Home » Archives for 2015
Câu hỏi về đạo đức phá thai
07:13 |
Đây là một đề tài gây tranh cãi và cảm xúc. Các trang báo mạng và diễn đàn ít khi nào đề cập đến. Khi đề cập đến chỉ nói về hậu quả của hành động đó. Nhưng ít khi nào vấn đề đạo đức được hỏi.
----------
Tác giả: Dennis Prager, The most important question about abortion?, Prager University
Dịch giả: Ku Búa
Giới thiệu
''Phá thai đúng hay là sai?'' Đây là một câu hỏi lớn đang bị lạc trong một cuộc tranh luận xã hội mà chủ yếu tập trung vào cơ sở pháp lý. Nhưng, thật sự mà nói, việc hành động đó đúng hay sai mới là câu hỏi quan trọng nhất về phá thai.
Đề tài nhạy cảm
Chúng ta hãy nói về một trong những đề tài gây cảm xúc nhiều nhất có thể -- phá thai -- nhưng trong một cách không cảm xúc. Hơn nữa, cũng đừng nên đụng vào câu hỏi đã chiếm đa phần thời gian của các cuộc thảo luận về đề tài này, đó là – phá thai có nên được hợp pháp hay bất hợp pháp.
Ở đây, trong bài viết này, chỉ có duy nhất một câu hỏi đạo đức: "Việc kết thúc mạng sống của một bào thai có đạo đức không?"
Hãy bắt đầu với câu hỏi này: bào thai (thai nhi) con người có bất kỳ giá trị và quyền lợi gì hay không?
Hiện tại, việc bào thai là một mạng người là một thực tế khoa học. Những ai cho rằng bào thai không có quyền lợi cũng như đang rằng bào thai không phải là một con người. Những nếu bạn tin vào điều này, thì cũng không có nghĩa rằng bào thai không có giá trị hoặc quyền lợi.
Mạng sống và đạo đức
Có rất nhiều sinh vật sống không phải là con người nhưng có cả giá trị lẫn quyền lợi: chó và các con vật khác, để ví dụ. Và đó là Lập Luận Đạo Đức Thứ Nhất: một sinh vật còn sống không cần phải là một con người để có giá trị đạo đức và quyền lợi.
Khi bị thách thức với lập luận này, mọi người thường thay đổi đề tài và nói về những quyền lợi của người mẹ -- nghĩa là quyền của người mẹ để kết thúc mạng sống bào thai của cô ấy trong bất cứ hoàn cảnh nào, vì bất cứ lý do nào, vào bất cứ thời điểm nào trong thời gian mang thai của cô ta.
Điều đó có đạo đức không? Nếu chúng ta tin rằng bào thai không có giá trị thì không có gì để nói nữa. Nhưng trong đa số trường hợp, hầu hết tất cả mọi người đều tin rằng bào thai có giá trị vô hạn và có quyền lợi tuyệt đối để sống.
Người mẹ, bào thai và quyền lợi
Khi nào? Khi một phụ nữ mang thai muốn sinh con. Khi đó, xã hội -- và luật pháp của xã hội đó -- cho rằng bào thai có giá trị đến độ nếu một người nào đó đã giết bào thai đó, người đó có thể sẽ bị truy tố vì tội giết người. Chỉ trong trường hợp một người phụ nữ mang thai không muốn sinh con, thì lúc đó nhiều người mới coi bào thai đó không có giá trị. Hãy suy nghĩ, điều đó có hợp lý không?
Dường như là không. Bào thai có giá trị hoặc không có giá trị, chỉ thế thôi. Và đây là Lập Luận Đạo Đức Thứ Hai : dựa trên cơ sở gì chỉ người mẹ có quyền tự quyết định giá trị của bào thai?
Chúng ta chắc chắn không áp dụng lập luận đó đối với một em bé mới sinh. Xã hội, chứ không phải người mẹ hoặc người cha, mới quyết định việc một đứa trẻ mới sinh đó có giá trị và quyền để sống hay không.
Vì lẽ đó, câu hỏi ở đây là: vì sao lập luận đó lại khác trước khi một con người được sinh ra? Tại sao một con người, một người mẹ, có thể quyết định việc đứa trẻ (bào thai) đó có quyền để sống hay không?
Cơ thể người phụ nữ và bào thai
Người ta phản bác rằng người phụ nữ có quyền để "kiểm soát cơ thể của cô ta." Đúng, điều đó rất đúng. Nhưng vấn đề ở đây là, bào thai đó không phải là ''cơ thể của cô ta'', mà nằm trong người cô ta. Đó là một cơ thể riêng biệt. Và đó là Lập Luận Thứ Ba. Không có ai hỏi một người phụ nữ mang thai, ''Cơ thể của cô thế nào?" khi họ hỏi về bào thai. Người ta chỉ hỏi, ''Em bé thế nào?"
Phá thai và giết người
Lập Luận Đạo Đức Thứ Tư: hầu hết tất cả mọi người đồng ý rằng khi em bé đó được sinh ra từ bụng mẹ, việc giết chết nó là ám sát, là một hành động giết người. Nhưng việc cố tình giết chết nó vài tháng trước khi nó được sinh ra thì được coi rằng không có vấn đề gì về mặt đạo đức hơn việc một chiếc răng được nhổ ra.Điều đó làm sao có lý được?
Phá thai và đạo đức
Và cuối cùng, Lập Luận Đạo Đức Thứ Năm: Có vài trường hợp mà hầu hết mọi người -- kể cả những người ủng hộ quyền quyết định của người mẹ -- sẽ thừa nhận rằng việc phá thai có thể vô đạo đức?
Để ví dụ: việc hủy một bào thai nữ chỉ vì người mẹ ưa con trai hơn con gái – như đã xảy ra hàng triệu lần ở Trung Quốc và những nơi khác.
Và một ví dụ nữa: Cứ cho rằng khoa học phát triển một phương pháp xác định việc một đứa trẻ trong bụng mẹ lưỡng tính hoặc đồng tính. Thì liệu việc giết chết một bào thai đồng tính bởi vì người mẹ không muốn một đứa con đồng tính, điều đó có đạo đức hay không?
Người ta có thể đưa ra những lý do thiết thực để kết tội tất cả trường hợp phá thai. Người ta có thể có những quan điểm khác biệt về việc sự sống bắt đầu từ lúc nào; và về mặt đạo đức của việc phá thai trong trường hợp hãm hiếp hoặc loạn luân. Nhưng đối với đại đa số trường hợp phá thai – nghĩa là các người phụ nữ khỏe mạnh phá hủy một bào thai khỏe mạnh -- hãy nhìn rõ ràng. Đa số các trường hợp phá thai đó vô đạo đức.
Một xã hội tốt có thể tồn tại với việc con người làm những việc vô đạo đức. Nhưng một xã hội tốt không thể tồn tại nếu nó gọi những việc vô đạo đức là những việc đạo đức.
Tôi là Dennis Prager, cho Prager University.
----------
Dẫn lại theo TYVHV blog
Hãy Trút Cả Cho Người
00:44 |
Hãy Trút Cả Cho Người
Lời chúa trong thư thứ nhất của thánh Phê-rô tông đồ
Thưa anh em, anh em hãy lấy đức khiêm
nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng
ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay
uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người
đã định.Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em. Anh
em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như
sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong
đức tin mà chống cự, vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian đều
trải qua cùng một loại thống khổ như thế. Thiên Chúa là nguồn mọi ân
sủng, cũng là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người
trong Đức Ki-tô. Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính
Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và
kiên cường. Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn thuở muôn
đời. A-men.
Suy niệm
Khiêm nhường – từ ngữ dường
như quá quen thuộc nhưng cũng không dễ sống. Đôi khi sự khiêm nhường
lại là lá bùa che chở và làm bệ đỡ cho sự tự cao của con người. Đó là
lý do mà chúng ta được nghe câu nói: một lầm khiêm tốn bằng bốn lần
tự cao.
Hôm nay chúng ta được nghe lại lời
khuyến dụ của thánh Phê-rô về việc sống khiêm nhường. Thánh nhân mời
gọi chúng ta hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau. Sự khiêm
nhường thánh nhân chỉ không phải là sự tự hạ theo cách của con người
nhưng đó là sự phó thác vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Người
nói:
“Anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên
Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định. Mọi âu lo,
hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em.”
Sự khiêm nhường này khác với cách nghĩ
của con người. Sự khiêm nhường của con người là để được người khác chấp
nhận và được một danh dự nào đó có thể cảm nhận được. Sự khiêm nhường
ấy là cần thiết song vẫn chưa đủ đối với tất cả những con người tin,
đặc biệt là mỗi tín hữu Ki-tô. Sự khiêm nhường ấy là sự chân nhận
những giá trị mình có và sự hữu hạn yếu đuối của con người trước mặt
Thiên Chúa. Một sự phó thác và tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa. Như
thế, chúng ta trở nên những người nghèo của Thiên Chúa. Người nghèo
của Chúa là người trao phó toàn vẹn con người mình cho Chúa, tất cả
những lo âu, yếu đuối và thất vọng cũng như hạnh phúc trong tay Chúa.
Người ngheo ấy ý thức rằng, mọi sự chúng ta có thể chiến thắng được là
nhờ ơn Chúa, nhờ đức tin. Người nghèo như thế là những con người của
Đức tin, những con người luôn ý thức có Chúa đồng hành và dẫn dắt cuộc
đời mình và tất cả những ai bên cạnh mình. Chính trong niềm tin ấy mà
họ cũng hy vọng sự thay đổi và trở nên tốt đẹp hơn nơi những con người
chưa tốt sống quanh mình. Người ấy lại một lần nữa trao tất cả cho
Chúa, không chỉ có chính mình những tất cả những ai mình liên hệ. Sống
như thế là sống tỉnh thức- sống tỉnh thức là sống có Chúa trong mình-
có Chúa trong mình chúng ta có thể chiến thắng được mọi mưu trước cám
dỗ cho dù ma quỷ, thù địch như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn
xé. Người ấy tin ân sủng Chúa sẽ giúp mình chiến thắng. Chính vì thế,
họ sẽ luôn dâng Chúa lời chúc tụng tôn vinh trong mọi hoàn cảnh cuộc
đời.
