia đình
Chúa xum họp quanh bàn thánh Chúa để tôn kính tất cả, trong đó có bà con
láng giềng đã trở nên siêu nhân, mặc dù chưa được ghi tên trong sổ bộ.
Sức
mạnh để trở nên siêu nhân Chúa Kitô cho chúng ta trong của ăn, chúng ta
lãnh nhận nơi bàn tiệc Thánh Lễ. Ước gì tất cả chúng ta sẽ được trong
số những người sẽ được tôn kính trong ngày lễ các Thánh mai sau.
Xin Chúa chúc lành bạn.
Một
người Pháp tên là Pi-e Quốc (Alfred de Pierrecout) để lại gia tài hai
triệu đô la với lời di chúc phải dùng số tiền này gây giống những người
khổng lồ. Người ta đã tìm và chuyển những người cao lớn ngoại khổ về một
vùng gần tỉnh Ru-ăng (Rhuen), rồi khuyến khích họ lập gia đình với
nhau, mong thành lập một dòng giống khổng lồ. Chương trình này tiến hành
được ít năm rồi thất bại. Còn Chúa Giêsu cũng muốn gây dựng một dòng
giống vĩ nhân và đã thành công. Bí quyết thành vĩ nhân của Chúa đã tóm
gọn trong Bài giảng trên núi, cũng gọi là “Tám mối phúc thật”.
Chúa
Giêsu công bố những bí quyết hạnh phúc này trên một gọn núi. Khung cảnh
làm tăng vẻ hùng vĩ long trọng, khiến ta nhớ tới núi Sinai của Cựu Ước,
nơi Thiên Chúa công bố mười giới luật. Những điều hạnh phúc này cũng
gọi là Hiến chương Nước Trời, đây là tóm lược toàn bộ giáo lý của Đức
Kitô. Tuy đơn sơ giản dị nhưng là tinh hoa của Tin Mừng, Chúa muốn gửi
gắm với tất cả nhân loại, nhất là những người đau khổ: ốm yếu, tật
nguyền, nghèo túng, thất nghiệp, những người bị khinh chê, tuyệt vọng,
giới thu thuế và người tội lỗi.
Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó…, phúc
cho những người hiền lành…, phúc cho ai có từ tâm…, phúc cho ai bị bắt
bớ vì sự công chính… Những người gặp khó khăn đau khổ sẽ được hạnh phúc
trong Giáo Lý Đức Giêsu, đây là kiểu nói khác của Lời Chúa: “Ai vất vả
mệt mỏi hãy đến với Ta và Ta sẽ cho nghỉ ngơi. Hãy nhận lấy gánh của Ta
và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng và các con
sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì ách của Ta êm ái, gánh của Ta nhẹ nhàng”
(Mt 11,28-30). Chính vì đem hạnh phúc lại cho người đau khổ mà Chúa
Giêsu mới đúng là “Đấng được trông chờ”, là “người được tiên báo”, là
“người đem Tin Mừng Cứu Độ”. Chúng ta đừng được quên từ ngữ Tin Mừng Cứu
Độ đã được chính Chúa nhắc lại: “Thần Linh Chúa xuống trên tôi, Người
đã xức dầu tôi, sai tôi mang Tin Mừng cho người nghèo, băng bó cho ai có
cõi lòng tan vỡ, công bố giải thoát cho các tù nhân, an ủi những người
bị áp bức…” (Is.61,1-6; Lc.4,18).
Hạnh phúc cho họ… vì Nước Trời là của họ… Tám
mối phúc thật đóng khung trong kết luận đó. Nước Trời thuộc anh em,
không phải chỉ là lời hứa hẹn mai sau, nhưng niềm hạnh phúc này còn lan
toả ngay trong hiện tại. Khi hiến chương tám mối phúc thật được thực
hiện thì những người đau khổ sẽ hạnh phúc, tình thế sẽ đổi thay. Chúa
không ca tụng đói nghèo, đau khổ, nhưng muốn cải thiện cuộc sống dưới
ánh sáng Tin Mừng. Nước Trời, Nước Thiên Chúa là tổ chức được xây dựng
ngay trong cuộc sống thế trần, và đầu tiên nhằm xoá hết khổ đau, áp bức.
Chúa Giêsu không phải chỉ là Vua mai sau, nhưng ngay bây giờ Nước Chúa
đã hình thành, và Chúa đã là Vua luôn đem hạnh phúc cho dân của Người.
Phúc
cho người có tâm hồn nghèo, vì Nước Trời thuộc về họ. Phúc cho người
hiền lành, họ sẽ được đất. Trong từ ngữ Hy Lạp, hai ý đó chỉ có một từ.
Đó không phải là thái độ chịu đựng tiêu cực, nhưng là một cố gắng đạt
tới, để cho nhân quyền được tôn trọng. Phúc cho ai than khóc, họ sẽ được
ủi an. Phúc cho ai đói khát công chính, họ sẽ no thoả. Phúc cho ai có
từ tâm, họ sẽ được thương xót. Phúc cho ai tinh sạch trong lòng, họ sẽ
thấy Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khóc với Matta và Maria; Chúa đã sống
công chính rập mẫu Chúa Cha. Chúa đã thương xót các tội nhân, Người luôn
tha thứ. Các tín hữu phải noi gương Chúa ban phát lòng thương xót và
tha thứ. Khi đó họ được gọi là con Thiên Chúa, vì họ đã kiến tạo hoà
bình.
Lạy
Chúa, xin giúp chúng con noi gương các bậc thánh thiện mà Giáo Hội mừng
kính hôm nay, biết thực hành những lời Chúa dạy trong Tám mối phúc
thật, để chúng con lãnh nhận hạnh Chúa hứa ban.
4. Các Thánh và bổn phận nên thánh
Hôm
nay chúng ta mừng kính các thánh trên trời, là những bạn hữu nghĩa
thiết của Chúa, là những người được Chúa tuyển chọn và tạo thành một đám
đông vô kể bước vào vinh quang Nước trời, như thánh Gioan đã diễn tả:
- Các ngài thuộc những dòng họ đã được đóng ấn, mặc áo trắng và cầm cành lá thắng trận.
Chúng
ta cũng có thể nói được rằng: các thánh là những bậc đàn anh đã đi
trước chúng ta. Nhìn vào đời sống của các ngài, chúng ta cảm thấy được
an ủi và khích lệ, bởi vì các ngài cũng đã phải chiến đấu trong cuộc
chiến trần gian, các ngài cũng đã phải mang trên đôi vai thân phận yếu
của kiếp người và cũng đã vấp phạm, có vị còn ngập chìm trong tội lỗi
hơn cả chúng ta nữa.
Nhưng
với ơn Chúa trợ giúp và cùng với những cố gắng cá nhân, các ngài đã
chiến đấu, đã đi đến cùng mà vẫn giữ được đức tin. Các ngài đã kết thành
một hàng rào danh dự chung quanh Con Chiên là chính Chúa.
Chắc
hẳn bây giờ từ trời cao, các ngài đưa mắt nhìn chúng ta bằng cái nhìn
trìu mến và thầm mong một ngày kia chúng ta cũng sẽ được bước vào cõi
phúc trường sinh. Các ngài đã chỉ cho chúng ta con đường nên thánh mà
các ngài đã đi qua. Các ngài sẽ nâng đỡ và nói với chúng ta rằng:
-
Hãy tìm kiếm Chúa và đừng sợ hãi. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên
thánh. Hãy bắt chước chúng tôi vì chúng ta cũng chỉ là những kẻ tầm
thường và đáng thương. Hãy uốn nắn những sai lỗi. Hãy cố gắng trở nên
trọn lành như lời Chúa đã truyền dạy.
Vào một buổi tối người mẹ đã nói với những đứa con của mình như sau:
- Mẹ sẽ rất vui mừng nếu như một trong các con trở nên một vị thánh.
Lập tức đứa bé nhất đã giơ tay lên và nói:
- Con sẽ là một vị thánh.
Đứa bé giữ lời hứa, lớn lên làm tới chức Giáo hoàng với danh hiệu Celestinô V, và đã trở nên một vị thánh.
Trở
nên một vị thánh không phải là một việc có thể được thực hiện trong một
sớm một chiều, nhưng là kết quả của những cố gắng không ngừng, ngày này
qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trong
suốt cả cuộc đời, để được luôn trung thành cùng Chúa.
Quan
sát một người tập đi xe đạp, chúng ta thấy không phải cứ ngồi lên xe là
đã chạy được ngay. Lúc đầu thế nào cũng xiêu bên nọ, xọ bên kia, ngã
lên ngã xuống, rách cả quần, toạc cả đầu gối…Nhưng nếu cố gắng mãi, sẽ
có lúc người ấy biết đi và biết đi một cách anh dũng, bỏ cả hai tay m xe
vẫn không đổ.
Hay
như chú bé kia nuôi một con sáo, để tập cho con sáo biết nói, chú bé
phải cho nó ăn ớt, rồi lặp đi lặp lại ngày này qua ngày khác lời mình
định dạy cho nó, đến một ngày nó sẽ nói được.
