KHOA LUÂN LÝ SINH HỌC
(Thời sự Thần học - Số 15 - Tháng 3/1999, tr. 7-12)
Bình Hòa
Một
trong những hệ luận của “luân lý sinh học” là một từ ngữ mà chúng tôi tạm dịch
từ bioéthique (pháp) hoặc bioethics (anh). Danh từ này được ghép bởi hai tiếng
hy lạp: bios (sự sống) và ethos (luân lý). Đây là một trong những lãnh vực có
liên quan đến đời sống hiện đại, vì sự tiến bộ của khoa học hiện đại về sự
sống.
Bài này
gồm ba phần:
- Lịch sử;
- Những nguyên tắc;
- Sự đóng góp của Giáo hội Công giáo.
I. Lịch sử
Danh từ “bioethics” xuất hiện vào năm 1970 khi Van Rensselaer Potter
xuất bản quyển sách mang tựa đề Bioethics: The Science of Survival (=
Luân lý sinh học, khoa học của sự tồn vong). Vào năm sau (1971), tác giả
cho ra đời một tác phẩm khác với tựa đề Bioethics: Brigde to the Future
(= Luân lý sinh học, cây cầu của tương lai). Potter đã phát biểu mối
quan tâm trước viễn tượng sống còn của tương lai nhân loại do hậu quả
của những khám phá mới của ngành sinh học (biology) mà ông gọi là “quả
bom sinh học”. Khoa sinh học sẽ trở thành trái bom đe dọa tương lai của
nhân loại thay vì mang lại sự thăng tiến phẩm chất của đời sống, nếu
khoa sinh học không biết đối thoại với các ngành khoa học nhân văn. Các
cuộc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cần được hướng dẫn bởi những quan
điểm về giá trị luân lý.
Các tác phẩm của Potter ra đời vào lúc mà các đại học y khoa bên Hoa Kỳ
bắt đầu du nhập môn nhân văn và luân lý dành cho các bác sĩ tương lai.
Vào thập niên 60, dư luận Hoa Kỳ xôn xao trước những nguồn tin về những
sự lạm dụng trong việc thí nghiệm trên cơ thể con người, việc khám thai,
việc xác định lúc nào thì một người coi như đã chết. Năm 1967, Viện Y
tế quốc gia (National Institute of Health) của Hoa Kỳ đã thiết lập một
Ủy ban để kiểm soát những cuộc thí nghiệm trên cơ thể con người. Với đà
ấy, hai trung tâm nghiên cứu đã được khai sinh: “The Institute of
Society, Ethics and the Life Sciences” tại Hastings Center, New York
(1969) và Kennedy Institute of Ethics, thuộc Đại học Georgetown, ở
Washington D.C. (1971), với mục tiêu là bắt cầu giữa khoa sinh học và
các khoa nhân văn. Nên biết là các người khởi xướng môn luân lý sinh học
hoàn toàn đứng bên ngoài ảnh hưởng của các tôn giáo. Những kết quả của
họ đã gây âm hưởng sâu rộng, không những tại Hoa Kỳ mà dần dần lan sang
cả bên Âu châu. Từ đó, ngành luân lý sinh học trở thành một môn học được
dạy ở các Đại học Y khoa. Hơn thế nữa, nhiều quốc gia còn thành lập một
Ủy ban Luân lý sinh học, để cố vấn cho Quốc hội và Chính phủ trong
những vấn đề luân lý và pháp luật mà việc khảo cứu sinh học, y khoa và y
tế đặt lên.
Khi mới ra đời, môn luân lý sinh học xem ra chỉ liên quan tới một số
chuyên viên về y học và sinh học. Nhưng dần dần dư luận cũng chú ý tới,
và đã mở rộng biên giới cho môn này: nó không còn phải là luân lý của
môn sinh học nữa, nhưng trở thành “luân lý của sự sống” có ảnh hưởng tới
hết mọi người. Thực vậy, bất cứ người nào cũng phải chạm trán với các
vấn đề: sinh, bệnh, lão, tử. Ta phải có thái độ như thế nào khi đương
đầu với chúng? Một cách cụ thể, những vấn đề thường được đặt ra là:
SINH :
thụ thai nhân tạo,
thụ thai trong ống nghiệm,
phá thai,
khám thai,
thí nghiệm trên bào thai,
ưu sinh (eugénisme).