Thật là ý nghĩa khi trong mùa chay
chúng ta được nghe lại lời khuyến dụ này của thánh Phê-rô, cũng như hôm
nay chúng ta đến đây khấn thánh Martino. Quả thực, thánh Martino rất
khiêm nhường và nhẫn nại với mọi người. Người không phải không có khổ
đau nhưng luôn tin tưởng và phó thác vào Chúa của mình cũng là cứu Chúa
mà chúng ta tin tưởng hôm nay. Chính sự tín thác ấy khiến người có
thể làm được những chuyện phi thường mà trí năng con người không thể
hiểu được. Điều ấy, chúng ta cảm nghiệm được ngay trong hiện tại khi
tin nhận sức mạnh chuyển cầu của ngài trước tòa Chúa. Trong tâm tình
đó, chúng ta cùng dâng lên Chúa những ý nguyện chân thành.
Lời cầu
Lạy thánh Martino, cuộc sống chúng con với biết bào thăng trầm, biết
bao ngã quỵ . Nhiều khi tưởng chừng chúng con không trỗi dậy được
nữa. Xin cho chúng con luôn biết tin tưởng và phó thác trọn vẹn trong
tay Chúa vì tin rằng Chúa sẽ luôn ra tay hành động. Xin hãy đến thì
thầm và nhắn nhủ con: con ơi, hãy đứng dạy, có ta ở đây bên cạnh con,
hãy giơ tay ra để ta và mẹ Maria yêu mến của con dẫn dắt con đến với
Chúa Giê-su, con yêu của mẹ. Nơi ấy, con sẽ kín múc được nguồn ân sủng
dồi dào là tình thương và sức mạnh của Chúa, một sức mạnh giúp con
vượt thắng tất cả và tìm ra được con đường tuyệt hảo mà Chúa chờ mong
nơi con. Tất cả chỉ chờ mong con thưa lên: lạy Chúa, con ký thác đời
con và tất cả những mọi người trong tay Chúa.
Lạy thánh Martio, con biết rằng, Chúa không muốn làm gì nếu không
có sự tự nguyện và cộng tác của con. Xin hãy cầu cùng Chúa cho chúng
con khám phá Thiên ý và mau mắn đáp trả trong tin yêu.
Giờ đây, chúng con cũng xin dâng tất cả những ai đang hiện diện
nơi đây và những người thân yêu cảu họ, cùng tất cả những ai khổ đau
lên người. Xin hãy dẫn tất cả đến với Chúa. Amen
TỰ DO ĐỂ YÊU THƯƠNG
16:49 |
Tin mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca ( Lc
21, 25-28)
25 “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các
vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét.
26 Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống
địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. 27 Bấy giờ
thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà
đến. 28 Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng
và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.”
Suy niệm
Chúng ta đang sống trong những ngày cuối của năm
phụng vụ. Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy cảnh tượng của ngày sau cùng,
ngày chung thẩm, ngày Chúa quang lâm.
Ngày Chúa đến không phải là một điều gì đó quá đỗi bất
ngờ nhưng luôn có sự báo trước. Kẻ không biết thường lo lắng bất an. Kẻ biết và
đọc ra dấu chỉ báo trước ngày chung thẩm sẽ rất đỗi vui mừng và tự do. Vì là
người vui mừng và tự do nên họ sẽ đứng thẳng và ngẩng cao đầu. Đó là tư thế của
con người luôn sẵn sàng, tư thế của người chiến thắng. Đối với chúng ta, tư thế
của kẻ chiến thắng chính là tâm thế của kẻ trung kiên đi đến cùng con đường đức
tin, con đường cứu chuộc. Chiến thắng của chúng ta chính là được cứu chuộc hay
nói cách khác, chúng ta có Thiên Chúa nơi mình, trong mình nên chúng ta là
những con người tự do.
Thánh Martino, đấng mà hôm nay chúng ta tập trung nơi
đây để cầu khẩn cũng là con người tự do như thế. Martino luôn đủ tự do để yêu
thương. Thứ tự do của tình yêu đã làm cho người hóa ra không và gần gũi với con
người và vạn vật. Đối với người, con người là anh em, vạn vật là người bạn thân
thương và Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Chính thứ tự do của tình yêu mà thánh
nhân trải nghiệm giúp cho ngài, ngoài việc chuyện trò, bày tỏ tình yêu đối với
Thiên Chúa, lòng thương yêu với con người còn có khả năng yêu thương và thấu
cảm được sự gần gũi của vạn vật. Ước gì chúng ta có được tự do trong tình yêu
của Martino, để tâm hồn và thân xác ta luôn được tự do và bình an trong mọi
cảnh huống cuộc đời.
Lạy thánh Martino, xin cầu cho chúng con là những
người lữ khách về nhà Cha. Xin hãy giúp chúng con luôn có tự do để yêu thương
anh chị em, đặc biệt những người anh em xung quanh mình. Giờ đây, xin hãy
thương nhận lời chúng con nguyện xin hiệp với những anh em đã đến với ngài, tại
nơi đây trong tuần qua:
03.11.2015 - St Martinô Porres
07:03 |
03.11.2015
St. Martinô Porres, tu sĩ.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo thánh Luca Lc, 14,12-14.
Rồi Đức Giêsu nói với kẻ đã mời Người rằng: " Khi nào các ông đãi
khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc
láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ
rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật,
què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có
phúc: vì ông sẽ được đáp lễ trong ngày các kẻ lành sống lại. " Đó là Lời
Chúa.
Suy Niệm
Trong đời thường, mấy ai cho đi mà không cần lấy lại? Người ta thường tính toán rất kỹ khi đến với nhau. " hòn đất ném đi, hòn chì ném lại". Cho đi mà không được lại thì tình thân dần dần sẽ phai nhạt, vì người ta chỉ đến với nhau khi thấy có lợi cho chính mình.
Ngược lại, Đức Giêsu dạy: thi ân cho người mà không cần đáp trả. Làm ơn cho người không có khả năng đền đáp, cho bất cứ người nào cần, chứ không " lựa mặt ". Chúng ta đã chọn lối sống nào của người đời hay của Đức Giêsu ?
Lạy Chúa Giêsu, chúng con đã sống với nhau như những người vô đạo. Chúng con tính toán, so đo, can nhắc lợi hại, sợ thua thiệt ... Cách sống của chúng con như thể không hề biết đến giáo lý yêu thương vị tha của Chúa. Giờ đây, chúng con xin Chúa thứ lỗi cho chúng con, xin Chúa giúp sức cho chúng con để chúng con can đảm và luôn nhớ thực hành những gì Chúa dạy chúng con hôm nay. Amen
St Martinô - Thơ
06:52 |
Lớn lên trong cảnh cơ hàn
Sống trong dư luận, lời bàn thế gian
Mở lòng đón nhận muôn dân
Học theo Thiên Chúa quên thân, bỏ mình
Gửi dân muôn vạn tâm tình
Ơn Thiên Chúa xuống ngập mình Thánh Nhân
Phép lạ đã quá nhiều lần
Bánh từ số ít được tăng gấp ngàn
Mùng ba mười một rõ ràng
Thiên Thần cất tiếng ngân vang đón mừng
Martinô vị Thánh lẫy lừng
Một lòng yếu mến tụng xưng muôn đời
Hôm nay bổn mạng Thánh rồi
Xin thương ban những một đôi ơn lành
Giúp người chọn Thánh mà theo
Được lòng yêu mến, khó nghèo hy sinh.
Sống trong dư luận, lời bàn thế gian
Mở lòng đón nhận muôn dân
Học theo Thiên Chúa quên thân, bỏ mình
Gửi dân muôn vạn tâm tình
Ơn Thiên Chúa xuống ngập mình Thánh Nhân
Phép lạ đã quá nhiều lần
Bánh từ số ít được tăng gấp ngàn
Mùng ba mười một rõ ràng
Thiên Thần cất tiếng ngân vang đón mừng
Martinô vị Thánh lẫy lừng
Một lòng yếu mến tụng xưng muôn đời
Hôm nay bổn mạng Thánh rồi
Xin thương ban những một đôi ơn lành
Giúp người chọn Thánh mà theo
Được lòng yêu mến, khó nghèo hy sinh.
Thiên Chúa yêu thương người bé mọn
01:11 |
Thiên Chúa yêu thương người bé mọn
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Luca
21
Ngay giờ ấy, được Thánh Thần tác động, Đức Giê-su hớn hở vui mừng và
nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã
giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng
lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp
ý Cha.
Suy niệm
Hôm nay chúng ta đến trước tòa khấn thánh Martino để xin con người bé mọn này cầu thay nguyện giúp cho chúng ta.
Thánh nhân thực là một con người bé mọn trong rất nhiều phương diện:
Thứ nhất: ngài bé mọn vì là người da đen với thân phận nô lệ
Thứ nữa: ngài là một ông thầy bình
thường không học thức và làm những công việc rất tầm thường trong
nhà dòng: Quả ngài là một con người bé mọn và tầm thường.