Cũng
vậy trên con đường trọn lành, chúng ta sẽ tiến lên từ từ, từng bước
một, trong khi nhìn ngắm mẫu gương của các thánh. Cùng với sự trợ giúp
của ơn Chúa và những cố gắng của bản thân, chúng ta sẽ học biết phải yêu
mến Chúa như thế nào. Mỗi ngày sẽ là một bước tiến lại gần Chúa hơn.
Chúng ta không phải chỉ trở nên thánh một lần thay cho tất cả, mà phải
liên tục trở nên thánh. Chúng ta giống như người bơi ngược dòng nước,
không tiến tức là lùi. Không cố gắng bơi sẽ bị dòng nước là những đam mê
tội lỗi cuốn trôi.
Ơn
gọi nên thánh không phải là một ơn gọi được dành riêng cho các linh mục
và tu sĩ, nhưng là một ơn gọi của mọi người con Chúa, bởi vì con nhà
tông không giống lông cũng giống cánh. Chắc hẳn Chúa sẽ vui mừng khi
nhìn thấy những đường nét của Ngài trong tâm hồn chúng ta.
Hãy suy gẫm lời thánh Augustinô:
- Cậu nọ cô kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không?
Dù trẻ hay già, dù đàn ông hay đàn bà,tất cả chúng ta đều có thể và phải trở nên thánh.
Thánh
Đamascênô kể lại một mẩu chuyện như sau: ngày xưa ở một vùng kia, người
ta có một tập tục kỳ lạ, đó là mỗi vị vua chỉ được trị vì mười năm.
Trong thời gian đó, ông ta nắm giữ mọi quyền lực, đều hành mọi công
việc, mặc sức sử dụng tiền bạc…Nhưng sau thời gian ấy, người ta sẽ tước
đoạt phủ việt cũng như triều thiên và đày ải ông ta tới một hoang đảo xa
xôi, để ông phải chết dần chết mòn trong cô đơn và tuyệt vọng.
Năm
ấy có một vị vua lên ngôi, nhưng ông ta khôn ngoan hơn những người đi
trước. Trong thời gian trị vì, ông ta chỉ có một ý nghĩ: phải chuẩn bị
cho tương lai, kiến thiết hòn đảo xa xôi nơi ông ta sẽ bị lưu đày. Ông
truyền cho người ta xây cất cung điện, biến rừng hoang thành những vườn
cây ăn trái và những cánh đồng lúa xanh tươi. Rồi ông cho chở tất cả
vàng bạc châu báu của vương quốc tới hòn đảo ấy.
Chúng ta thầm khen:
- Ông vua này quả là thận trọng và khôn ngoan.
Hãy
bắt chước ông vua ấy, dùng cuộc sống ngắn ngủi hiện tại mà đầu tư cho
cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Hãy gửi trước về trời những kho tàng, là
những hành động bác ái yêu thương của chúng ta.
Đừng lần lữa, nhưng hãy bắt tay vào việc nên thánh ngay từ hôm nay, bởi vì như một câu danh ngôn đã bảo:
- Việc hôm nay chớ để tới ngày mai, bởi vì ngày mai biết đâu đã quá muộn, liệu còn có hay không?
Một
viên tướng nọ rất ghét một vị ẩn sĩ trong vùng ông ta cai quản. Do đó,
ông ta thường sai một nhóm gái làng chơi đến quấy rầy, quyến rũ, phá
phách nhà tu hành đủ kiểu, nhưng không lần nào có hiệu quả cả. Một bữa
đang khi vị ẩn sĩ tắm dưới suối thì đám con gái mất nết cũng ào xuống
tắm và ra sức chọc ghẹo. Thấy thế, vị ẩn sĩ vội bước lên bờ thì đám con
gái ăn mặc hở hang đó không chịu tha, liền vây tròn xung quanh vừa nhảy
múa ca hát vừa ăn nói tục tĩu. Chẳng chút động lòng hay tức giận, vị ẩn
sĩ ngước mắt lên trời, hai tay dang rộng với dáng điệu vui mừng hớn hở
và cầu nguyện rằng: “Lạy Thượng Đế, con cảm tạ Ngài đã ban cho nhân loại
những con người rất đẹp đang nhảy múa đây. Phải chăng chính hiện thân
Chân Thiện Mỹ của Ngài đang ở đây. Con xin thành tâm cảm tạ Ngài”. Cứ
thế, vị ẩn sĩ trong tư thế và tâm tình đó vẫn vui vẻ cầu nguyện. Càng
lâu nét mặt ông càng rạng rỡ, thanh thoát hơn bao giờ hết. Bỗng một cô
gái trong đám bỏ hàng chạy đến quì sấp dưới chân vị ẩn sĩ và thốt lên:
“Đây đúng là một vị Thánh, một vị Thánh ở giữa loài ngoài”.
Có
lẽ, cái cảm tưởng chung nhất khi nghe nói đến một vị thánh là một người
đều cho rằng đó là một loại người siêu phàm, họa hiếm, trăm năm mới có
một người. thật ra, về một phương diện nào đó các Ngài đúng là hạng
người như thế, nhưng nếu chúng ta ngây thơ đến độ quá thần thánh hóa các
Ngài là chúng ta sẽ mắc phải một thứ mặc cảm bệnh hoạn: nghĩa là có lúc
nào đó dám ước mơ làm thánh thì cho việc ấy là một chuyện phạm thượng,
bất kính, rồi dần dần coi việc nên thánh là chuyện viễn vọng, quá xa tầm
tay của mình.
Vậy
chúng ta tự hỏi mang mặc cảm tự ti bệnh hoạn như thế có đúng không? Và
phải quan niệm Các Thánh là những người như thế nào mới hợp lý? Các Ngài
có cái gì giống và cái gì khác mọi người chúng ta?
Trước
hết Các Thánh là những người giống chúng ta: cũng được sinh ra, lớn lên
bình thường, đôi khi còn rơi vào những hoàn cảnh khắc nghiệt hơn như
nghèo khổ có, bệnh hoạn có, tang tóc tai họa có, chán nản thất vọng có,
vui buồn có… Và cũng mang trong mình mọi yếu đuối hư hèn, mọi tính hư
nết xấu, cũng tham sân si, cũng hỉ ai ái nộ, cũng lầm lỡ mang tiếng xấu.
Thuộc đủ mọi thành phần giai cấp trong xã hội: giàu sang quyền thế có,
bần cùng dân đen có, trí thức bác học có, dốt nát quê mùa có. Nói tắt
các Ngài không khác chúng ta bao nhiêu, trái lại nhiều Vị còn mang nơi
mình một quá khứ đầy tội lỗi, xấu xa hơn chúng ta nữa.
Tuy
nhiên Các Ngài là những người khác chúng ta. Chính cái khác này đã nâng
Các Ngài lên bậc thần thánh và làm cho chúng ta trở thành con người tầm
thường. Nói rõ hơn, cái khác ở đây không phải là một sự kiện lạ lùng,
một bí quyết gia truyền, cũng không phải một đặc ân dành riêng cho một
số người, cũng không phải do dòng máu di truyền, mà là có quyết tâm cao,
cố gắng phi thường, dốc quyết sắt đá, cải thiện không ngừng, hợp tác
với ơn Chúa cách hiệu quả.
Nói
cụthể hơn là khi đứng trước mãnh lực của tiền tài danh vọng, Các Ngài
thấy lợi ít hại nhiều nên đã cương quyết từ bỏ, còn chúng ta viện đủ lý
do để bám theo, trước những quyến rũ của thế gian xác thịt, Các Ngài dốc
lòng xa tránh để sống thanh cao trong sạch hơn là nô lệ cho đam mê nhục
dục, trước anh em đồng loại, thay vì xa tránh, tranh chấp, giận ghét,
oán thù Các Ngài còn luyện tập từ bỏ cả những quyền lợi riêng tư, hưởng
thụ chính đáng nữa. Dĩ nhiên, tất cả những việc làm đó mà Các Ngài quyết
tâm thực hiện chỉ vì vâng lời Chúa dạy để yêu mến Người và phục vụ anh
em nên Các Ngài đã thành công trên con đường cứu rỗi.
Như
thế, cái khác giữa Các Thánh và chúng ta xem ra không có gì quá khác xa
nhau. Chẳng qua Các Ngài vâng theo ý Chúa hơn, chọn điều thiện điều tốt
hơn, cố gắng luyện tập các nhân đức hơn. Còn chúng ta nại đủ lý do này
khác để từ chối ơn Chúa soi sáng hước dẫn, không cố gắng quyết tâm đủ để
tuân thủ lời Chúa dạy, mà chỉ biết lo dung dưỡng bản thân, tham quyền
cố vị nên mãi mãi không bước đến cùng đời sống trọn lành được.
Hôm
nay toàn thể Giáo hội long trọng mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, vì thế chúng
ta hiệp nhau nơi đây để ca tụng những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực
hiện nơi những người đi trước chúng ta, những người đã đi theo Đức Kitô,
chính Ngài đã mở ra cho họ một con đường: “Con đường của sự sống, con
đường của hạnh phúc”, và hôm nay các ngài đang chia sẻ vinh quang đó với
chính Đức Giêsu trên Nước Trời. Cùng với các ngài, chúng ta hãy hân
hoan vui mừng, bởi vì hôm nay là lễ của tất cả những người đang sống
cũng như của tất cả các thánh đang hưởng mặt Chúa trên Nước Trời, Cùng
với tất cả chúng ta đang đi trên con đường xây dựng tình yêu, xây dựng
hạnh phúc cho tất cả mọi người.
