TMSS: Cảm ơn luật sư Ngô Ngọc Trai đã nói hộ chúng tôi. Cảm ơn luật sư đã không ngưng đấu tranh cho sự thật và công lý. Đấu tranh cho sự thật và công lý bằng chính chuyên môn của mình cũng chính là đấu tranh cho quyền sống chính đáng của người dân Việt Nam. Ước mong những gì luật sư phân tích ở đây sẽ sớm thành hiện thực tại Việt Nam ta.
---------------------------------
Vấn nạn bức cung nhục hình ở VN
Luật sư Ngô Ngọc Trai
Ông Nguyễn Thanh Chấn đã phải chịu oan ức trong nhiều năm |
Trong
vụ án oan của ông Nguyễn Thanh Chấn, ông này đã phải khai nhận một tội
mà mình không hề phạm. Vậy ông Chấn có phải đã bị bức cung nhục hình hay
không, và có câu hỏi là lấy đâu ra chứng cứ chứng minh hành vi bức cung
nhục hình?
Quy định của luật
Hiện
chưa có con số thống kê cụ thể nhưng có thể hình dung số lượng các vụ
án có tình trạng bức cung nhục hình ở Việt Nam là vô cùng lớn. Số trường
hợp bị nhục hình thì không dám chắc nhưng nạn bức cung có khả năng xảy
ra ở 100% các vụ án.
Vấn nạn bức cung phổ biến
lớn rộng như thế không phải do một vài sai phạm nghiệp vụ mà nó có
nguyên nhân từ chính sự cho phép của luật. Điều này có vẻ vô lý, luật
nào cho phép được bức cung? Nhưng sự thực đúng là như thế.
Bộ
Luật Tố tụng Hình sự đã quy định nghiêm cấm mọi hình thức truy bức nhục
hình, tức là chỉ chấp nhận những lời khai tự nguyện. Nếu bị cáo không
tự nguyện khai báo thì thôi, không được sử dụng bất kỳ thủ pháp nghiệp
vụ nào buộc người ta phải khai, vì luật cấm mọi hình thức truy bức.
Nhưng
Bộ Luật Hình sự lại có điều luật xử phạt tù đối với hành vi từ chối
khai báo, theo đó Điều 308 quy định về tội từ chối khai báo đã viết
rằng: "Người nào từ chối khai báo hoặc trốn tránh việc khai báo mà không
có lý do chính đáng thì có thể bị phạt tù từ ba tháng đến một năm".
Lý
do chính đáng ở đây là gì? Để tự bảo vệ tính mệnh và tự do của mình có
phải là một lý do chính đáng không? Trường hợp nào mà bị cáo chẳng có lý
do chính đáng là tự bảo vệ mình? Như thế thì trường hợp nào bị cáo cũng
phải có quyền từ chối khai báo chứ?
Tại sao bị
cáo lại phải nói ra những điều mà nó chính là chứng cứ để người ta kết
tội lại mình? Có ai là người tự nguyện trong việc này?
Dọa nạt bỏ tù người ta nếu không chịu tự nguyện khai báo, đó chẳng phải là một hình thức bức cung thì là gì?
Như
thế, chính quy định của luật đã tạo ra tình trạng bức cung nhục hình.
Quy định như thế đã tạo cho điều tra viên tính hợp pháp về mặt luật pháp
để bức cung, và giải thoát cho họ mặc cảm tội lỗi về mặt đạo đức nếu
có. Và đó là lý do vì sao vấn nạn bức cung phổ biến ở hầu như 100% các
vụ án.
Vấn đề của năng lực
Bị cáo Dương Chí Dũng cũng từng tố cáo trước Tòa mình bị bức cung
Quy định của luật lệch lạc như thế không phải nhà làm luật không biết, mà họ có lý do để duy trì điểm mâu thuẫn vô lý đó.
Sự
vô lý của luật thực ra là hệ quả phản ánh thực tế năng lực thực thi
pháp luật của hệ thống tư pháp Việt Nam. Về mặt nghiệp vụ nếu không buộc
được bị can khai báo thì điều tra viên không có đủ khả năng để xét đoán
sự việc và điều tra nghi phạm.
Hoạt động điều
tra là lần theo manh mối dấu vết tội phạm, mà muốn làm được điều này thì
phải có khả năng xét đoán, ngoài ra cần có trang thiết bị máy móc hiện
đại phục vụ cho công tác điều tra.