Ấy vậy, khi các sinh viên thần học
không thể hiểu nổi những vấn đề thánh Tô-ma trình bày thì Ngài có thể
trả lời cách trôi chảy đến nỗi, khi có vấn đề gì khó khăn, các sinh
viên lại chạy đến gặp Ngài. Quả thật, thánh nhân không được học trong
một ngôi trường nào cụ thể nhưng được học trong ngôi trường tình yêu
thập giá. Ngài trở nên bé mọn trong lòng bàn tay Chúa và làm tất cả mọi
công việc với một tình yêu diệu kỳ. Ngài đã học được tất cả sự khôn
ngoan của Thiên Chúa ngay dưới chân thập giá, trong giờ cầu nguyện vì
Ngài đã trao phó trọn vẹn cho Thiên Chúa tất cả công việc cũng như ước
mơ và suy tính của mình. Ngài đã trở nên bé mọn trong lòng bàn tay
Chúa vì hơn ai hết, như thánh Phao-lô, Ngài ý thức rằng: cái điên rồ
của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối
của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người. (x. Cr 1,25). Ý thức
như vậy nên ngài miệt mài với ngoi trường tình yêu thập giá và chìm
đắm trong những giờ cầu nguyện để đón nhận mạc khải của Thiên Chúa. Và,
Chúa đã mạc khải cho Martino bé mọn đáng yêu của mình tất cả những gì
có thể để sinh ích cho Martino và các linh hồn. Đó là điều Thiên Chúa
muốn.
Trong thời gian này và chắc chắn trong những ngày sắp tới đây, chúng ta sẽ bắt gặp rất
nhiều ý khấn xin cho con hay con của con, bạn của con thi đậu, thi tốt
trong kỳ thi này, kỳ thi nọ. Chắc chắn ai cũng muốn mình đỗ đạt nhưng
mấy ai quan tâm đến sự quân bình về mặt sức khỏe thể lý và tinh thần
cũng như tâm linh. Vì vậy, chúng ta đã quá quen với việc nhiều thí sinh
bỏ thì vì bệnh, hoặc khi thi thì thấy đầu óc cứ lung tung hết cả, hoặc
thi không đậu khiến sinh bệnh tâm thần. Tất cả những lý do đó vì chúng
ta quá cậy dựa vào sức riêng mình mà quên mất Thiên Chúa là nguồn của
sự khôn ngoan. Có lẽ trong lúc này, chúng ta nên thường xuyên cầu xin
cho các sỹ tử, có thể đến đây cách âm thầm hay ghi lại ý khấn tại đây,
biết giữ gìn sức khỏe và phó thác tất cả họ trong lòng bàn tay Chúa.
Xin Chúa giúp họ trở nên những con người bé mọn để Chúa mạc khải sự
khôn ngoan nhiệm mầu và dẫn họ tới nơi họ cần đến, trong sự an bình và
vui tươi tràn trề hy vọng. Dầu vậy, chúng ta cũng không quên tất cả
những ai đến với tòa khấn thánh Martino trong tuần qua
Lạy thánh Martino, xin giúp chúng con có được tâm hồn đơn sơ phó thác như Ngài để chúng con luôn biết tìm thực thi ý Chúa.
Hôm nay chúng con cũng cầu xin đặc biệt
cho các bạn trẻ đang chuẩn bị trong những kỳ thi sắp tới, xin thánh
nhân thương giúp các bạn chân thành trong cuộc thì này để mọi người
nhận biết và tôn vinh danh Chúa.
Chúng con cũng xin trao phó tất
cả những ai vất vả khổ đau trong tay ngài, xin hãy cũng mẹ Maria dẫn
dắt tất cả chúng con đến với Chúa Giê-su là nguồn bình an và sức sống
của chúng con.
Thánh Martino - Hạt Men Bé Nhỏ
01:16 |
Thánh Martino - Hạt Men Bé Nhỏ
Tin mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mat-thêu (13, 33)
Khi ấy Đức Giê-su kể cho dân chúng dụ ngôn sau đây: 33: "Nước Trời cũng giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến khi tất cả bột dậy men."
Suy niệm
Việt Nam ta có câu: vô tửu bất thành lễ. Ngày lễ
đầu năm người ta thường mang theo chai rượu để kính tổ, để nhớ về gốc
gác, nhớ về cội nguồn của mình. Ấy vậy, những hạt lúa kia sẽ chẳng
thành tửu cho được nếu không có những hạt men bé nhỏ.
Cả một khối gạo lớn sau khi được nấu chín chỉ cần
một nắm men, là đôi ba ngày sau, chúng ta đã thấy lựng mùi rượu. Cái
vị thơm nồng và cay cay làm vui thỏa thực khách. Thơm là vậy nhưng
người ta thường thấy giá trị của rượu mà quên đi giá trị của nắm men âm
thầm làm cho cả khối bột thành rượu ngon.
Nắm men vẫn nằm đó và âm thầm tan biến dần để làm
cho cả khối bột thêm mềm và trở thành rượu lúc nào không hay. Hạt men
vẫn cứ âm thầm làm nhiệm vụ của mình cho dù không được ai khen thưởng.
Nhưng dù sao, không có men, những khối bột, khối gạo kia vẫn không thể
thành rượu. Không thành rượu thì sao chúng ta có thứ để làm vui thỏa
lòng người như tác giả thánh vịnh nói:
Chúa cho con người kiếm ra cơm bánh, chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người. (x Tv 104, 14-15)
Hôm nay, đến với thánh Martino, chúng ta cũng
có thể thấy một hạt men, một nắm men như thế. Suốt cuộc đời thánh nhân
làm những việc tầm thường nhỏ nhặt trong nhà dòng. Có thể đó là việc
quét dọn tu viện, chăm sóc vườn tược để mọi người tới có đươc cảnh quan
đẹp mắt, vui lòng những ai tới thăm, và mỗi thành viên có được một
không gian thoải mái để nghỉ ngơi. Có thể đó là hành động chuyện trò
với những chú chuột nhỏ để chúng không cám phá quần áo khiến các thầy,
các cha yên tâm cầu nguyện và có giấc ngủ ngon. Có thể đó là đời sống
cầu nguyện âm thầm để Chúa trợ lực cho tất cả những ai đi rao giảng
được thành quả tốt đẹp. có thể và có thể nhiều hành động đơn sơ nhỏ
nhặt khác mà chúng ta thấy được nơi thành Martino.
Và cũng có thể nói, không một thành công của người
anh em nào và của dòng mà không có sự góp phần của Martino. Ngài quả
là hạt men bé nhỏ, âm thầm để làm cho khối bột giảng thuyết Đa minh dậy
men sống động bằng cả lời giảng lẫn hành động. Tất cả do bởi thánh
nhân đã thấu cảm được nước trờ đang âm thần lớn lên trong những gì nhỏ
mọn của cuộc sống thường ngày. Và hôm nay, chính chũng ta cũng được
mời gọi để trở nên những nắm men như vậy giữa lòng nhân thế.
Thân lạy Chúa Giê-su, xin thương nhận lời thánh
Martino chuyển cầu, mà ban cho chúng con được hoàn thành tất cả những
công việc của đời sống thường ngày với lòng yêu mến. xin cho những
hành động chu toàn bổn phận ấy trở nên men nước trời ngay giữa lòng gia
đình, giáo hội và cả nhân loại.
Xin cho tất cả những ai đang thành công và làm những
việc lớn lao biết trân trọng những ai làm công việc tầm thường và
không mấy thành công bởi, chính những gì là thất bại và bé mọn mới giúp
cho những gì là thành công lớn lao có giá trị.
Xin cho mỗi thành viên trong gia đình và giáo xứ
chúng con biết hoàn thành công việc và phận vụ của mình với lòng yêu
mến. Vì làm một việc nhỏ với tình yêu thì vĩ đại hơn làm việc lớn lao
mà thiếu vắng tình yêu.
Xin thương chúc lành và thánh hóa tất cả những
gì chúng con đã làm, đang làm và sẽ làm. Xin Chúa hãy dùng con và đừng
để con đi một mình trên đường nhân thế vì không có Chúa, chúng con
không thể làm gì được.
Lạy thánh Martino, chúng con xin dâng tất cả những
ý nguyện của chúng con lên Ngài, xin thương chuyển cầu cho chúng con
trước tòa Chúa.
Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương nơi cuộc đời thánh Martinô (phần cuối)
01:53 |
Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương
nơi cuộc đời thánh Martinô
(phần cuối)
Nguyễn Trọng Viễn, OP.
2. 3 Tình yêu hướng tới cứu cánh : Chúa là tất cả
Vận hành tâm linh
Kitô thật sự là một cách “lý giải” theo chiều hướng đảo ngược cách nghĩ
bình thường của con người, một sự đảo ngược không phải do ngẫu hứng,
nhưng là một sự đảo ngược nhằm làm rõ rệt hơn tình yêu kỳ diệu của Thiên
Chúa. Ta có thể tìm thấy huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa theo một quy
luật đảo ngược : “khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Hoặc
ta có thể thấy quy luật đảo ngược đó nói chính Lời của đức Giêsu : “tội
của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều.
Còn ai được tha ít thì yêu mến ít”. (Lc 7,47).
Trong khi đó, cách
nghĩ thông thường của con người là muốn mau chóng tìm lại “dấu bằng”.