Cũng
như mọi người, các thánh cũng là những con người yếu đuối, nhưng các
ngài đã thắng vượt được khó khăn và thử thách trong cuộc sống, cho nên
chúng ta cũng xin các ngài bầu cử cho chúng ta để chúng ta tiếp tục cuộc
lữ hành tiến về thiên quốc và cũng như các ngài, chúng ta bắt đầu cuộc
sống bằng tâm tình sám hối, xin Chúa thứ tha cho những lần chúng ta đã
chối từ không muốn làm chứng nhân tình yêu của ngài trước mặt mọi người.
Trong
đa số các nhà thờ bên Tây Phương, nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ
bằng kính, người ta thường thấy hình của các vị thánh được chạm trổ đủ
mọi màu sắc. Có một em bé gái nọ, lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm
một nhà thờ cổ kính. Trong khi các du khách bị thu hút bởi những công
trình nghệ thuật trong nhà thờ thì em bé lại dán chặt đôi mắt vào chân
dung của các vị thánh được vẽ trên các kính màu. Em ngây ngất trước vẻ
đẹp của những chân dung ấy mà không biết họ là ai. Và một du khách nào
đó đã giải thích cho em biết: đó là các vị thánh.
Tối
hôm đó, trước khi lên giường ngủ, em bé đã khoe với mẹ rằng: em đã biết
ai là một vị thánh và em nói với mẹ như sau: “vị thánh là một người mà
ánh sáng chiếu xuyên qua”. Có lẽ không có một định nghĩa nào xác đáng
hơn về các vị thánh. Các vị thánh là con người mà ánh sáng tình yêu của
Thiên Chúa đã chiếu xuyên qua các ngài. Chính định nghĩa ấy mà hôm nay
Giáo hội mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên trời cao để chiêm ngắm các
vị thánh được Giáo hội tôn phong hay không được ai biết đến, tất cả các
vị thánh đều là những con người đã luôn luôn để cho ánh sáng tình yêu
của Thiên Chúa chiếu xuyên qua mình để soi sáng mọi người xung quanh.
Năm
1986, trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp, Đức Thánh Cha Gioan
Phalô II đã nhắc đến những hồng ân cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho nước
này. Đó là sự hiện diện của rất nhiều vị thánh. Đức Thánh Cha nói như
sau: “Khi các vị thánh đi qua thì Thiên Chúa cùng đi qua với các ngài”.
Cũng
trong chuyến viếng thăm lần thứ ba tại Pháp của Đức Thánh Cha, Ngài có
nói như sau: “Các thánh cũng là những con người yếu hèn như chúng ta,
nhưng ánh sáng của Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả con người của các
vị ấy”. Các Ngài đã cứu Giáo hội bằng chính sự yếu hèn của mình. Qua
cuộc sống của các thánh, Thiên Chúa gởi đến cho chúng ta một tín hiệu:
“Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để nên thánh”. Các thánh là
những ngọn hải đăng, các ngài chỉ cho chúng ta một một con người đường
để chúng ta đi về với Chúa. Con đường ấy chính là con đường hạnh phúc,
một nguồn hạnh phúc thâm sâu phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng
người.
Trong
Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, hai chữ “Có Phúc
Hạnh Phúc” đã được Chúa Giêsu lập lại đến chín lần. Có lẽ Chúa Giêsu
muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng: “Nếu các ngươi nghe lời Ta nếu các
ngươi sống như Ta thì các ngươi sẽ được hạnh phúc thực sự”. Và có lẽ các
vị thánh cũng sẽ mời gọi chúng ta như sau: “Nếu anh chị em sống như
chúng tôi thì anh chị em cũng sẽ được hạnh phúc”.
Trên
thế giới này có bao nhiêu lời hứa hẹn về hạnh phúc. Trên khắp cả nẻo
đường mà chúng ta đi qua, các phương tiện truyền thông xã hội mà chúng
ta nghe và mỗi ngày sống đâu đâu cũng nghe thấy những lời kêu gọi tìm
hạnh phúc. Người ta mời gọi: hãy tiêu dùng sản phẩm của chúng tôi thì
quí vị sẽ được hạnh phúc.
Quả
thật, trái đất mà chúng ta đang sống đầy dẫy những lời quảng cáo cho
hạnh phúc. Thế nhưng, chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể đề ra cho
chúng ta hạnh phúc thực sự và con đường dẫn đến hạnh phúc ấy là con
đường của tình yêu mà chính Ngài đã đi qua. Ngài nói với chúng ta rằng:
“Không thể có hạnh phúc đích thực nếu không có tình yêu”, một tình yêu
quên mình, chia sẻ và tha thứ cho đến cùng.
Con
đường hạnh phúc mà Chúa Giêsu đề ra cho chúng ta là con đường của những
tâm hồn trong sạch, cởi mở với tha nhân đến độ quên chính bản thân
mình. Đó là con đường của những con người khi bị loại trừ và bách hại
vẫn tiếp tục chúc tụng và yêu thương. Đó là con đường của những con
người không ngừng hoạt động để mang lại hòa bình cho người khác, để mọi
người biết nhìn nhận tình yêu thương nhau như anh em con Cha trên trời.
Chính Chúa Giêsu đã qua con đường ấy, Ngài qua thực là mẫu người của
hạnh phúc. Từ 2000 năm qua, đã có biết bao nhiêu người đi theo con đường
ấy và ngày nay con đường ấy được tiếp tục mở ra cho mỗi người chúng ta.
7. Các Thánh nam nữ
Có
một hiệp sĩ nọ bị kẻ thù hạ nhục nên nhất quyết truy lùng để báo oán.
Anh đem theo mười người bạn với mũ giáp lên đường. Thấy mình không thể
chống cự nổi, kẻ thù bèn xuống ngựa, nằm giang tay ra theo hình thập giá
và nhắm mắt chờ đợi nhát gươm định mệnh. Trông thấy hình thập giá và kẻ
thù của mình đang thở dốc như người hấp hối, người hiệp sĩ động lòng
thương nên đã chặn các bạn lại, không cho họ tấn công. Anh nhẹ nhàng đến
gần,mời hắn ta đứng dậy và tha thứ cho hắn. Sau Cử chỉ anh hùng ấy,
người hiệp sĩ cảm thấy tâm hồn mình tràn đầu sự bình an và tươi vui, mà
anh chưa từng được nếm thử trong đời. Anh ghé vào một ngôi nhà thờ, quì
dưới chân thánh giá cầu nguyện. Lúc sau, anh như thấy Chúa Giêsu nhấc
đầu khỏi thập giá cúi xuống chào mình, như vẻ tàn đồng cử chỉ tha thứ
cùa anh. Anh thấy rằng mình giống Ngài được một chút bởi vì khi hấp hối
trên thập giá, Ngài cũng đã cầu xin Thiên Chúa tha cho những kẻ giết
mình.
Trở
nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời, hay
nói một cách khác, trở nên thánh đó phải là ơn gọi của mọi người kitô
hữu chúng ta và đó cũng là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi
cho chúng ta trong ngày lễ hôm nay.
Thực
vậy sự thánh thiện chính là nền tảng làm thành thân mình mầu nhiệm của
Đức Kitô là Giáo Hội, cộng đoàn các thánh. Sự thánh thiện như thế không
phải là ơn gọi dành riêng cho một lớp người đặc biệt được các ơn thần bí
này nọm mà là ơn gọi bình thường của tất cả mọi người tin vào Chúa. Nó
là điểm tới tự nhiên của cuộc sống đức tin và tình mến nơi mỗi người
chúng ta, nó là bổn phận của mọi người tin Chúa bởi vì tin có nghĩa là
mở rộng tâm hồn đón nhận Thiên Chúa và tin mừng yêu thương của Ngài,
đồng thời dấn thân sống những đòi buộc của tin mừng ấy, để ngày càng trở
nên giống Chúa hơn, là đấng thánh thiện trọn lành.
Bí
quyết nên thánh đã được Chúa Giêsu cống hiên cho tất cả chúng ta qua
các mối phúc thật mà Ngài đã rao giảng, đã sống và làm gương cho chúng
ta. Ngài đã chỉ cho chúng ta tám ngả đường giúp chúng ta nên thánh,
nghĩa là trở nên giống Chúa.
Điều
quan trọng đó là chúng ta có can đảm thực thi tinh thần tám mối phúc
thật, có dám bước đi trên những ngà đường Ngài đã chỉ vẽ hay không?
Sau
14 năm làm Giáo hoàng, ĐTC Gioan Phaolô đã tôn phong 553 vị thánh,
trong đó có 117 vị thánh tử đạo Việt Nam, 103 vị thánh tử đạo Đại hàn,
25 vị tử đạo người Mehicô. Quả thực cho đến nay trong lịch sử Giáo Hội
chưa có vị Giáo hoàng nào phong nhiều thánh như thế. Trước tình trạng
này, có những nhà thần học cho rằng việc phong thánh trong Giáo Hội đang
bị lạm phát và các người được tôn phong không còn được trọng kính như
trước đây. Thế nhưng dưới ánh sáng của đoạn sách Khải huyền trong thánh
lễ hôm nay, lập trường của những nhà thần học này xem ra có vẻ hẹp hòi.