Nhưng ở Việt
Nam thì cả hai vấn đề này đều thiếu, điều tra viên thì kém năng lực, thế
mạnh chủ yếu dựa vào việc áp chế người khác, thể hiện qua việc bắt bớ
giam cầm, bức cung nhục hình buộc phải khai nhận. Về mặt trang thiết bị
máy móc thì có lẽ cũng còn thiếu sự đầu tư nhất định.
Vì
tình hình thực tế như vậy cho nên khi soạn luật người ta đã lần lựa đưa
vào hay bỏ ra các quy định như thế nào để phù hợp với năng lực thực tế
của cơ quan điều tra.
Tức là nhà làm luật đã không được tự do thoải mái đứng hẳn về phía các chế định pháp lý văn minh tiến bộ.
Hệ quả là có những quy định luật mang tính nửa vời, vừa tỏ ra tiến bộ, nhưng xét kỹ lại là lổng hổng.
Tại
sao luật không quy định bị cáo được quyền giữ im lặng và chỉ đồng ý
khai báo khi có sự tham gia của luật sư bào chữa, như vậy sẽ đảm bảo
tiệt nọc tình trạng bức cung nhục hình? Mà lại chỉ quy định nghiêm cấm
mọi hình thức truy bức nhục hình, trong khi cả hai lối quy định cũng chỉ
nhằm một mục đích là đảm bảo những lời khai phải là tự nguyện?
Hệ thống tư pháp Việt Nam có nhiều lỗ hổng có thể bị lợi dụng?
Đây
là một chế định pháp lý văn minh tiến bộ để bảo vệ các quyền tự do dân
chủ của công dân, không thể không đưa vào luật. Nhưng các nhà làm luật
đã sử dụng xảo thuật để vừa tỏ ra tôn trọng chân giá trị vừa tìm cách
đáp ứng đòi hỏi thực tế của hoạt động điều tra trong khi giải thoát cho
mình khỏi mặc cảm tội lỗi ở khâu làm luật.
Các
nhà soạn luật hẳn đã tự biện minh rằng, chúng tôi đã quy định nghiêm cấm
mọi hình thức bức cung nhục hình rồi, còn thực hiện như thế nào là do
thực tế và đó là trách nhiệm của cơ quan điều tra.
Họ
đã bỏ qua tình hình thực tế về điều kiện giam giữ người và quy trình
làm việc không bị giám sát của cơ quan điều tra. Thực tế như vậy cộng
hưởng với quy định lập lờ nửa vời của luật đã dẫn đến vấn nạn bức cung
nhục hình phổ biến rộng khắp.
Cho nên vấn nạn bức cung nhục hình phải giải quyết ở khâu soạn luật chứ không chỉ giải quyết ở khâu thực thi pháp luật.
Các
nhà soạn luật cũng tìm cách để xoa dịu hậu quả của tình trạng bức cung
nhục hình bằng cách đưa vào chế định rằng nếu thành khẩn khai báo và ăn
năn hối cải sẽ được đánh giá là tình tiết giảm nhẹ để giảm mức án cho bị
cáo.
Việc này cũng giúp lấp liếm đi tình trạng
bức cung của cơ quan điều tra. Có những vụ án bị cáo ban đầu chối bay
chối biến, sau khi bị bức cung nhục hình thì đã khai nhận hành vi phạm
tội, đến khi xét xử lại được đánh giá là thành khẩn khai báo và được
giảm án.
Biết bao nhiêu vụ án đã như vậy, nhưng chẳng mấy ai thắc mắc là vì đâu bị cáo thay đổi lời khai từ chối tội sang nhận tội.
Vấn đề niềm tin
Ngô Thanh Kiều là nạn nhân của nạn bức cung nhục hìnhcủa công an
Vấn
nạn bức cung nhục hình không chỉ phản ánh năng lực trình độ của cán bộ
điều tra mà nó còn phản ánh nhận thức lệch lạc của những người giải
quyết án, bao gồm cả kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư.
Ở
Việt Nam lâu nay người ta đặt rất nặng vấn đề chứng cứ và yêu cầu việc
xử án phải theo chứng cứ. Nhận thức này xem qua thì cho đó là lối làm
việc khách quan khoa học đảm bảo tính chắc chắn và thực ra thì việc đòi
hỏi phải có chứng cứ là tốt và đương nhiên.