Ngay cả với Chúa, người tín hữu cũng thường mong tìm một sự xứng đáng,
một ý nghĩa công chính dựa vào công sức của mình, một tư cách hiện diện
trước Chúa bằng nhân đức của mình. Thế nhưng, chiều hướng của vận hành
tâm linh Kitô chính là một “dấu lớn hơn càng ngày càng lớn hơn”. Vận
hành tâm linh giống như người học chân chính là càng học càng thấy mình
dốt; giống như đứa con, càng sống tốt lại càng có cơ may hiểu công hơn
cha mẹ nhiều hơn; giống như người cha, hoặc người mẹ, càng tỏ bày tình
thương lớn lao của mình trong việc vất vả nuôi con, thì lại càng hiểu
lòng cha mẹ đã thương mình nhiều hơn…
Kitô giáo đã đóng
góp cho thế giới một phẩm chất riêng biệt của mối tương quan ngã vị. Mối
tương quan này không thể được hoá giải trong những định luật công bằng
của lý trí, nhằm tới một sự quân bình, an hoà trong sự cân bằng. Ngược
lại, tương quan ngã vị bao hàm phẩm giá tuyệt đối của những ngôi vị,
những ngôi vị có tính chủ thể, có lý trí và tự do. Mối tương quan ấy
không bao giờ là một sự trao đổi sòng phẳng, nhưng luôn mặc ý nghĩa trao
tặng và tri ân nhau. Như thế, ngay trong tương quan tình yêu đích thực
của con người với nhau, như G. Marcel nói, đã có yếu tố khẩn cầu, khẩn
cầu là nhịp thở của tình yêu.
Mối tương quan ngã
vị của con người với Thiên Chúa thể hiện một sự trao tặng tuyệt đối.
Thiên Chúa trao tặng chính bản thân Ngài, và con người chỉ có thể đón
nhận món quà ấy trong lòng tri ân tuyệt đối. Không có chuyện đổi chác,
không có chuyện cân xứng, không có chuyện tự hào về mình như những người
Biệt Phái (Xc. Lc 18,9-14). Chỉ có một hành động chân chính nhất, đó là
thái độ đấm ngực kêu lên : 'Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con, vì là
kẻ tội lỗi” (Lc 18,13); chỉ có một lời cầu nguyện căn bản nhất xứng với
món quà bản thân của Thiên Chúa, đó là lời : “Lạy Con Vua Đa-vít, xin
thương xót chúng tôi !" (Mt 9,27). Từ sự trao tặng ấy, con người được
mời gọi vươn tới cuộc sống sung mãn tuyệt đối trong mức độ hoàn hảo cao
vời của chính Thiên Chúa. Chúa Giêsu trao tặng cho con người Nước Trời,
trong đó, hạt nhân căn bản chính là sự hiện diện bản thân của Ngài. Quả
thật, từ ý nghĩa ấy, ta hiểu được Nước Trời luôn “đòi hỏi” triệt để và
luôn có phẩm chất phong phú, dư dật.
“Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.(Mt5,48)
Và :
“Nếu đức công chính
của các ngươi không dư dật hơn ký lục và Biệt phái, các ngươi sẽ không
vào được Nước Trời”(Mt 5,20, bản dịch cha Thuấn)
Có thể nói rằng, nếu
dáng dấp của tất cả những tôn giáo và triết học khác đều hướng tới một
tình trạng quân bình như “mặt nước hồ thu”, thì thế đứng căn bản của
Kitô giáo lại chính là “một ngọn thác”. Nơi đây, con người không bao giờ
có thể tách ra khỏi nguồn nước từ bên trên của Thiên Chúa, nguồn nước
ấy đổ xuống ào ạt khi ai đó dám “dựng đứng” bản thân mình, dám dốc cạn
bản thân mình để đón nhận trọn vẹn sự sống của nguồn thác, và để cho
nguồn nước ấy tuôn tràn đến anh chị em của mình.
Thiên Chúa trao ban
tất cả và Ngài muốn là tất cả. Ngay từ đầu của đạo giao ước, Thiên Chúa
đã tỏ mình ra như một Đấng muốn trở nên tất cả. Ngài không muốn chia
phần sản nghiệp của Ngài với bất cứ một thần thánh nào khác, Ngài là
Chúa của Dân, Ngài lập giao ước và Ngài ghi dấu sở hữu ngay trên thân
xác của từng người dân (cắt bì), Ngài truyền lệnh không được thờ một thứ
thần nào khác, bởi vì Ngài là “thần ghen tương” :
“Ngươi không được
phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ : vì Ta, ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa
của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt
con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông.(Xh 20,5)
Tội thờ các thần
khác được xem như tội ngoại tình, nên phải triệt để phá bỏ mọi tượng
thần và giữ một lòng trung tín tinh tuyền với Ngài :
Ngươi không được phủ
phục trước các thần của chúng, cũng đừng phụng thờ các thần ấy ; ngươi
không được làm theo các việc chúng làm, nhưng phải phá huỷ thần của
chúng và đập vỡ các trụ đá của chúng. (Xh 23,24)
Và chúng ta thấy rõ
lệnh truyền về thái độ phải có của Dân đối với của Chúa trong sách Đệ
Nhị Luật, Chúa muốn là tất cả chứ không muốn chia phần :
“Nghe đây, hỡi
Ít-ra-en ! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. 5 Hãy
yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh
(em). 6 Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải ghi
tạc vào lòng. 7 Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải
nói lại cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ
cũng như khi thức dậy” (Dnt 6,4-7)
Như thế, chúng ta hiểu những đòi hỏi của Đức Giêsu về thái độ của người môn đệ đích thực :
"Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. (Mt 10,37)
Có lẽ sự làng nhàng
của đời sống tâm linh chính do con người đã không chấp nhận Chúa là tất
cả, không muốn thuộc về Chúa trọn vẹn.
Thánh Martinô, từ
thân phận một con người hèn mọn, luôn ý thức mình là một người hèn mọn,
thấy mình đáng được bán đi làm nô lệ để nhà dòng có tiền trả nợ, thấy
mình không xứng đáng là một tu sĩ trợ sĩ trong Dòng… chính nhờ sự chân
nhận ấy mà thánh Martinô đã nối kết được đời mình vào dòng thác yêu
thương ào ạt của Thiên Chúa.
Mở ra vài vấn đề
Nhờ gặp gỡ chính
Chúa, con đường bác ái của Martino trở thành con đường chân lý. Lối sống
của Martino làm sáng lên ý nghĩa chân lý căn bản của nhân phẩm, phẩm
giá của kẻ được sống với và cùng làm với Chúa. Lòng bác ái của thánh
Martinô làm sáng lên ý nghĩa chân lý của tình thương, tình thương con
người chỉ có thể trọn vẹn trong lòng nhân từ của Thiên Chúa. Sự chấp
nhận vị thế hèn mọn của Martinô làm rõ ra thái độ chân lý của con người
trước Thiên Chúa, thái độ chân nhận Chúa là tất cả. Đóng góp đó có lẽ
khó so sánh được với đóng góp của thánh Thomas hay Catarina Sienna, khó
so sánh không phải vì lớn hơn hay nhỏ hơn, nhưng vì Martinô cũng là một
“tác phẩm nghệ thuật” độc đáo của Thiên Chúa như các thánh khác. Nghệ
thuật thì không có sự so sánh cao thấp như kỹ thuật, nghệ thuật mời gọi
chiêm ngắm, và “tác phẩm Martinô” thực sự có khả năng làm ngây ngất lòng
người.
Và điều quan trọng
nữa là tình thương nơi thánh Martinô thực sự là một sức mạnh phong phú,
phong phú trong chính cuộc đời của Martinô và trong Giáo Hội, ít là
trong Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Lý do là vì tình thương và chân lý của
Chúa thì không chỉ để chiêm ngắm, mà còn là để sống, để dấn thân để đấu
tranh. Trong linh đạo Đa Minh, chiêm ngắm còn luôn phát sinh hoa trái
phong phú trong việc trao tặng cho người khác điều mình đã chiêm ngắm.
Quả thật, nơi thế
gian này, con người cần có một sự “thách thức”, một sự “chất vấn” hoặc
một sự “đe doạ”, thì mới có thể tìm được sức mạnh trọn vẹn của mình.
Cuộc sống trần gian luôn là một cuộc chiến, ai buông khí giới đó là kẻ
đầu hàng và sẽ bị lôi kéo đến chỗ đánh mất bản chất của mình. Ngược lại,
ai nhận ra được “đối thủ” chân chính thì tìm được sức mạnh để vươn lên
mãi. Chân lý thì phải đi vào cuộc chiến và ngay tình yêu cũng cần đi vào
cuộc chiến. Dân Hy Lạp thích tranh luận, và họ thường tự tạo ra đối
thủ, tạo ra những tư tưởng đối nghịch để gia tăng sức mạnh cho lý chứng
của mình[1].
Cũng thế, nhiều khi, do mưu tính chính trị, người ta phải tạo nên kẻ
thù để có thể kích thích sự đoàn kết của dân tộc. Khi mà các môn đệ
tưởng rằng đã đạt đến đích và có thể nghỉ ngơi, thì Đức Giêsu lại mở ra
một chiến cuộc khác cho các ông :
“ Giờ đây, chúng con
nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy.
Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến." Đức Giê-su đáp : "Bây
giờ anh em tin à ? Này đến giờ -và giờ ấy đã đến rồi- anh em sẽ bị phân
tán mỗi người mỗi ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô
độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. Thầy nói với anh em những điều ấy, để
trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan
khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian." (Ga 16, 30-33)
Tuy nhiên, khi người
ta tạo ra một đối thủ giả hoặc không xứng tầm, thì sức mạnh hình thành
nên được cũng là sức mạnh giả, chỉ có tính cách nhất thời. “Chân lý”
được hình thành trong một cuộc đấu tranh giả, sẽ chỉ là những chân lý
vụn vặt nhất thời, bộc lộ thói mê chữ nghĩa. Thứ tình yêu được trở nên
mạnh mẽ hơn trong một cuộc chiến giả tạo, sẽ chỉ là tình cảm bồng bột
chóng qua. Vì thế, trong hành trình trần gian này, việc nhận ra đối thủ
cho đúng là một điều hệ trọng.