Thực
vậy, nên thánh phải là một ơn gọi, một bổn phận của tất cả và của từng
người kitô hữu như lời Chúa đã nói: Các con hãy trở nên trọn lành như
Cha các con ở trên trời là đấng trọn lành. Mẹ Têrêsa Calcutta đã khai
triển tu tưởng trên như sau: Sự thánh thiện không phải là một cái gì xa
xỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ, nhưng bất kỳ người nào cũng có
thể nên thánh bằng cách làm những công việc nhỏ bé và chia sẻ niềm vui
yêu thương cho hằng triệu người đang cảm thấy bi bỏ rơi hất hủi và không
được ai chăm sóc. Anh chị em có thể thay đổi cuộc đời họ bằng những
công việc đơn sơ như trao ban một nụ cười. Vậy các thánh là người như
thế nào?
Trong
các nhà thờ cổ, khi nhìn lên bốn bức tường và các cửa sổ bằng kính
người ta thường thấy hình cácvị thánh với đủ mọi màu sắc. Một em bé nọ
lần đầu tiên được mẹ đưa đi viếng thăm một nhà thờ cổ như thế, trong khi
các du khacùc bị thu hút bởi những công trình nghệ thuật thì em bé lại
dán mắt vào chân dung của các vị thánh được ghep bằng kính màu. Em ngạc
nhiên nhưng lại không biết họ là ai? Và một du khách nào đó đã giải
thích cho em biết đó là các vị thánh. Tối hôm đó em đã nói với mẹ rằng
em biết ai là một vị thánh. Và em cho hay vị thánh là một người mà ánh
sáng chiếu xuyên qua. Có lẽ không một định nghĩa nào xác đáng hơn về các
vị thánh. Phải, các người là những con người mà ánh sáng tình yêu của
Thiên Chúa chiếu xuyên qua. Chính với định nghĩa ấy mà hôm nay Giáo Hội
mời gọi chúng ta ngước mắt nhìn lên để chiêm ngưỡng các vị thánh được
Giáo Hội tôn phong hay không được ai biết đến. Tất cả các vị thánh đều
là những con người luôn để cho ánh sáng tình yêu Thiên Chúa chiếu xuyên
qua mình, để soi tỏa cho mọi người chung quanh. Cũng trong chiều hướng
ấy, DTC Gioan Phaolô đã nói: Các thánh cũng là những con người yếu hèn
như chúng ta nhưng ánh sáng Đức Kitô đã chiếu xuyên qua tất cả những yếu
hèn ấy của thân phận con người. Qua cuộc sống của các ngài, Thiên Chúa
gửi đến cho chúng ta một tín hiệu, đó là tất cả chúng ta đều được mời
gọi nên thánh. Các ngài là nhưng ngọn hải đăng, chỉ cho chúng ta thấy
con đường đến với Chúa. Và con đường ấy chính là con đường hạnh phúc,
một hạnh phúc chân thật phù hợp với khát vọng cơ bản nhất của lòng
người.
Trên
một chuyến xe lửa, người ta chụm đầu vào nhau và bàn tán sôi nổi về một
vụ phá thai vừa mới xảy ra ở trong vùng. Nhiều người đã bênh vực cho
hành động ấy của người mẹ trẻ. Một vài người khác thì giữ thái độ yên
lặng. Và chỉ có một cô gái đã thẳng thắn nói lên rằng:
-
Không thể được, vì đó là một hành động sát nhân. Đứa nhỏù, dù mới chỉ
là một thai nhi bé bỏng, cũng đã là một người có linh hồn và thể xác.
Chàng
thanh niên, người tình của cô gái thì bĩu môi tỏ vẻ kinh bỉ trước lập
trường dứt khoát của cô gái. Nhưng rồi ngày hôm sau, chàng thanh niên đã
nhận được bức thư của cô gái, trong đó cô gái đã viết:
- Tôi không hy vọng rằng mình sẽ xây dựng được hạnh phúc với một kẻ không dám mở miệng bênh vực quan điểm của Giáo Hội.
Cô
gái này quả thực là một người can đảm, dám lên tiếng bênh vực sự toàn
vẹn của tôn giáo, dù có phải hy sinh cả một cuộc tình tốt đẹp. Tuy
nhiên, cũng thật đáng buồn vì có rất nhiều người trong chúng ta lại hành
động một cách khác hẳn. Đối với họ, sống là để làm việc. Và làm việc là
để kiếm tiền. Và kiến tiền là để nuôi sống gia đình, cũng như để có
được những tiện nghi, những hưởng thụ tư riêng. Sau tất cả những công
việc đó, nếu còn chút ít thời giờ, thì họ mới nghĩ đến tôn giáo và mới
nhớ rằng mình cũng có một linh hồn bất tử và mình cũng là Kitô hữu. Có
thể họ cũng sẳn sàng làm một vài việc đạo đức chiếu lệ nào đó, miễn là
không mất quá nhiều thời giờ và không thiệt hại tới địa vị, danh vọng và
lợi tức của họ. Còn nếu như đời sống tôn giáo đem lại những thiệt thòi
và khó khăn, họ sẽ vội vã ban Chúa như Giuđa hay chối Chúa như Phêrô.
Nếu
đọc lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy những tín hữu đầu tiên đã
không sống và hành động như thế. Họ luôn hãnh diện tuyên xưng mình là
Kitô hữ. Họ coi tước hiệu Kitô hữu là như một ơn gọi của Thiên Chúa xuất
phát từ trời cao.
Chính vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ họ:
- Anh em hãy sống xứng đáng với ơn gọi của mình.
Còn
chúng ta thì sao? Thái độ của chúng ta rất có thể đã thật khác xa với
thái độ của các tín hữu sơ khai. Chúng ta đã lãnh nhận bí tích Rửa tội
và có tên trong hồ sơ lưu trữ của giáo xứ. Đạo của chúng ta là đạo giấy
tờ. Còn trong cuộc sống, chúng ta lại hành động trái với những gì chúng
ta đã tin nhận, trái với lý tưởng cùa người Kitô hữu.
Phải
chăng chúng ta chỉ là những Kitô hữu “dổm”, hữu danh vô thực. Có tên mà
không sống, không làm, không hành động? Phải chăng danh hiệu Kitô hữu
chỉ còn là như một chiếc phù hiệu mà nhiều lúc chúng ta cũng chẳng muốn
mang lấy, vì nó ảnh hưởng tới lý lịch, nghề nghiệp và địa vị của chúng
ta. Chỉ cần nhìn vào một vài việc đạo đức là chúng ta có thể thẩm định
được chúng ta nghĩ gì về ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. Chẳng hạn ngày
Chúa nhật, chúng ta đi tham dự thánh lễ. Đi thì đã muộn, rồi lại còn tụm
năm tụm ba đứng bên ngoài nhà thờ nói chuyện và hút thuốc. Chúng ta làm
dấy thánh giá một cách nguệch ngọc, như vẽ bùa trên mình. Rồi khi thánh
lễ chưa kết thúc, chúng ta đã vội vã ra về, đúng với tiêu chuẩn: đi
muộn về sớm. Trong khi đó, chúng ta sẵn sàng thức khuya dạy sớm để coi
một trận đấu bóng đá. Chúng ta lặn lội, bất kể đêm hôm mưa gió để đi coi
một buổi trình diễn văn nghệ hay một vở tuồng cải lương…
Là
Kitô hữu, chúng ta là những người đã được Chúa kêu gọi. Ơn gọi của
chúng ta là nên thánh, là sống Phúc âm giữa lòng cuộc đời. Nếu chúng ta
trung thành với ơn gọi, chắc chắn chúng ta sẽ được thừa hưởng vinh quang
Nước trời mà Ngài đã hứa ban. Đức Kitô là đường, là sự thật và là sự
sống. Ngài sẽ soi lối để chúng ta biết kính mến Thiên Chúa và yêu thương
anh em, nhờ đó xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Là Kitô hữu, chúng
ta trở nên như men trong bột, như ánh sáng trong bóng tối và như muối
trong thức ăn. Hoạt động của chúng ta tuy âm thầm nhưng có sức hoán cải
và đội mới cả xã hội này.
Rất nhiều lần tôi nghe những anh em ngoại giáo phát biểu như sau:
-
Là người có đạo thế mà cũng vợ nọ con kia, thế mà cũng gian tham độc
ác, thế mà cũng rượu chè cờ bạc…Tin đạo chứ không tin kẻ có đạo…
Nghe
qua những lời phát biểu trên, hẳn chúng ta đã cảm thấy nhức nhối và cay
dắng, bởi vì quả thực, chúng ta chưa sống xứng đáng với ơn gọi của
mình. Chúng ta chưa thực sự trở nên trọn lành như Cha chúng ta ở trên
trời là Đấng trọn lành.
CẦU NGUYỆN
Lạy
Chúa, hôm nay chúng con mừng kính các thánh nam nữ, là những bậc đàn
anh đàn chị đã đi trước chúng con và đã chu toàn được ơn gọi Kitô hữu
của mình. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sửa đổi lại những sai lỗi
và khuyết điểm, đồng thời ra sức thực thi giới luật yêu thương của Chúa
để chúng ta trở thành những chứng nhân của Chúa giữa lòng cuộc đời. Xin
cho chúng con luôn ghi nhớ lời thánh Augustinô: Ông nọ bà kia nên thánh
được, còn tôi tại sao lại không?