Nhưng nó sẽ là sai lầm nếu coi chứng cứ là vấn đề duy nhất khi giải quyết một vụ án.
Trong
vụ oan sai của ông Nguyễn Thanh Chấn, khi nêu ra vấn đề cần xử lý các
điều tra viên về tội bức cung nhục hình thì có ý kiến thắc mắc là lấy
đâu ra chứng cứ chứng minh việc bức cung nhục hình?
Đây
thực ra là một nhận thức sai lệch nghiêm trọng của không chỉ người dân
mà cả các chuyên gia về luật, mà từ đó góp phần tạo nên vấn nạn bức cung
nhục hình.
Chúng ta biết rằng chứng cứ nhằm để
chứng minh, chứng minh nhằm để thuyết phục, vậy nếu sự việc đã đủ sức
thuyết phục rồi, sự thật đã hiển nhiên rồi thì không cần phải chứng minh
nữa và không cần chứng cứ.
Ông Chấn nếu không
bị bức cung nhục hình thì tại sao lại nhận một tội mà mình không hề
phạm? Mà cái tội đó nào có nhẹ nhàng gì, nếu bố ông Chấn không phải là
liệt sĩ nên ông Chấn được giảm án thì có lẽ ông đã bị tử hình rồi.
Việc ông Chấn bị bức cung nhục hình là điều không còn có thể tranh cãi nữa.
Mặc dù không hề có chứng cứ nhưng chúng ta có thể xác quyết bằng niềm tin.
Niềm tin nội tâm
Nguyễn Thân Thảo Thành nhận mức án nhẹ trong vụ án làm chết Ngô Thanh Kiều
Trong
lĩnh vực tư pháp có một khái niệm là “niềm tin nội tâm”. Niềm tin này
là cơ sở xét đoán của mọi người tham gia vào hoạt động xét xử. Cả điều
tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán, luật sư đều phải dựa vào niềm tin
nội tâm để xét đoán sự việc.
Bởi vì tất cả những
người này dù thế nào đi nữa thì họ cũng không phải là bị cáo, họ không
thể chắc chắn bị cáo có phải là hung thủ hay không. Cho nên khi quy kết
buộc tội hay bào chữa gỡ tội chỉ có thể dựa vào niềm tin nội tâm.
Niềm
tin nội tâm được tạo thành từ những hiểu biết về vụ án thông qua các
tài liệu chứng cứ, qua nghiên cứu hiện trường, hồ sơ vụ án, thông tin về
nhân thân bị cáo …
Ở Việt Nam lâu nay, khi xét
xử người ta ít sử dụng đến niềm tin nội tâm, và khái niệm niềm tin nội
tâm chỉ nằm gọn hạn hẹp trong các nghiên cứu về học thuật. Lý do có lẽ
vì niềm tin là thành tố có tính tôn giáo trong khi chính thể hiện tại là
vô thần.
Thay vì xét xử dựa vào niềm tin nội
tâm trong đó chứng cứ chỉ là một thành tố tạo thành (ngoài chứng cứ còn
cần trình độ kinh nghiệm để tạo nên niềm tin xét đoán), việc xét xử hiện
nay đặt nặng vào chứng cứ, chứng cứ thế nào không quan trọng, miễn là
phải có chứng cứ.
Nếu giải quyết án cứ phải có
chứng cứ rõ ràng thì chỉ cần một người phán quyết là đủ, cần gì phải hội
đồng nhiều người, và cũng chỉ cần một lần xét xử là được cần gì phải
qua hai cấp?
Cái lối xét xử đặt nặng chứng cứ mà
không dựa vào niềm tin nội tâm sẽ không lý giải được là dựa vào đâu mà
người ta có thể tuyên án trong khi vụ án có cả chứng cứ kết tội và chứng
cứ gỡ tội.
Vì nhận thức như thế nên trong lối
làm việc người ta phải tìm ra bằng được chứng cứ. Luật cũng phụ họa cho
việc này khi bỏ qua đòi hỏi về tính khách quan đã quy định lời khai của
bị can cũng là chứng cứ.
Và khi gặp khó khăn trong các lối điều tra khác thì dễ dàng nhất là tiến hành bắt giam bức cung buộc bị can phải khai báo.
Đó là lý do vì sao tình trạng bức cung nhục hình tràn lan như hiện nay.
N.N.T
0 Nhận xét