Trong cuộc sống trần
gian, khi người ta lựa chọn một nghề nghiệp hoặc lựa chọn một ơn gọi,
lựa chọn một lối sống hoặc lựa chọn một môi trường làm việc, thì đó đã
là lựa chọn một đối thủ cho cho cuộc chiến trần gian của mình; trong số
đó, có không ít những lựa chọn không đúng đối thủ, hoặc đối thủ không
xứng tầm với vận mạng con người. Trong ý nghĩa toàn diện của Kitô giáo, ý
nghĩa của ơn gọi sống-với, ta có thể nói được rằng : khi ta “đánh cái
gì” (dĩ nhiên hiểu là cái xấu) thì sẽ có cơ may xuất hiện ý nghĩa “đánh
vì ai”; ngược lại, khi ta “đánh ai”, thì sẽ có nguy cơ lộ diện ý nghĩa
“đánh vì cái gì”. Một đàng là “dấn thân vì ai đó”, một đàng là “dấn thân
vì sự vật nào đó”. Thiết nghĩ sơ đồ nói trên đó cũng là một cách để
hiểu sự duy nhất trong mầu nhiệm Nước Trời, duy nhất trong ý nghĩa cứu
độ. Khi mà con đường tri thức không còn là chiến đấu chống lại sự xấu,
con đường đó sẽ có nguy cơ nhạt nhẽo; khi con đường tri thức lại trở
thành mặt trận chống “ai đó”, thì sẽ dần dần rớt vào nguy cơ bảo vệ một
thứ chân lý vô ngã, chân lý hoàn toàn lý thuyết và trở thành quá khích.
Cũng thế, khi con đường đức ái mà chỉ là quí trọng một “sự vật” nào đó
bên ngoài bản thân, chăm chăm chú chú làm một điều gì đó chứ không phải
làm vì ai đó, thì con đường đó sẽ dần dần loại ra ngoài những ai đang
chờ đợi tình thương chân chính.
Nơi đây, ta có thể
nối lại cả con đường của thánh Thomas và con đường của thánh Martinô với
nguồn mạch hứng khởi nguyên thuỷ của thánh Đa Minh, nguồn mạch khao
khát ơn cứu độ cho con người. Xin ghi lại vài khoản Hiến Pháp căn bản để
nhắc nhủ nhau :
* “Vì Dòng Anh Em
Giảng Thuyết do thánh Đa Minh sáng lập, “như ai cũng biết, ngay từ thời
sơ khai, đã được thành lập đặc biệt để lo việc giảng thuyết và ơn cứu độ
các linh hồn”. Do đó, theo lệnh truyền của Đấng sáng lập, anh em chúng
ta, “ở đâu cũng phải sống chính trực và đạo đức như những người khao
khát ơn cứu độ của mình và của những người khác, như những con người của
Tin Mừng, theo chân Đấng Cứu độ, chỉ nói với Thiên Chúa hay về Thiên
Chúa, với mình hoặc cho tha nhân” (HPNT II)
* “Chính vì thế,
“việc học hành của chúng ta phải nhằm hết sức chính yếu và mạnh mẽ vào
điểm này là để chúng ta trở nên hữu ích cho linh hồn tha nhân” (HP 77)
Chỉ khi trở lại
nguồn mạch thiết tha với con người cho đến cùng, thiết tha ơn cứu độ cho
tha nhân, chúng ta có thể vượt qua thái độ chiêm ngắm thuần tuý, để tìm
lại sức sống Đa Minh trong tinh thần “chiêm niệm vào trao cho người
khác điều mình chiêm niệm”.
Gợi ý chia sẻ :
1. Trong đời sống Đa Minh hiện nay, ta có còn thấy ngọn lửa “thiết tha với ơn cứu độ các linh hồn không ?
2. Trong Thời Sự
Thần Học số 56, Linh mục Phan Tấn Thành viết: “Dưới khẩu hiệu Veritas,
các tu sĩ dòng Đa Minh – những chiến sĩ bảo vệ đức tin (pugiles fidei)-,
lắm lần trở thành những “chó săn lùng bắt quân rối đạo” (Domini canes),
điển hình là các Toà Tra (Inquisitio), và không còn phản chiếu khuôn
mặt dịu hiền của Thiên Chúa Tình Yêu nữa.(…). Nếu có lúc người ta nhiệt
thành chiến đấu cho veritas đến nỗi bỏ quên caritas, thì cũng không
thiếu lần người ta nhân danh caritas để bịt miệng veritas”. Những mâu
thuẫn và những lệch lạc như thế có tiềm tàng trong cách học hành, cũng
như trong cách làm việc tông đồ của chúng ta không ?
3. Phẩm chất đời
sống tâm linh của chúng ta hiện nay có dính dáng đến nguy cơ xa rời bản
thân Chúa để chỉ còn biết học chân lý và làm bác ái một cách đơn thuần
không ?
Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương nơi cuộc đời thánh Martinô (tiếp theo)
01:50 |
Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương
nơi cuộc đời thánh Martinô
(tiếp theo)
Nguyễn Trọng Viễn, OP.
2. Huyền nhiệm Tình thương nơi thánh Martino
2.1. Tình yêu xuất hiện trong “cái với”
2.1.1 “Cái có”
G.
Marcel định nghĩa “cái có” là cái ở bên ngoài mình và không trực tiếp
gắn liền với sự thăng tiến hay suy giảm phẩm chất của cuộc đời. Có điểm
cao, có lời khen, có địa vị, có tiền bạc… những điều ấy không trực tiếp
làm cho đời mình giỏi hơn, tốt hơn, hoàn hảo hơn. Con người cần “cái
có”, và khoa học giải quyết nhu cầu này. Thế giới ngày nay là thế giới
của khoa học. Khoa học mang lại nhiều “cái có” giúp cho cuộc sống được
dễ dàng hơn: có nhà, có xe, có tiền, có máy móc… Khoa học giúp cho cuộc
sống được thanh thản hơn nhiều. Rồi “cái có” ra như có khả năng giải
quyết nhiều vấn đề thật mau chóng và cũng mau chóng trở nên ưu tiên số
một đối với nhiều người trong xã hội ngày nay. Thật ra, ngày nay, người
ta biến cái “huyền nhiệm” nằm sâu trong cuộc đời con người thành những
“vấn đề” bên ngoài, ở đằng trước hành trình cuộc đời mình. Vấn đề thì có
thể được giaỉ quyết do một ai khác, bằng một “cái có” nào đó… Đó là nẻo
đường khiến người ta rơi vào ảo tưởng : có tiền mua tiên cũng được. Quả
thật, thế giới “cái có” đang dần dần xâm chiếm hết tâm và trí của con
người ngày nay, đến độ, một thứ dầu gội đầu, hoặc một đôi dép cũng được
quảng cáo như có thể làm cho người ta “tự tin” hơn hoặc đóng góp vào sự
thành công của đời mình. Cách giải quyết “vấn đề” như thế không đụng vào
được “huyền nhiệm” đời người. Đó chỉ là một cách chạy trốn vấn đề thật,
vấn sâu xa mang tính huyền nhiệm của mỗi cuộc đời con người. Cách thức
ấy đưa đến tình trạng gọi là “xã hội mất căn tính”. Chẳng hạn : quy
trình sống của người thợ mộc là : làm ra cái bàn, đem bán lấy tiền, mua
những đồ dùng khác… Trước đây, mối liên hệ ưu tiên là người thợ mộc thể
hiện mình trong việc làm ra cái bàn; cái bàn phải được đóng đúng quy
cách, phải tốt vì điều đó biểu lộ chính giá trị bản thân của người thợ.
Ngày nay, người thợ mộc, bị cuốn hút vào mục tiêu làm sao có tiền để mua
các đồ dùng khác; vì người ta không cần biết anh ta có là thợ mộc chân
chính hay không, người ta chỉ cần nhìn xem anh có nhiều đồ dùng đáng giá
hay không. Khi đó, người thợ cũng treo giá trị bản thân của mình vào
những đồ dùng mua sắm, và đánh mất lương tâm nghề nghiệp, đánh mất “cái
là” chân chính như một người thợ. Người ta đặt hết nền tảng đời mình vào
“cái có”; và “cái có” thì có thể dễ dàng bị chiếm, bị mất. Khi mất “cái
có”, cuộc đời đó sẽ trở nên trống rỗng, người ta nhận ra sự trống rỗng
của “cái là”, …và người ta dễ đi đến lựa chọn tự tử…
Gabriel Marcel nói : người nào quá thiên về phạm trù có, sẽ giảm thiểu hoặc đánh mất “cái là”.
2.1.2 Cái là
Triết
học thì nhắc nhở người ta về ý nghĩa chân chính của cuộc đời; nhắc nhở
về phẩm tính của “cái là”, phẩm tính của hiện hữu người. “Cái là” giúp
ta tìm được một căn bản tự tại trong chính bản thân mình, để mình có thể
vững vàng trước những biến động hời hợt của “cái có”. Những lời khen
chê, những thành công hay thất bại không có tầm quan trọng quyết định
cho cuộc đời mình nữa, nhưng chính phẩm chất thực sự của mình mới là
điều quan trọng. Ai biết nhận ra “cái là” của mình, người ấy sẽ tìm được
nẻo đường thăng tiến thực sự trong hiện hữu của mình. Hai đứa học sinh,
cùng dốt như nhau, cùng copy bài như nhau, cùng được điểm 10 như nhau.
Một đứa thì khoái chí; đó là đứa chỉ biết “cái có”. Đứa khác thì mắc cở
vì điểm 10; đây là đứa biết nhận ra sự quan trọng của “cái là”.
Để đi từ thế giới “cái có” sang thế giới “cái là”, người ta cần lột bỏ một thứ mặt nạ giả hình ở cấp độ một.
2.1.3 “Cái với”
Thế
nhưng, có nhiều điều, ở bình diện xã hội, vốn là “cái là”, thì trong
bình diện tình yêu, cũng như trong bình diện đức Tin, lại chỉ là “cái
có”. Tôi không chỉ có điểm cao, nhưng tôi thực sự là một học sinh giỏi.