Có
hai vợ chồng nhà kia, lấy nhau đã nhiều năm mà vẫn không sinh được một
mụn con nào. Năm ấy, có một vị tư tế đến thăm, ông này đã được họ giúp
đờ nhiều lần. Sau khi đã cho vị tư tế ăn uống no nê, họ đã xin với ông:
khi ngài lên đền thờ, thì làm ơn cầu nguyện với thần minh cho chúng tôi
có được một đứa con. Khi vụ tư tế lên đền thớ, ông đã cầu nguyện cho họ
như sau: Tâu lạy các thần minh, vợ chồng họ thật tử tế với con, xin các
ngài thương xót cho họ có được một mụn con đề vui cửa vui nhà. Một trong
số các vị thần đã trả lời cách nghiêm nghị và dứt khoát: Theo như số
phận đã ấn định thì họ sẽ không có con.
Năm
năm sau, vị tư tế đó lại lên đường hành hương một lần nữa và cũng dừng
lại ở gia đình ấy. Thấy có hai đứa bé đang nô đùa trước cổng, ông ngạc
nhiên hỏi: Con ai vậy. Người cha đáp: Con chúng tôi đấy. Vị tư tế đang
còn bỡ ngỡ thì người đàn ông giải thích: năm năm trước, khi ngài từ biệt
chúng tôi thì một vị nổi tiếng thánh thiện đã đến làng này. Chúng tôi
đón tiếp ông và hôm sau trước khi từ giã, ông đã chúc lành cho hai vợ
chồng chúng tôi và những đứa bé này là kết quả của sự chúc lành đó. Nghe
thế vị tư tế hối hả lên đền thờ và trách các thần minh: Tại sao các
ngài bảo tôi là số họ không con, thế mà bây giờ họ đã có những hai đứa?
Một vị thần nghe vậy đã mỉm cười và nói: Có lẽ một vị thánh nào đó đã
làm thay đổi số mệnh người đời.
Thực
vậy, nếp sống gương mẫu và thánh thiện của chúng ta có thể làm thay đổi
được cuộc đời của những người chung quanh. Chúa Giêsu đã từng căn dặn
những kẻ tin theo Ngài: Chúng con phải sống thế nào để mọi người nhìn
vào chúng con mà ngợi khen Cha chúng con ở trên trời. Lời khuyên này
hiện nay càng đúng hơn bao giờ hết, vì có một thời người ta hâm mộ những
lời giảng thâm thúy hùng hồn của các nhà truyền giáo. Có một thời người
ta cải tà qui chánh trước những điều kỳ lạ xảy ra trước mắt. Nhưng ngày
nay người ta sẽ tin Chúa nhiều hơn nhờ đời sống thánh thiện của những
người tin Chúa. Đời sống gương mẫu và thánh thiện của người kitô hữu có
thể thay đổi được vận mệnh của người khác. Từ không biết Chúa đến nhận
biết, tôn thờ và yêu mến Chúa để đạt được hạnh phúc vĩnh cửu.
Đời
sống đó còn có thể thay đổi được cả vận mệnh của thế giới. Từ lòng tị
hiềm ghen ghét, chiến tranh và chém giết lẫn nhau đến yêu thương, xây
dựng, đùm bọc và nâng đỡ lẫn nhau. Đời sống gương mẫu và thánh thiện của
chúng ta có ảnh hưởng sâu xa tới niềm tin của người khác và làm cho mầu
nhiệm cứu chuộc của Đức Kitô được “hiển linh: cho muôn dân trên toàn
cõi địa cầu.
Người
ta kể lại rằng trong đời thánh Antôn tu rừng có một lần ngài xin tá túc
trong ngôi nhà của anh thợ đóng giày theo lệnh Chúa. Hai vợ chồng dọn
bữa ăn và chuẩn bị chỗ ngủ cho thánh nhân. Ngài ở đó ba ngày, hỏi thăm
về đời sống và công ăn việc làm. Nhờ những câu chuyện trao đổi, họ đã
trở thành bạn thân với nhau. Sau đó, thánh nhân từ giã họ mà trở về nhà.
Lúc bấy giờ Chúa hỏi: con thấy người thợ giày ấy thế nào? Thánh nhân
thưa lại: Ông ta là một người đơn sơ, vợ ông có thai và sắp sinh con. Họ
có vẻ yêu nhau lắm. Ông ta có một cửa tiệm nhỏ để đóng và sửa giày. Ông
ta làm việc hăng say, gia đình ông ta sống đạm bạc với số tiền kiếm
được nhưng luôn biết chia sẻ giúp đỡ cho những người kém may mắn. Ông ta
và vợ luôn tin tưởng mãnh liệt vào Chúa và cầu nguyện ít nhất mỗi ngày
một lần. Họ có nhiều bạn thân và người thợ giày thì luôn miệng kể chuyện
khôi hài cho mọi người cười. Chúa lắng nghe thánh nhân và cuối cùng
Ngài phán: Antôn, con là một vị thánh sống, nhưng người thợ giày và bà
vợ cũng là những vị thánh sống.
Cơ
hội nên thánh luôn ở trong tầm tay của chúng ta, con đường theo Chúa
nằm ngay dưới chân chúng ta. Chu toàn bổn phận của mình trong vui tươi,
tin tưởng và phó thác nơi tình yêu thương của Chúa là mình đang bước vào
con đường cứu rỗi. Đừng tìm đâu xa. Ơn thánh Chúa đang tràn ngập trong
những biến cố lớn nhỏ của đời mình. Thánh nữ Têrêxa hài đồng khuyên: Mỗi
khi cúi xuống nhặt một cây kim vì lòng yêu mến Chúa và phục vụ anh em,
đó là chúng ta đang xây đắp kho tàng vĩnh cửu của mình trên trời.
Tin
tưởng, kính mến Thiên Chúa và yêu thương, phục vụ, tha thứ cho anh em
trong những liên hệ hằng ngày, đó là con đường nên thánh.
Nên
thánh không phải là cố gắng làm những công việc phi thường, nhưng là
khiêm tốn chu toàn bổn phận hằng ngày một cách tốt đẹp. Nên thánh chính
là làm những công việc bình thường một cách phi thường. Người Do thái
mong đợi một vị cứu tinh cao sang quyền phép, nên họ đã không nhận ra
con người ngheo nàn tại Nagiarét là Đấng Cứu thế. Hêrôđê đòi xem những
phép lạ, nên đã không nhìn thấy nơi người tử tội là vị Thiên Chúa tối
cao.
12. Thánh thiện
Linh
mục Anthony de Melo có kể câu chuyện như sau: Có một linh sư Ấn giáo nọ
nổi tiếng là bậc thánh thiện, ông đã mở được nhiều trung tâm cầu nguyện
và qui tụ được nhiều đệ tử.
Ngày
kia, có một người tìm thầy học đạo tình cờ đến trước cửa trung tâm. Con
người khao khát chân lý từ bao năm nay cảm thấy như được giác ngộ khi
gặp gỡ vị linh sư. Vị linh sư nói với anh:
-
Trước khi nhận ngươi làm đệ tử, ta thấy cần phải thử thách ngươi về sự
vâng lời. Đằng trước trung tâm có một dòng sông dày đặc cá sấu, ta muốn
ngươi phải lội qua dòng sông ấy.
Không
một chút do dự, người thanh niên để nguyên quần áo quăng mình xuống
dòng sông. Vừa lội qua dòng sông anh vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng kỳ
diệu của thầy tôi’’.
Nhờ
có sự hỗ trợ của nhiều người và của chính vị linh sư, người thanh niên
đã bơi qua dòng sông và trở về an toàn. Sự kiện này càng làm cho vị linh
sư thấy mình là người thánh thiện. Lập tức, ông cho tập trung các đệ tử
trong nhà lại và trịnh trọng bước xuống dòng sông, vừa công khai bơi
lội vừa hô lớn: “Tung hô quyền năng của ta, tung hô quyền năng của ta’’.
Thế nhưng, ông vừa dứt lời thì đàn cá sấu ào tới cắn xé ông ra từng
mảnh.
Thánh
thiện chính là quên mình, quên mình đến độ không được phép ý thức về sự
thánh thiện của mình. Thiên Chúa ban cho ta sự thánh thiện là để cho
người khác hưởng dùng. Bao lâu sự thánh thiện đem lại lợi ích cho kẻ
khác thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút một
người thánh thiện giữ riêng ân huệ cho mình, thì người đó đánh mất sự
thánh thiện, đồng thời đánh mất chính bản thân.
Thật
ra, thánh thiện không là một đặc ân cho một số người ngoại hạng. Đó là
ơn ngọi của mỗi người kitô. Người kitô không thể không là người thánh
thiện, vì chính thánh thiện là tên gọi của Chúa Kitô:’’ Ngài là Đấng
thánh’’.