BỆNH :
ghép bộ phận;
chuyển phái tính;
triệt sản,
chính sách y tế, cách riêng với người tàn tật;
LÃO và TỬ :
việc hồi sinh,
chết êm dịu,
tự tử,
quyền được chết;
việc thông báo cho bệnh nhân biết sắp chết;
việc sử dụng thi hài.
Trước những vấn đề ấy, ai có quyền quyết định: chính bác sĩ? người công
dân? nhà nước? Làm sao để tránh những quyết định độc đoán nếu không dựa
vào luân lý?
Thế nhưng khi nói về luân lý thì ta lại gặp một vấn nạn khác, đó là trên
đời này có nhiều nền luân lý khác nhau, tùy thuộc vào những môi trường
văn hóa khác nhau (luân lý Đông phương, Tây phương), hoặc tùy theo tôn
giáo (Kitô giáo, Phật giáo), triết thuyết (hiện sinh, mác xít, tiện ích,
v.v...). Không phải lúc nào các quan niệm ấy cũng đưa ra một giải đáp
đồng nhất trước một vấn đề cụ thể. Thế thì làm sao xây dựng một nền luân
lý khách quan có thể được hết mọi người chấp nhận, bất luận họ thuộc về
tôn giáo, chính kiến nào đi nữa?
II. Những nguyên tắc.
Đứng trước vấn nạn đó, nhiều học giả cho rằng không thể khởi hành từ một
nền luân lý đã có sẵn, nhưng nên bắt đầu bằng một vài nguyên tắc
(principes) dễ được hết mọi người chấp nhận, rồi dần dần sẽ tiếp tục
công cuộc thảo luận suy tư. Có hai nguyên tắc xem ra khá hiển nhiên
trong lãnh vực này:
- Tôn trọng sự sống,
- Tôn trọng sự tự quyết của nhân vị.
Thế nhưng đến lúc phải rút ra những hệ luận cụ thể thì người ta thấy có
rất nhiều khuynh hướng khác nhau để giải thích hai nguyên tắc vừa nói.
A. Tôn trọng sự tự quyết của mỗi cá nhân.
Nguyên tắc căn bản nhất trong lãnh vực y khoa là sự thỏa thuận của đương
sự: các bác sĩ chỉ được phép can thiệp khi có sự đồng ý của đương sự.
Nhưng trên thực tế, nhiều bệnh nhân được chở tới nhà thương khi mà đầu
óc của họ không còn tỉnh táo, hay là những nhi đồng: thế thì ai phải
quyết định? Hơn thế nữa, rất nhiều lần các bệnh nhân tỉnh táo và sáng
suốt cũng không lường trước hậu quả của những cuộc thí nghiệm hoặc chữa
trị mà các bác sĩ đề nghị: đương sự được hỏi ý kiến cho có lệ, chứ chẳng
có giá trị quyết định gi hết.
B. Tôn trọng sự sống.
Hình như các tôn giáo trên thế giới cũng như các dân tộc đều chấp nhận
nguyên tắc về việc phải tôn trọng sự sống, ít là trong cách thức phát
biểu tiêu cực: “cấm giết người”. Thế nhưng, lịch sử cho thấy rằng có
nhiều lý thuyết khác nhau phải giải thích lý do tại sao phải tôn trọng
mạng sống; đó là chưa kể những trường hợp được phép cắt đứt sự sống.
1) Một số tôn giáo và triết học chủ trương rằng phải tôn trọng mạng sống
vì tính cách thánh thiêng (sacré) của nó. Còn những nhà khoa học không
muốn đụng tới tín ngưỡng thì nói tới sự sống như là một giá trị
(valeur), mà họ có trách nhiệm phải nâng cao “phẩm chất” (qualité). Tuy
nhiên, hạn từ “phẩm chất” không tránh được tính chất hàm hồ của nó. Có
người hiểu “phẩm chất” theo nghĩa hoàn toàn duy vật, để rồi tự tiện khai
trừ những thành phần tật nguyền vì họ chỉ làm gánh nặng cho xã hội chứ
không góp phần vào việc sản xuất. Có người hiểu “phẩm chất” theo nghĩa
là thăng tiến điều kiện sống, sao cho cuộc đời cảm thấy thoải mái sung
sướng. Có người hiểu “phẩm chất” theo chiều kích tinh thần khiến cho
cuộc sống của con người khác biệt với sự sống của loài thực vật và động
vật.