“Trình độ” của tôi không phải là cái có bên ngoài, mà là cái nằm bên
trong tôi. Tôi tài thực sự chứ không phải là nhờ danh tiếng, tôi đạo đức
thực sự chứ không phải là do chức tước, tôi tốt lành thực sự chứ không
phải chỉ do khen ngợi…, đó là những “cái là” của tôi. Tuy nhiên, so với
bình diện bản thân, tất cả những điều ấy lại vẫn là “cái có”, và vẫn có
thể bị mất đi, trong khi bản thân của tôi vẫn còn đấy. Có những điều ra
như ở trong tôi, nhưng thật sự vẫn khác với bản thân, vì đến một lúc nào
đó, chúng vẫn có thể tách rời khỏi tôi. Có lúc bản thân tôi vẫn còn đó,
nhưng trình độ của tôi đã suy giảm hoặc mất đi; đến lúc nào đó tron g
cuộc đời, cả tài năng, sức khoẻ, sắc đẹp và ngay cả đức độ cũng có thể
“chấp cánh bay xa” khỏi bản thân tôi. Trong tình yêu, nếu tôi tin vào
của cải, tin vào danh tiếng để đổi lấy tình yêu, tôi “sẽ bị người đời
khinh dể”, như sách Diễm Ca đã nói (Xc. Dc 8,7). Nhưng nếu tôi tin vào
tài năng, tin vào đức độ… để mong có được tình yêu của ai khác, thì tôi
vẫn không thực sự biết yêu. Chìa khoá thực sự của tình yêu là sự thuộc
về nhau, thuộc về nhau bằng chính bản thân của mình. Cái gì khác với bản
thân thì vẫn chỉ là “sự vật”; tình yêu chân chính không phải là đổi
chác nhưng “sự vật” xung quanh bản thân. Yêu thương là chấp nhận chính
bản thân của ai khác, và nhận ra bản thân của hai bên “thuộc về nhau”[1].
Nếu tôi đi vào tình yêu, đi vào đức Tin với những tài năng, đạo đức
thật của tôi, thì đó vẫn là cách hiện diện với người khác như là kẻ
không thuộc về nhau.
Ở
đây, ta thấy xuất hiện chiều kích đặc biệt của Kitô giáo : “cái với”.
Kitô giáo không phải là đạo luân lý, nghĩa là một bài toán dựa vào sự dò
xét, cân đong đo đến đức độ để thưởng công hay ra hình phạt. Phẩm chất
Kitô đặt nền trong một giao ước mang tính bản thân. Khi lãnh bí tích Rửa
Tôi, tôi mang chính bản thân tôi ra để đóng vào giao ước, tôi chết đi
cho con người cũ để sống một con người mới hoàn toàn thuộc về Chúa. Về
phía Chúa, Chúa cho chính Con Một của Ngài chịu chết cho tôi. Giao ước
bản thân đó làm nên một cộng đồng ngôi vị, giống như và trổi vượt hơn
gia đình.
Trong vận hành từ “cái là” của bình diện xã hội đến “cái với” trong tình yêu và trong đức Tin[2],
lại cần sự lột bỏ mặt nạ một lớp nữa, lột bỏ cả “cái là” giả tạo để
nhận ra con người của mình, bản thân trần trụi của mình, và nhận ra phẩm
giá thực sự của mình trước tình yêu, và trước mặt Chúa. Yêu nhau là
tặng không sự chân nhận bản thân của ai khác chứ không phải là trao đổi
những thứ “sự vật”. Chỉ trong tình yêu như thế, hai người mới “thuộc về
nhau” thực sự. Cũng thế, phẩm giá thực sự của con người là thụ tạo của
Chúa, được Chúa tặng không phẩm giá là “con cái”, được “đồng thừa tự”
với Chúa Giêsu… Đây mới là điều đáng quí trọng nhất của niềm Tin Kitô
giáo. Trong ý nghĩa “thuộc về nhau” tự nền tảng bản thân, “cái với” được
tỏ lộ ra.
Như
thế, ta có thể thấy huyền nhiệm tình yêu lộ rõ hơn hết trong con người
và cuộc đời của thánh Martinô, một người không bám vào một chút “cái có”
nào, và cũng không bám vào một chút “cái là” nào trên bình diện xã hội
con người. Bản thân thánh Martinô là mẫu điển hình của mầu nhiệm Nước
Trời : người đầu hết sẽ nên cuối hết, và người cuối hết sẽ nên đầu hết
(Xc. Mt 19,30, //). Tôn phong Martinô lên hàng hiển thánh, đó không phải
là xướng lên một tước hiệu để vinh vang, những là loan báo mầu nhiệm
Nước Trời, là khẳng định ý nghĩa phẩm giá chân thật nhất của con người.
Bởi vì con người có vận mạng siêu nhiên, và mầu nhiệm con người chỉ sáng
lên trong mầu nhiệm đức Giêsu Kitô. (x. Vatican II, hiến chế Mục Vụ số
22).
2.2 Tình yêu trong chiều hướng lòng nhân từ
Có
lẽ điều hiểu lầm lớn lao của con người hiện đại là đánh mất ý nghĩa của
dâng tặng, và ý nghĩa của tâm tình lãnh nhận với lòng tri ân, mắc nợ
nhau trong tình nghĩa. Cuộc sống hiện đại được chuẩn hoá trên nền tảng
của bài toán trao đổi. Tất cả những thành quả to lớn, hoành tráng của xã
hội hiện đại, từ những nghiên cứu khoa học, từ những công trình kỹ
thuật, từ những thành tựu văn hoá… cho đến những tương giao đời thường…
đều được vận hành theo bài toán thu-chi, lời-lỗ… và quy luật cân bằng ấy
xen dần vào cả lãnh vực tương quan nhân thân của con người với nhau.
Tôi thương anh vì anh tốt bụng, tôi trọng anh vì anh có tài năng, tôi
kính anh vì anh có đức độ, tôi xum xue với anh vì anh có địa vị… Khi anh
không còn tốt bụng, không còn tài năng, không còn đức độ, không còn địa
vị, thì những tâm tình kia cũng đương nhiên không còn xứng hợp nữa. Bài
toán cân bằng ấy thật là hợp lý nhưng cũng thật bất nhân; bởi vì con
người vốn “nhân vô thập toàn”, bởi vì con người luôn là sinh vật có
bệnh, bệnh thể xác và bệnh tinh thần, chính con người thật đó cần được
đón nhận, cần được thương yêu, một tình thương đón nhận “từ dưới chân”
chứ không phải so đo mức độ cao thấp “ở trên đầu”. Khi “cái là” cũng
được lột bỏ để thay vào bằng “cái với”, thì tình yêu thương chân thật
mới được bắt đầu, bắt đầu với phẩm chất “tặng không”. Có thể nói được
rằng, trong vận hành của đời sống tâm linh, người nào quá để ý đến “cái
là” sẽ làm suy giảm hoặc đánh mất “cái với”.
Trong
đức Tin Kitô giáo, nền tảng của mọi tương quan con người với nhau được
đặt trên một nền tảng khác, nền tảng tình yêu thương của Thiên Chúa. Ở
đây, có một sự biến đổi trọng tâm hết sức bản, con người được yêu không
phải là do bài toán trao đổi nữa, do sự “bài toán” trao tặng và nguồn
mạch dư dật, phong phú vô tận của bài toán này là chính Thiên Chúa. Từ
nguồn cội ấy, phẩm chất của mọi thứ tình yêu giữa con người với nhau đều
ngầm biểu lộ ý nghĩa của lòng nhân từ. Chúng ta hiểu rằng điều căn cốt
của vận hành yêu thương trong Kitô giáo là : mối tương quan con người
với nhau phải được đặt trong thế tay ba. Có Thiên Chúa ở đó; và tình yêu
con người với nhau chỉ có thể vững bền, quảng đại khi được nối kết vào
nguồn mạch tình thương nhân hậu của Thiên Chúa. Như thế, khi “tôi yêu
anh” hay “anh yêu tôi”, thì trong niềm tin Kitô giáo, cả hai đều bắt
nguồn từ ý nghĩa căn nguyên : tôi và anh đều “đáng thương” trước mặt
Chúa. Do đó, phẩm chất căn bản của tình nghĩa “tôi thương anh” hay “anh
thương tôi” thì cũng đều phải thể hiện ra trong dáng dấp lòng nhân hậu,
lòng từ bi thương xót của Chúa. Đức Gioan Phaolô II, trong thông điệp
Thiên Chúa Giầu Lòng Từ Bi Thương Xót, nói rằng : có một danh hiệu thứ
hai của Tình yêu, đó là lòng nhân hậu :
“Vì lòng nhân từ là chiều kích không thể thiếu của tình yêu; nó như là danh hiệu thứ hai của tình yêu”[3].
Người
ta có thể kể ra nhiều nhân đức của thánh Martinô, nhưng không thể cho
rằng Chúa đã thương Martinô nhiều vì ngài nhân đức nhiều. Trước tiên, vì
tình yêu của Chúa không phải một sự trao đổi như vậy. Mặt khác, chính
những nhân đức của Martinô cũng do chính Chúa ban tặng. Nói đúng hơn, ta
thấy chính vì Martinô đã khám phá ra “cái với” ở tận bản thân trần trụi
của mình, đã chấp nhận thuộc trọn về Chúa mà Martinô đã đón nhận được
nhiều hơn tình thương của Chúa. Nhân đức của Martinô thật sự cũng không
là gì khác hơn hoa trái của lòng nhân từ của Chúa, nhằm để làm chứng cho
lòng nhân ái của Chúa đối với những người cùng khổ mà Martinô được sai
đến và cho Giáo Hội ngày hôm nay. Quả thật, “tấm lòng vàng” của Thánh
Martinô biểu lộ rõ nét phẩm chất của lòng nhân hậu, trước tiên là lòng
nhân hậu của Chúa dành cho những người bé mọn, qua chính con người bé
mọn Martinô.