‘’Ngài
là Đấng thánh’’, bởi vì hơn ai hết Ngài là Đấng quên mình. Thánh Phaolô
đã nói đến sự thánh thiện của Chúa Kitô bằng công thức:’’Ngài để tự hạ
vâng phục cho đến chết và chết trân thập giá’’.Đó cũng là lý tưởng bắt
buộc của mọi người tín hữu kitô. Chúa Giêsu đã từng nói với các môn
đệ:’’Ai tìm sự sống mình thì sẽ mất, và ai đành mất mạng sống mình vì Ta
người đó sẽ tìm lại được’’. Quên mình, sống trọn vẹn cho người khác, đó
chính là định nghĩa đích thực của sự thánh thiện.
CÁC NGÀI LÀ AI VÀ TỪ ĐÂU TỚI?
Trong
thị kiến về “những kẻ đã được niêm ấn” (tức là những kẻ thuộc về Thiên
Chúa và ở trong sự bảo vệ của Người) được tuyển chọn tới trước ngai Con
chiên, Thánh Gioan thấy số người đó thật đông đảo: “144 ngàn thuộc mọi
chi tộc Israel” và một đoàn người khác đông đảo không thể đếm được thuộc
đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng.” Tất cả những
người đó đều “mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế” chiến thắng
(Kh 7,2-9). Đoàn người đông đảo không thể đếm được đó là chính các
Thánh Nam Nữ mà chúng ta mừng kính trong ngày lễ đặc biệt hôm nay: Lễ
Các Thánh.
Các
ngài là những người khi còn sống đã biết thực hiện tinh thần của Nước
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã dạy trong bài giảng trên núi hôm nay. Đó là
Tám Mối Phúc Thật hay cũng còn gọi là Hiến chương Nước Trời (Mt 5,1-12).
Có
những vị đã thực hiện đức khó nghèo, khiêm nhường, nhỏ hèn (Mt 11,25;
18,2-4) vui nhận số phận rốt hết (Mt 19,30). Tinh thần khó nghèo đó đã
dẫn các ngài tới một đời sống nghèo khó vật chất thực sự (Mt 6,19). Vì
thế các ngài được Chúa chúc phúc và trọng thưởng: “Phúc cho những ai có
tinh thần nghèo khó vì Nước trời là của họ” (Mt 5,3).
Nhiều
đấng khác đã sống đời hiền lành theo gương Chúa Giêsu (Mt 11,29) thì
được Người khen tặng: “Phúc cho những ai hiền lành vì họ sẽ được đất
nước làm cơ nghiệp” (c. 4). Và cứ thế, những vị đã sống đời ưu phiền,
những kẻ đã “gieo trong nước mắt” (Tv 126,5) thì nay được an ủi. Những
kẻ đã đói khát sự công chính thì nay được no đầy. Kẻ đã biết yêu thương
người thì nay được Chúa thương yêu. Những người đã sống đời trong sạch
thì nay được nhìn thấy Thiên Chúa. Những Thánh đã dùng tất cả đời mình
để tác tạo hòa bình thì nay được gọi là con Thiên Chúa. Và những đấng
khi còn sống đã bị bắt bớ, bị bách hại vì Chúa như các Thánh Tử Đạo Việt
Nam thì nay được khen tặng phần thưởng Nước Trời.
Các
ngài đã sống khác nhau, nêu những gương mẫu khác nhau như trăm hoa đua
nở và “mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười” (Kiều). Nhưng tất cả đều có
một điểm chung giống nhau là họ đã theo Chúa Giêsu mà chọn con đường
Thánh giá đau khổ để tới vinh quang và họ đã ra sức giữ gìn “chiếc áo
trắng ngày Rửa tội” tinh tuyền bằng Thánh sủng của ơn Cứu Độ: “Họ là
những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt và tẩy áo trắng trong máu
Con chiên” (Kh 7,14).
Mừng
lễ các Thánh, trước hết chúng ta ca tụng và cảm tạ Chúa vì những đặc ân
và phần thưởng Chúa đã ban cho các Thánh. Sau nữa, chúng ta cầu xin Các
Thánh bầu cử cùng Chúa cho chúng ta nhiều ơn lành để sống noi gương các
Ngài và hẹn sẽ gia nhập một trong tám đoàn người được Chúa chúc phúc
hôm nay.
Lạy
Chúa, tuần này con quyết noi gương các Thánh thực hiện một trong tám
Mối phúc thật mà Chúa đã công bố trong bản Hiến chương Nước Trời hôm
nay.
Ngày
kia, thánh Antôn tu rừng đã đến gặp bác thợ giày, vì nghe đồn bác là
một người đạo đức lạ thường. Được hỏi về bí quyết nên thánh, bác thợ
giày liền đáp:
- Tôi chỉ biết đóng giày mà thôi.
Ngạc nhiên, thánh nhân bèn hỏi lại:
-
Nếu chỉ có thế, làm sao mà thánh thiện cho được. Như tôi đây, tôi
thường nghĩ đến Chúa trong từng giây phút. Bác có bí quyết nào khác nữa
không?
Bác thợ giày liền giải thích:
- Tôi làm việc tám giờ, cầu nguyện tám giờ và nghỉ ngơi tám giờ.
Thánh nhân vẫn chưa cho đó là một cuộc sống lý tưởng vì ngài cầu nguyện ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thánh nhân hỏi tiếp:
- Còn về đức khó nghèo thì sao?
Bác thợ giày trả lời:
-
Tài sản và lợi tức của tôi, một phần ba thì dâng cho Giáo Hội, một phần
ba thì bố thí cho người nghèo, còn một phần ba thì giữ lại cho tôi.
Thánh
nhân cũng chưa cho đó là một bí quyết trọn hảo, bởi vì chính ngài đã
phân phát tất cả những gì mình có cho Giáo Hội và cho người nghèo. Vặn
hỏi mãi, cuối cùng bác thợ giày mới chịu bật mí:
-
Mặc dù tôi bố thí một phần ba cho người nghèo, nhưng đêm ngày tôi không
thể ngủ yên khi nhìn thấy cảnh nghèo túng chung quanh tôi, đến nỗi tôi
đã phải thân thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, thà rằng Chúa để cho con phải
xuống hỏa ngục, còn hơn là nhìn thấy những kẻ khốn khổ này phải sống
triền miên trong cảnh nghèo đói.
Nghe
nói thế, thánh nhân liền bỏ ra về vì ngài chợt hiểu rằng: Ngài chưa đủ
thánh thiện như bác thợ giày, đến độ dám hy sinh tất cả vì người nghèo.
Từ
câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy có nhiều cách để nên thánh, dường
như không có một mẫu mực thánh thện nào chung cho tất cả mọi người. Có
người nên thánh ngay trong bậc gia đình của mình giữa trần gian. Có
người chịu chết vì đạo. Có người sống trong bậc tu trì. Mỗi vị thánh là
một cách sống. Tuy nhiên, giữa những khác biết đó, vẫn có một mãu số
chung cho mọi cuộc sống thánh thiện, đó là tình yêu.
Thực
vậy, Thánh Phaolô đã diễn tả: Dù tô nói được mọi thứ tiếng, dù tôi làm
được những việc lạ lùng, mà nếu không có đức ái, không có tình yêu, thì
tôi cũng chỉ là như não bạt khua vang.
Không
có đức ái, không có tình yêu, thì tòa nhà đạo đức của chúng ta chỉ được
xây trên một nền móng hão huyền mà thôi. Chúa Giêsu cũng đã nói:
- Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành.
Thiên
Chúa là Tình yêu. Ngài đã yêu thương mọi người, không loại trừ một ai.
Cũng vì tình yêu, mà Ngài đã xuống thế làm người như chúng ta và đó cũng
chính là điểm tận cùng của tình yêu. Bác thợ giày trong câu chuyện vừa
nghe không những đã dành mọi của cải cho người nghèo, mà hơn thế nữa bác
còn nghĩ đến người nghèo như là lẽ sống của bác. Và đó chính là bí
quyết cao vời nhất để nên thánh.
Bố
thí tất cả của cải, xa lánh mọi thú vui, đêm ngày ăn chay cầu nguyện…
Tất cả đều tốt, nhưng nếu sống như thế để tìm cho mình sự thanh thản
trong tâm hồn vì sợ bị người khàc quấy rầy, thì vẫn chưa phải là lý
tưởng cao đẹp nhất.
Hãy
nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành. Đó phải là
lý tưởng của chúng ta. Cha trên trời đã yêu thương mọi người đến nỗi đã
trao ban chính Con Một Ngài. Thiên Chúa là Cha, bởi vì Ngài luôn sống
cho con cái của Ngài. Và bây giờ đến lượt chúng ta, để trở nên giống
Ngài, chúng ta cũng phải sống cho người khác, bằng những hành động bác
ái và yêu thương, nâng đỡ và phục vụ mọi người. Đó chính là bí quyết
giúp chúng ta trở nên tốt lành và thánh thiện.
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt 5, 1-12a
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Những lời Chúa nói hôm nay thật lạ lùng. Khác hẳn với những gì người đời thường nói. Nhưng đem đến cho ta biết bao niềm hy vọng.
Trước
hết là niềm hy vọng hạnh phúc. Cuộc sống trần gian có nhiều khổ đau đến
nỗi nhiều người gọi trần gian là thung lũng nước mắt. Ai cũng mơ ước
được hạnh phúc. Nhưng hầu như hạnh phúc luôn ở ngoài tầm tay con người.