2) Trước những cuộc tranh luận bất tận về ý nghĩa và giá trị của sự
sống, người ta muốn tìm về một giải pháp đơn giản hơn. Xưa nay hầu hết
các bác sĩ trên thế giới trước khi ra trường đều phải giơ tay đọc “lời
thề của Hyppocrate” (y sĩ người Hy lạp, khoảng 460-377 trước công lịch);
tại sao không dựa vào đó để làm nền tảng cho luân lý sinh học?
(déontologie médicale; bởi tiếng hy lạp “deontos": bổn phận).
Một vài tác giả đã diễn tả lời thề cổ truyền ra ba nguyên tắc sau:
a/ nguyên tắc làm tốt (beneficentia), với hai cách thức phát biểu:
“không được làm hại” (non nocere: do not harm), và “hãy cố gắng tìm giải
pháp tốt nhất để làm ích cho bệnh nhân;
b/ nguyên tắc lòng tốt (benevolentia): phải tận tâm săn sóc bệnh nhân;
c/ nguyên tắc tín nhiệm (confidentialité): không bao giờ được tiết lộ những bí mật về đời tư của bệnh nhân.
III. Sự đóng góp của Giáo hội công giáo.
Như đã nói trên đây, môn luân lý sinh học đã ra đời ở ngoài khuôn khổ
của các tôn giáo. Đây là một dấu chỉ tích cực, nói lên sự cần thiết của
khoa học hiện đại muốn đi tìm những quy tắc luân lý để hướng dẫn các
cuộc khảo cứu của mình. Thực vậy, khoa học mà thiếu lương tâm thì sẽ đưa
nhân loại tới chỗ diệt vong. Thần học công giáo mong được đóng góp phần
của mình vào khoa luân lý sinh học dựa trên kinh nghiệm cổ truyền và sự
đối thoại với các môn nhân văn (triết học, tâm lý, xã hội, v.v...).
Thực vậy, trong các đại học công giáo và các chủng viện, môn luân lý y
khoa (Éthique médicale) đã được giảng dạy từ lâu đời. Cách riêng, đức
Piô XII đã bắt đầu lên tiếng về những vấn đề mà khoa học đặt ra cho sự
sống, thí dụ: sự thụ thai nhân tạo; sự ưu sinh, sự chết êm, v.v... Giáo
huấn của Giáo hội được kiện toàn dần dần, không những khi phải đương đầu
với từng vấn đề cụ thể được nêu lên, nhưng còn phải tìm hiểu những
nguyên tắc nền tảng của luân lý dựa trên phẩm giá của con người.
Trong những văn kiện của Bộ giáo lý đức tin, chúng ta có thể kể tới:
Tuyên ngôn về việc phá thai (18-11-1974), Tuyên ngôn về Chết êm
(5-5-1980); Huấn thị Donum vitae về sự tôn trọng sự sống mới chớm và về
phẩm giá của sự truyền sinh (22-2-1987).
Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo cũng đã dành nhiều đoạn cho những vấn đề luân lý sự sống. Thí dụ: số 2270 - 2274
(phá thai, khám thai, thử nghiệm trên bào thai); 2276-2279 (chết êm);
2288-291 (tôn trọng sức khoẻ); 2292-2296 (thí nghiệm trên thân thể; ghép
cơ thể); 2375-2378 (thụ thai nhân tạo)
Vào tháng 11 năm 1994, Hội đồng Tòa thánh đặc trách Mục Vụ cho các nhân
viên y tế đã xuất bản một văn kiện mang tựa đề Hiến chương của các nhân
viên y tế (Carta degli operatori sanitari), nhằm trình bày cách mạch lạc
giáo huấn của Giáo hội trong lãnh vực luân lý sinh học.
0 Nhận xét