[1]
Không nên hiểu lầm sự “thuộc về” như là một sự “lệ thuộc”. Tình yêu
luôn luôn phải là một sự tự do, tự quyết chứ không thể ép buộc, chính tự
khả năng tự quyết, con người mới có thể đi vào mối tương quan thuộc về
nhau càng ngày càng sâu xa hơn. Ngược lại, thiếu sự tự quyết, thì người
ta chỉ có thể lệ thuộc, và lệ thuộc luôn luôn là lệ thuộc về những gì
bên ngoài bản thân, lệ thuộc tiền bạc, lệ thuộc sự bảo bọc, lệ thuộc
tiếng tăm của ai khác… Ngược lại, bản thân là một giá trị tuyệt đối mà
không một sự mua bán, trao đổi nào có thể cân xứng; bản thân chỉ có thể
được dâng tặng, và mời gọi sự đón nhận với lòng tri ân. Chiều kích bản
thân của một người thiếu tự do, thiếu tự quyết, sống lệ thuộc, luôn ở
ngoài vùng phủ sóng của cái “sống với”
[2] Trong tư tưởng của G. Marcel, con người chỉ là mình khi dấn thân, và chỉ có một sự dấn thân chân chính là dấn thân vì tha nhân…
Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương nơi cuộc đời thánh Martinô
01:46 |
Chiêm ngắm huyền nhiệm tình thương
nơi cuộc đời thánh Martinô
Nguyễn Trọng Viễn, OP.
Trong
số Thời Sự Thần Học 56 mới đây, nhằm mừng kỷ niệm 50 năm tu sĩ Martino
de Porres được phong hiển thánh, chúng ta đã được linh mục Phan Tấn
Thành trình bày tóm tắt những quan niệm thần học về chữ caritas, dựa
theo hai thông điệp của đức Bênêđictô XVI, Deus caritas est và Caritas
in veritate. Những quan niệm này, theo ba song luận “eros-agape”;
“caritas-veritas”; và “caritas-justitia”, đã được phân tích khá tỷ mỷ và
súc tích.
Có một lối nhìn khác
mà tôi thích thú hơn, đó là lối nhìn của linh mục Henri J.M. Nouwen,
trong tác phẩm Những Dấu Chỉ của Sự Sống. Cha Nouwen, theo gợi ý của một
người bạn chuyên phục vụ người khuyết tật, Jean Vanier, đã khám phá ba
dấu chỉ đặc biệt của tình yêu Kitô giáo trong Tin Mừng : mật thiết,
phong phú và xuất thần.
Có lẽ có thể nhìn một cách đơn giản hơn : trong Thiên Chúa, chân lý và tình yêu là một[1].
Rồi chân lý được gồm gói trong đức Kitô, đức Ái hay tình yêu cũng được
gồm gói trong đức Kitô. Nơi Thiên Chúa, caritas và veritas là một, thì
trong đức Giêsu Kitô, chân lý và đức ái cũng vẫn là một[2];
và là một trong mầu nhiệm Nước Trời. Mầu nhiệm Nước Trời thể hiện cả
chân lý và tình yêu một cách phong phú vô tận và linh diệu bất ngờ. Với
mầu nhiệm ấy, điều cần thiết không chỉ là nghiên cứu như một vấn đề,
nhưng còn cần “chiêm ngắm”[3].
Đây là huyền nhiệm phong phú và linh diệu của Nước Trời nơi cuộc đời
một con người hèn mọn nhất trong các vị thánh, và thánh nhất trong những
người hèn mọn, đó là thánh Martino de Porres. Cũng cần phải nói thêm là
: chân lý của Chúa ban cho ta là chân lý cứu độ; và tình yêu Thiên Chúa
ban cho ta cũng là tình yêu cứu độ. Chỉ trong ý nghĩa cứu độ, chỉ trong
vận hành của lịch sử cứu độ mà chân lý và tình yêu của Chúa mặc khải
cho con người mới được sáng lên, sáng lên ý nghĩa huyền nhiệm. Điều này
có nghĩa là chúng ta có thêm một tiêu chuẩn để phân biệt những thứ chân
lý / tình yêu giả với chân lý / tình yêu thật; và để hiệp nhất những thứ
chân lý và tình yêu có vẻ khác nhau nhưng lại đích thực là một trong
cùng vận hành cứu độ.
1. Mầu nhiệm Nước Trời
Sám hối vì Nước Trời
Chúa Giêsu khởi đầu
sứ vụ công khai bằng lời loan báo Mầu nhiệm Nước Trời, và Ngài cũng cho
thấy cách thức để đi vào mầu nhiệm ấy chính là sự sám hối.
“Sau khi ông Gio-an
bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.
Người nói : "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em
hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." (Mc 1,14-15)
Tại sao phải sám hối
? Sám hối là từ bỏ tội lỗi, sám hối là thay đổi lối sống, nhưng sâu xa
hơn hết, sám hối là thay đổi não trạng, thay đổi cách nghĩ. Đó là vì mầu
nhiệm Nước Trời luôn là điều bất ngờ có tính cách đảo ngược. Chẳng phải
chỉ những người Do Thái thời Chúa Giêsu cần phải sám hối, thay đổi não
trạng để có thể “hiểu” được Nước Trời, nhưng chính Hội Thánh trong suốt
hành trình của mình, cũng như mỗi người Kitô hữu, trong suốt hành trình
tâm của mình, vẫn luôn phải sám hối, vẫn luôn phải nhờ Thánh Thần Chúa
để có thể thay đổi não trạng.
Có lẽ đây là một
điều mà người Kitô hữu hiện nay phải lưu ý nhiều. Với đa số người tín
hữu, sám hối bị giản lược thành bản so sánh đời sống hằng ngày với Thập
Điều của Cựu Ước. Với những linh mục, tu sĩ, hình như người ta lấy việc
học hỏi, nghiên cứu để hiểu Nước Trời hơn là một sự rộng mở để Thánh
Thần Chúa thay đổi não trạng. Nếu nghiên cứu và học hỏi có thể cho ta
hiểu được một phần nào mầu nhiệm Nước Trời, thì sức mạnh để đi vào Nước
Trời vẫn luôn là ân sủng, vẫn luôn bắt nguồn từ chính tình yêu và chân
lý cứu độ được Thánh Thần khai mở ra cho Hội Thánh và cho mỗi người tín
hữu. Chính vì thế mà một con người hèn mọn như thánh Martinô lại có thể
biểu lộ mầu nhiệm Nước Trời rõ rệt hơn hết trong một tu viện Đa Minh
cũng như nơi thành phố Lima thời ấy.
Quả thật, nếu để ý
một chút, chúng ta sẽ thấy rõ tính mầu nhiệm Nước Trời luôn có tính cách
đảo ngược. Từ việc Ngôi Lời trong vĩnh cửu nay trở nên xác phàm, từ
việc Chúa chọn đức Maria, một cô gái đồng trinh, vô danh tiểu tốt, để
làm mẹ, từ việc Chúa chọn một gia đình dân thường chứ không phải gia
đình quyền quí, và chọn sinh ra trong hang đá bò lừa… cho đến Bài giảng
trên núi; cho đến cung cách thể hiện “lòng nhân chứ không phải lễ tế”
(Mt 9,13); cho đến lời dạy về quyền bính trong cộng đoàn Hội Thánh; cho
đến những giáo huấn trong diễn từ cáo biệt; và cho đến cách người đi vào
cuộc Tử nạn–Phục sinh…., tất cả đều là một sự đảo ngược kỳ lạ đối với
cách nghĩ thông thường của con người. Ta có thể nói được rằng ai không
thấy được tính đảo ngược của Chúa, thì cũng chưa thấm nhuần mầu nhiệm
Nước Trời. Trong khi đó, cám dỗ của con người luôn là muốn thích nghi,
thoả hiệp Nước Trời với nước thế gian, nước thế gian trong cách nghĩ đầy
lý lẽ của mình, nước thế gian trong lối sống tà tà của mình, nước thế
gian trong cơ chế tổ chức của cộng đoàn hay của chính Hội Thánh, nước
thế gian trong những giá trị hão huyền như danh giá,…
Nước Trời mời gọi
sám hối, mời gọi người tín hữu liên tục sám hối, mời gọi chính cơ chế
Hội Thánh hay cộng đoàn sám hối. Nếu sống đức tin, theo tinh thần
Vatican II, là sống đời mình như một lịch sử ơn cứu độ, nghĩa là sống
chính lịch sử đời thường của mình trong sự sám hối cách nghĩ, cách chọn
giải pháp, cách phản ứng… của mình trong sự so chiếu với mầu nhiệm Nước
Trời, thì ta lại càng thấy rõ tính cách thiếu sám hối chân chính, cả nơi
những nhà nghiên cứu Kinh Thánh, “đấng bậc” cũng như nơi đời sống người
tín hữu nói chung. Nước Trời là một sự đảo ngược, nên cần thiết phải có
một phương thức đảo ngược cách nghĩ, một lòng sám hối chân thực
(métanoia) để đi vào Nước Trời.
Mầu nhiệm đảo ngược
căn bản chính là mầu nhiệm Thập Giá. Thập giá xưa kia là sự điên rồ đối
với người Hy Lạp, là sự chướng kỳ đối với người Do Thái, thì ngày nay,
Thập Giá vẫn luôn là những khác biệt mang tính đảo ngược đối với cách
nghĩ cũng như thực tế cuộc sống xã hội và Giáo Hội, ở đây và lúc này.