Với những lời chúc phúc hôm nay, Chúa cho ta biết Chúa đã dựng nên con
người để được hạnh phúc. Dù hiện nay ta còn phải chịu nhiều đau khổ, ưu
phiền, khốn khó, nhưng những đau khổ, ưu phiền khốn khó đó sẽ qua đi. Vì
cuộc sống này chỉ là tạm bợ. Hạnh phúc Chúa hứa sẽ vĩnh cửu vì cuộc
sống đời sau không bao giờ tàn úa.
Tiếp
đến là niềm hy vọng Nước Trời. Hạnh phúc ta được không ở tại đời này,
nhưng ở trên Nước Trời. Trên Nước Trời ta được hạnh phúc vì được làm chủ
nhân Nước Trời. Và trên Nước Trời, ta sẽ được an ủi, được thương xót,
được làm con Chúa, được thấy mặt Chúa. Đó là hạnh phúc tuyệt đối không
gì có thể so sánh được.
Sau
cùng là niềm hy vọng được chính Chúa. Qua những lời chúc phúc. Chúa cho
ta hiểu rằng Chúa chính là nguồn mạch sự sống của ta, là tất cả ý nghĩa
đời ta, là hạnh phúc của ta. Được Chúa là được tất cả. Chúa là sản
nghiệp lớn lao sẽ khiến ta trở nên giàu có. Chúa là niềm an ủi khiến ta
không còn sầu khổ. Chúa là hạnh phúc tuyệt đối khiến ta thỏa chí toại
lòng không còn khao khát gì nữa. Còn gì hạnh phúc hơn khi ta được chiêm
ngưỡng Chúa tỏ tường, được làm con Chúa, được Chúa yêu thương.
Tuy
nhiên để đạt được Chúa, bản thân ta phải được thanh luyện theo con
đường Tám Mối Phúc. Chính Chúa Giêsu đã đi vào con đường đó. Người đã
sống nghèo, đã sống hiền lành khiêm nhường, đã chịu giết hại vì rao
giảng Tin Mừng. Người đã mở đường đi về hạnh phúc.
Các
thánh là những người đã đi theo Chúa Giêsu trên con đường thanh luyện.
Các ngài đã giặt áo trong máu Con Chiên nên áo của các ngài trắng như
tuyết. Các ngài được hưởng hạnh phúc Nước Trời vì các ngài đã chịu thanh
luyện trong cuộc sống trên trần gian. Các ngài được chính Chúa vì các
ngài đã từ chối không ham mê dính bén những của cải trần gian.
Vì
thế, lễ các thánh là lễ của niềm vui. Chúng ta vui mừng vì các thánh
chính là thân nhân của chúng ta, là tổ tiên, ông bà, cha mẹ, anh chị em,
bạn bè chúng ta.
Lễ
các thánh là lễ của niềm hy vọng. Các thánh là người như chúng ta với
tất cả những thiếu thốn, những yếu hèn. Các ngài đã đạt tới hạnh phúc
Nước Trời. Như thế chúng ta hy vọng cũng sẽ được hạnh phúc Nước Trời như
các ngài. Chúng ta còn hy vọng hơn nữa, vì Chúa đã hứa cho ta được hạnh
phúc Nước Trời làm sản nghiệp. Lời hứa của Chúa là niềm hy vọng của
chúng ta.
Nhưng
lễ các thánh cũng là lễ của phấn đấu. Con đường dẫn ta tới Nước Trời là
con đường Tám Mối Phúc. Đó là con đường phấn đấu từ bỏ mình, từ bỏ
những ham hố tranh dành, chiếm hữu, thống trị. Phấn đấu sống khiêm
nhường và nhất là yêu thương xây dựng hòa bình. Khi phấn đấu sống như
thế, ta xây dựng Nước Trời từ trần gian, biến trần gian thành nơi hạnh
phúc, biến mọi người thành anh em. Khi phấn đấu xây dựng Nước Trời như
thế, ta góp phần xây dựng hòa bình trên trần gian.
Lạy các thánh nam nữ ở trên trời, xin cầu cho chúng con.
III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU
1) Tám mối phúc của Chúa đem đến cho ta những niềm hy vọng nào?
2) Lễ các thánh gợi cho ta những tâm tình nào?
3) Làm thánh là giúp xây dựng xã hội. Bạn nghĩ gì về ý kiến này?
“Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”
Hôm
nay Giáo Hội hân hoan mừng lễ kính các thánh nam nữ trên thiên đàng,
qua thánh lễ này chúng ta càng thấu hiểu hơn nữa về mầu nhiệm các thánh
thông công của Giáo Hội, và khi suy niệm đến mầu nhiệm thông công này,
chúng ta càng đặt niềm tin tưởng của mình vào Thiên Chúa và Hội Thánh
hơn.
Các
thánh là những con người, không ai có thể nên thánh nếu không đi qua
cuộc sống làm người với những khổ đau, không đi qua đau khổ thì không
thể trở thành một thánh nhân, bởi vì chính Đấng cứu chuộc nhân loại là
Chúa Giêsu Kitô đã làm như thế: bị đánh đòn, bị đóng đinh vào thập giá
và cuối cùng chết trên thập giá.
Các
thánh nam nữ là những con người như chúng ta, khi còn sống ở thế gian
các ngài cũng có tham sân si, cũng có kiêu căng, có giận hờn, có ghét
ghen, có tham lam, có những tội lỗi mà chúng ta đã phạm hôm nay, nhưng
các ngài biết cậy vào ơn Thiên Chúa và biết quyết tâm đứng lên cố gắng
làm lại cuộc đời mình, biết chiến đấu với những cám dỗ để rồi hôm nay
các ngài được hưởng phúc với Thiên Chúa và các thiên thần của Thiên Chúa
trên thiên đàng.
Các
thánh nam nữ là những con người như chúng ta, có vị đã từng làm vua, có
vị đã từng làm quan lớn quan nhỏ, làm bác sĩ, làm kỹ sư, làm thấy giáo,
làm nô lệ, có vị làm giáo hoàng, có vị làm giám mục, làm linh mục, phó
tế, có các vị là nam nữ tu sĩ. v.v… nghĩa là các ngài đủ mọi thành phần
giai cấp trong xã hội có những đời sống và hoàn cảnh khác nhau, nhưng
các ngài đã có một mục đích để sống, đó chính là phải trở nên thánh,
phải trở thành những bạn hữu của Thiên Chúa trong chính bổn phận của
mình.
Các
thánh nam nữ là những con người như chúng ta, nhưng các ngài đã biết
thực hiện “Hiến Chương Nước Trời” tức là “Tám Mối Phúc” ngay tại trần
gian này:
1) Các ngài giàu có nhưng đã sống tinh thần khó nghèo vì Nước Trời.
2) Các ngài bị người khác vu oan giá họa nhưng vẫn hiền lành với họ.
3) Các ngài đã chia vui với người vui và buồn với người buồn, nên được Thiên Chúa ủi an ngay khi còn ở đời này.
4)
Các ngài mong muốn được trở nên người công chính, và sống công chính
giữa một xã hội đầy mưu mô xảo trá, nên được Thiên Chúa cho thỏa lòng
5) Các ngài biết thương xót người, tức là biết động lòng trước cảnh thương tâm của người khác, nên được Thiên Chúa xót thương.
6)
Các ngài sống trong danh vọng, sống giữa bụi trần với những đam mê của
nó, nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sạch, nên các ngài được nhìn thấy
Thiên Chúa.
7)
Các ngài đi đến đâu là đem bình an của Thiên Chúa đến nơi đó, các ngài
được gọi là những người biết kiến tạo hoà bình, nên các ngài được gọi là
con Thiên Chúa.
8)
Các ngài bị bắt bớ, bị đánh đập, bị tra tấn, bì tù đày vì các ngài sống
và tin vào Chúa Giêsu, Đấng sẽ ban Nước Trời cho họ, nên các ngài đã
được Nước Trời làm của mình sau khi từ giã cõi đời tạm này.
Các
thánh nam nữ đều là những con người như chúng ta, các ngài đã trở nên
những thánh nhân, thì chúng ta cũng có thể trở nên thánh như các ngài,
bởi vì nên thánh là đòi hỏi của Phúc Âm và là mục đích sống ở đời của
chúng ta –người Kitô hữu.
Xin
Mẹ Maria và các thánh nam nữ trên thiên đàng, cầu bàu cho chúng ta là
những người đang trên đường đi về quê trời biết noi gương của các ngài,
biết quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình, biết đứng dậy khi ngã xuống
trong tội, và biết phục vụ và tha thứ cho nhau trong tình yêu của Thiên
Chúa.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
17. Ơn gọi nên Thánh
Hôm nay cùng với Giáo hội, chúng ta long trọng cử hành Thánh lễ mừng kính Các Thánh Nam Nữ.
Theo lời Sách Khải Huyền, Các Thánh trên trời là "một đoàn người đông
đúc, không sao đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước, mọi ngôn ngữ". Họ đang
chúc tụng Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai và Con Chiên, là Chúa Giêsu
Kitô Đấng Cứu độ chúng ta.
1. Các Thánh Nam Nữ là ai?
Các Thánh Nam Nữ là những phúc nhân (chữ của Đức Cha Bùi Văn Đọc),
những người đang hưởng hạnh phúc đời đời bên cạnh Thiên Chúa. Các Ngài
là tất cả những người đã chết trong ơn nghĩa Chúa, đang thuộc trọn về
Chúa. Các Ngài sung sướng, vui mừng vì thấy mình được Thiên Chúa yêu
thương, được thấy Thiên Chúa đẹp đẽ.
Các Thánh Nam Nữ đông vô kể "Tôi lại thấy một Thiên Thần khác, mang
ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên... Rồi tôi nghe
nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn
người được đóng ấn" (Kh 7,2-4). Con số "một trăm bốn mươn bốn ngàn" chỉ
là một cách nói để bày tỏ sự viên mãn và hoàn hảo của dân Thiên Chúa,
dân mới được Thiên Chúa cứu chuộc, thuộc về Thiên Chúa, chứ không thể
hiểu theo nghĩa số học, số lượng. "Một trăm bốn mươn bốn ngàn" trong
Khải huyền là một con số tượng trưng, một con số tròn đầy ( 12 x 12 =
144). Số kẻ được niêm ấn là tròn đầy.Và điều tuyệt diệu là trong thị
kiến Khải huyền chi tộc nào cũng có số người được niêm ấn như nhau: 12
ngàn thuộc chi tộc Giuđa,12 ngàn thuộc chi tộc Ruben,12 ngàn thuộc chi
tộc Gad...không tên họ nào lấn lướt, không tên họ bị loại trừ. Các chi
tộc đều được Thiên Chúa kêu mời đầy đủ. Bởi ngay sau đó, thánh Gioan
viết tiếp: "tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm
nỗi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước
ngai Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành thiên tuế" (Kh 7,4).
Một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi. Đó là cộng đoàn các
Thánh Nam Nữ. Quả là đang trở thành hiện thực nơi Lời Chúa Giêsu đã thốt
lên khi gặp được lòng tin của viên bách quản "Ta bảo thật các
ngươi,nhiều kẻ tự phương đông,phương đoài mà đến và được dự tiệc cùng
Abraham,Isaac và Giacop trong nước trời". Chính vì thế, ngoài những vị
thánh mà Giáo Hội đã xác định được và đã kính nhớ các Ngài vào các ngày
lễ trong năm, Giáo Hội còn dành ra một ngày lễ đặc biệt để long trọng
kính nhớ hằng hà sa số các vị thánh mà Giáo Hội chưa hoặc không thể xác
định được, gọi chung là Các Thánh Nam Nữ. Chúng ta mững lễ các Thánh Nam
Nữ là mừng Nhà Cha rộng lớn như lòng Thiên Chúa, đủ chổ cho mọi dân
tộc.
2. Con đường nên thánh
Thánh Gioan viết: "Một trong các kỳ mục lên tiếng hỏi tôi: những
người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu tới? Tôi trả lời: thưa Ngài,
Ngài biết đó. Vị ấy bảo tôi: Họ là những người đã đến, sau khi trải qua
cơn thử thách lớn lao" (Kh7,13).Thánh Tông đồ đã nhìn thấy họ trên
Thiên đàng, tràn đầy hân hoan, ca hát chúc tụng Thiên Chúa : "Họ đã giặt
sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên" (Kh 7,14). Quả thực,
việc thanh tẩy tội lỗi chỉ thành tựu nhờ máu Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế.
Tuy nhiên, các Thánh đã phải trải qua cuộc gian truân lớn. Vì tình yêu
Đức Kitô, tất cả đã phải giao chiến với quyền lực của sự dữ, với muôn
nghìn đau khổ và khó nhọc. Nhưng thánh Gioan cũng giới thiệu phần thưởng
lớn lao của các Ngài : "Họ đêm ngày thờ phượng trong đền thờ của Thiên
Chúa... Họ sẽ không còn phải đói, phải khát, không còn bị ánh nắng mặt
trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự ở giữa
ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh" (Kh 7,15-17).
Các Thánh "đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên".
Như thế, họ không phải là những con người hoàn hảo, thánh thiện,tinh
tuyền,không vướng mắc lỗi lầm thiếu sót hay tật xấu nào. Không ai bẩm
sinh đã là Thánh. Các Thánh cũng không phải là những siêu nhân, không là
những con người phi thường vượt trên đám đông nhân loại.Các Thánh càng
không phải là những người bất thường kỳ dị. Các Thánh là những con người
bình thường như mọi người,nhưng các Ngài đã sống những điều tầm thường
một cách phi thường. Nhờ Ơn Chúa trợ lực, các Ngài đã cố gắng tiến tới
mẫu mực của mình là Chúa Kitô. Bí quyết nên thánh của các Ngài là sống
Tám Mối Phúc Thật,là đón nhận ân sủng của Chúa vô điều kiện,hợp tác với
ân sủng đó,vâng theo ý Chúa,chọn điều thiện,luyện tập nhân đức.
Có rất nhiều vị thánh bởi vì có rất nhiều cách để nên thánh, nhiều
con đường nên thánh. Trong bài Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu đã trình
bày tám con đường nên thánh, tám con đường để được hạnh phúc đích thực.
Có người nên thánh, vì sống khó nghèo, không ham mê của cải trần gian,
chỉ ham mê một điều là thích được Chúa yêu và đáp trả lại tình yêu của
Chúa. Có người nên thánh, vì sống hiền lành, tử tế với mọi người, nhịn
nhục, yêu thương mọi người không trừ một ai. Có người nên thánh, vì đã
phải chịu đau khổ nhiều mà không ngã lòng thất vọng, còn biết dùng những
đau khổ của mình, kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, dâng lên cho
Thiên Chúa làm của lễ. Có người nên thánh, vì có lòng nhân từ quảng đại
và hay tha thứ, có lòng xót thương xót đối với những người đau khổ tinh
thần hay thể xác. Có người nên thánh, vì khao khát Chúa, muốn sống công
chính đẹp lòng Chúa. Có người nên thánh vì tâm hồn trong sạch, không
vương vấn tội lỗi trần gian, không bị các thứ đam mê xác thịt làm chủ.
Có người nên thánh vì hiếu hòa, không gây hấn với ai, mà còn dấn thân
hoà giải những người khác, đem lại bình an cho mọi người. Có người nên
thánh, vì sống tốt, sống ngay thẳng, trung thành với Chúa và giáo huấn
của Người, dù phải bách hại khổ sở, có khi còn bị giết chết nữa. Mọi
cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có
tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân
chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm,
quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những
người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng
đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là chủng sinh, là
linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân
lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những
nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui
cho mọi người.(ĐGM Bùi Văn Đọc).
Tuy có nhiều cách thức nên thánh, có vị nên thánh trong bậc tu trì,
có vị lại nên thánh trong đời sống gia đình, có vị nên thánh bằng các
hoạt động tông đồ năng nổ, có vị nên thánh trong một đời sống âm thầm,
lặng lẽ, có vị nên thánh nơi pháp trường đẫm máu, có vị nên thánh chốn
sa mạc cô liêu... Nhưng tựu trung, tất cả các thánh đã gặp nhau trên một
con đường. Đó là con đường hẹp, con đường thập giá, Chúa Giêsu đã đi
"qua đau khổ đến vinh quang".
"Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống
Mùa gặt mai sau khấp khởi mừng".
Chỉ mình Thiên Chúa mới là Đấng Thánh, còn con người được mời gọi trở
nên thánh khi tham dự vào sự thánh thiện duy nhất của Thiên Chúa. Các
Thánh được tuyên phong lên bậc hiển thánh bởi vì cuộc đời các ngài là
một tấm gương phản chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa. Ai giống Đức
Kitô, người ấy trở nên thánh thiện. Ai thực hiện những giá trị Tin mừng,
người ấy trở nên thánh thiện. Một sự thánh thiện như thế rất có thể
được thực hiện trong một đời sống rất bình thường. Giáo hội hướng tới
một sự thánh thiện tỏa rộng, một hình thức thánh thiện vừa bình dân, vừa
gần gũi lại vừa có thể được thực hiện cho hết mọi người, thay vì một
hình thức thánh thiện chọn lọc, dành riêng cho một thiểu số. Đó là thành
quả Ơn Cứu Độ của Chúa Kitô. Giáo Hội không phong thánh cốt để mà thờ,
nhưng để tôn vinh Thiên Chúa, để khuyến khích chúng ta noi theo và bắt
chước.
Con đường nên thánh được Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là con đường Tám Mối Phúc Thật.
Sống các Mối Phúc Thật, chúng ta lớn lên trên đường thiêng liêng và
trở nên cao lớn trước mặt Chúa. Năm Phụng vụ, Giáo hội tôn kính nhiều vị
Thánh có tên tuổi. Ngày lễ các Thánh Nam Nữ, Dân Chúa tham dự thánh lễ
để tôn kính tất cả, trong đó có ông bà cha mẹ, những người thân yêu đã
ra đi trước chúng ta và đã trở nên thánh nhân, mặc dù chưa được Giáo hội
tuyên phong.
Trở nên giống Chúa Giêsu, trở nên trọn lành như Chúa Cha ở trên trời,
trở nên thánh, đó là ơn gọi của mọi người Kitô hữu chúng ta và đó cũng
là sứ điệp Chúa Giêsu và Giáo Hội muốn nhắn gửi qua ngày lễ kính Các
Thánh Nam Nữ.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
TMSS sưu tầm
TMSS sưu tầm