“Trong khi người
Do-thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy-lạp tìm kiếm lẽ
khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Ki-tô bị đóng đinh,
điều mà người Do-thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại
cho là điên rồ. (1 Cr 1, 22-23 )
Tại sao lại đảo ngược ?
Chúng ta có thể tìm
thấy câu trả lời trong cách nói của ngôn sứ Isaia : đường lối của Chúa
vượt cao hơn đường lối của con người (Xc. Is 55,9). Đường lối của Chúa
cao hơn không phải chỉ vì Chúa khôn ngoan hơn, nhưng còn là vì Thiên
Chúa yêu thương nhiều hơn, tình thương lớn hơn của Chúa vượt quá cách
suy nghĩ tầm thường của con người. Như đã nói, nơi Thiên Chúa, chân lý
và tình yêu là một; nơi đức Kitô, chân lý và tình yêu là một; nơi mầu
nhiệm Nước Trời, chân lý và tình yêu cũng là một. Tính cách hoà hợp đó
cũng thể hiện nơi những gì được sáng tạo trong Ngôi Lời có từ muôn thuở
và sứ điệp Nước Trời của đức Giêsu. Tính cách hoà hợp ấy cũng thể hiện
trong mầu nhiệm cứu độ mà những ai biết Chúa Cha thì cũng biết Chúa
Giêsu… Thế nhưng, con người đã không dễ dàng thấy được sự hoà hợp ấy,
nên đã phân ly những gì Thiên Chúa đã nối kết; để rồi nhân danh chân lý
để làm những điều phản lại tình yêu, hoặc nhân danh tình yêu để làm
những điều sai trái.
Làm sao giữ được nét hoà, nét duy nhất giữa chân lý và tình yêu ?
Chúng ta có thể thấy
một chút ánh sáng hướng dẫn khi nhìn lại sự tiến triển về quan niệm mạc
khải từ công đồng Vatican I đến Vatican II. Trong khi, đối với Vatican
I, mạc khải là Thiên Chúa mạc khải những chân lý vô ngộ của Ngài, thì
đối với Vatican II, mạc khải lại là mạc khải chính bản thân của Chúa.
“Thiên Chúa nhân
lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết
mầu nhiệm thánh ý Ngài {X. Ep 1,9}. Nhờ đó, loài người có thể đến cùng
Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, ngôi Lời nhập thể trong Chúa Thánh Thần, và
được thông phần bản tính của Thiên Chúa {X. Ep 2,18; 2P 1,4}. (MK 2)
Chúng ta cũng biết,
Vatican II đã thêm vào một phương thức mạc khải của Thiên Chúa, Thiên
Chúa không chỉ mạc khải bằng Lời, nhưng còn bằng hành động. Cả Lời cũng
như hành động của Thiên Chúa đều chỉ là mạc khải chính bản thân Ngài.
Nơi bản thân Ngài, chân lý và tình yêu là một, và trong mạc khải cứu độ
của Ngài, chân lý cứu độ cũng như tình yêu cứu độ chỉ là một.
“Công cuộc mạc khải
này được thực hiện bằng các hành động và lời nói liên kết mật thiết với
nhau. Nên các việc Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử cứu rỗi bày tỏ,
củng cố giáo lý và những điều được giải thích qua lời nói. Còn lời nói
thì công bố các việc làm và khai sáng mầu nhiệm chứa đựng trong đó. Nhờ
mạc khải này, chân lý thâm sâu về Thiên Chúa cũng như về phần rỗi con
người được sáng tỏ nơi Chúa Kitô, Đấng trung gian, đồng thời là sự viên
mãn của toàn thể mạc khải” {MK 2a}.
Thật ra, con đường
của triết gia Parménide (khoảng 540-470), đồng nhất hữu thể với tư
tưởng, để rồi triết lý chỉ việc ráp nối các tư tưởng, chính con đường đó
đã chia lìa, phân đôi mọi thực tại, lãnh vực lý thuyết dần dần khác với
lãnh vực thực hành; rồi đến một lúc nào đó, lãnh vực siêu hình lại trái
ngược với lãnh vực luân lý. Ngược lại, từ tư tưởng của Héraclite
(khoảng 540-475), người ta thấy rằng : ở đỉnh cao minh triết, siêu hình
và luân lý đồng nhất với nhau; còn ở đáy sâu của thứ triết lý vụn vặt,
thì siêu hình[4] khẳng định một đàng, luân lý lại đòi hỏi một đàng khác. Đó cũng là con đường lãng quên hữu thể của triết học Tây phương.
Cũng gần giống như
vậy, chính con đường xa rời “bản thân Chúa”, khiến cho chân lý và tình
yêu xa rời nhau; khiến cho nhiều khi ta muốn thực hành chân lý thì lại
thấy ngược với đức ái, và nhiều khi thực hành đức ái thì lại ngược với
chân lý.
Cuộc sống nhân trần
thì không có sự đồng nhất tất nhiên giữa hai lãnh vực khác nhau, không
có sự hoà hợp dễ dàng giữa chân lý và đức ái, nhưng người tín hữu thì,
đúng ra, chỉ có một điều cần thiết mà thôi, đó là chọn Chúa Giêsu, theo
Chúa Giêsu. Chính bản thân Chúa Giêsu là Đường, là sự Thật và là sự Sống
(Xc. Ga 14,6), chứ không phải một con đường nào, một sự thật hay sự
sống nào khác. Người Kitô hữu chọn Chúa Giêsu thì chỉ có một tiêu chuẩn
duy nhất, đó là muốn những gì Chúa muốn, làm những gì đẹp ý Chúa… Cũng
thế, Thánh Thần, trong Tân Ước, không còn được hiểu là một năng lực mà
người tín hữu có thể chiếm hữu và “cất trong túi”, nhưng là một Đấng mà
người tín hữu chỉ có thể sống-với, để cho Ngài đồng hành và để Ngài
“nói” khi ta phải ra trước “công hội” (Xc. Mc 13,11).
Có con đường của
thánh Thomas, thiết tha đi tìm chân lý của Chúa, nhưng vẫn luôn là khát
vọng “con chỉ cần chính Chúa” như lời Thomas trả lời với Chúa trong
những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời; và có con đường của Martinô,
khởi đi từ tình thương, khám phá lòng nhân ái của Chúa đổ xuống những
người cùng khổ, và chính cách thức sống ấy trở nên một sự cật vấn cho
những người chỉ biết có một thứ chân lý khô khẳng. Cả hai con đường đó
đều là con đường tìm kiếm chính Chúa, tìm kiếm Nước Thiên Chúa, cả hai
đều là phương thức thể hiện con đường “tìm kiếm Nước Thiên Chúa” trước
hết (Xc. Mt 6,33). Đây chính là con đường của những vị thánh, khác với
con đường của những học giả hoặc những người làm việc xã hội thuần tuý.
Con đường tìm kiếm Thiên Chúa, “tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước” sẽ đưa
các thánh vượt qua những đối lập trong thế giới con người, để hoá giải
những đối lập ấy trong chính bản thân của Chúa Giêsu. Cái “trước” ở đây
không phải chỉ theo nghĩa thời gian, nhưng là một sự ưu tiên, một sự nắm
chắc lấy chính Chúa trong nỗi thiết tha đi tìm “Danh Cha, Nước Cha và Ý
Cha”. Những gì Ngài sẽ ban cho sau cũng không phải chỉ là của cải,
không phải chỉ là sự thành đạt, nhưng còn là nét hoà trong chân lý và
tình yêu mà trước đó ta chưa thấy được. Như thế, ai đó gắn bó với bản
thân Chúa Giêsu và thiết tha đi tìm Nước Thiên Chúa thì vẫn có thể hoặc
“đào bới sách vở”, hoặc “lấy đường phố làm phòng tu”.
Từ nẻo đường của
Martino, chúng ta có thể tìm ra động lực sám hối bằng con đường tình
yêu. Thay vì những hiểu lầm của người Do Thái về Đấng Mêsia quyền lực
cũng như về mầu nhiệm Nước Trời như vương quốc trần gian, người Kitô hữu
có thể khám phá thấy trong mầu nhiệm Nước Trời có động lực của mầu
nhiệm tình yêu của Thiên Chúa luôn cao hơn cách nghĩ của con người.
Chúng ta có thể chiêm ngắm huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa trong mầu
nhiệm Nước Trời, xét như một sự đảo ngược cách hiểu của con người, để
rồi nhận ra chính tình yêu thương lạ lùng của Thiên Chúa là căn nguyên
tạo nên mọi sự đảo ngược ấy. Tình yêu Thiên Chúa trở thành một thách đố
với cách hiểu thông thường, và thôi thúc sám hối. Sám hối là sám hối vì
tình yêu Thiên Chúa và sám hối là thay đổi não trạng để hiểu huyền nhiệm
tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, vì chính huyền nhiệm tình yêu cứu độ
của Thiên Chúa như một bóng dáng bao trùm và ẩn khuất trong mầu nhiệm
Nước Trời.
[1]
Xc. T/đ Caritas in veritate, s.1. Xin nói thêm : Deus caritas est /
Deus veritas est. Như vậy, nói đùa theo kiểu ngắn gọn hiện nay : Deus
Ca-ve-ritas est; mà cave lại có nghĩa là gái bao !!!, một loại người hèn
mọn được Chúa yêu thương và dẫn dắt đến chân lý cứu độ. Đây là “lý
luận” kiểu huyền nhiệm !!!
[3]
Gabriel Marcel cho chúng ta thấy sự khác biệt của “huyền nhiệm” và “vấn
đề”. Người ta thường hay tưởng lầm nhiều điều thuộc lãnh vực huyền
nhiệm nhưng không được chiêm ngắm mà lại được mang ra giải quyết như một
vấn đề.